Mục lục
Mở đầu Trang 1
I. Sự ra đời máy tính và ngành sản xuất máy tính Trang 1
II. Ngành sản xuất phần mềm máy tính Trang 11
1. Lịch sử phát triển công nghệ phần mềm Trang 11
2. Một số phần mềm phổ biến Trang 12
a. Trình duyệt Trang 12
b. Hệ điều hành Trang 16
III. ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC CÔNG TY VIỄN THÔNG Trang 22
1. Cáp quang Trang 22
2. Bong bóng hình thành Trang 23
3. Bong bóng nổ Trang 24
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8473 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lịch sử ra đời máy vi tính-Sự ảnh hưởng của máy vi tính đến hoạt động kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00 ký tự và một ổ đĩa để lưu trữ các chương trình và dữ liệu . Tại thời điểm này, chỉ có Apple và TRS có máy với ổ đĩa. Với sự giới thiệu của ổ đĩa, đĩa mềm xuất hiện như là sự phân phối phần mềm thuận tiện nhất.
IBM, ở thời điểm này đang sản xuất máy tính lớn và máy tính nhỏ cho các công ty cỡ trung và cỡ lớn, quyết định phải hành động và bắt đầu nghiên cứu và cho ra mắt Acorn, mà sau này được gọi là IBM PC, đây là máy tính đầu tiên được thiết kế cho thị trường cá nhân. Tuy nhiên, hầu hết các linh kiện lại không do IBM chế tạo, do đó đẩy chi phí lên quá cao so với thị trường máy tính cá nhân. Nó được trình làng kèm với một bộ nhớ 16.000 ký tự, bàn phím máy đánh chữ điện từ IBM, và kết nối với máy nghe băng cassette ,với giá $ 1265.
Đến năm 1984, Apple và IBM đã cho ra các mô hình mới. Apple phát hành Macintosh thế hệ đầu tiên, đó là máy tính đầu tiên để đến với một giao diện người dùng đồ họa (GUI) và chuột. GUI làm cho máy nhiều hấp dẫn hơn cho người dùng máy tính ở nhà bởi vì nó đã được dễ dàng sử dụng. Doanh số bán hàng của Macintosh tăng vọt chưa từng thấy. IBM đã nhanh chóng theo đuôi Apple và phát hành 286-AT, mà với các ứng dụng như Lotus 1-2-3, một bảng tính và Microsoft Word, nhanh chóng được các doanh nghiệp yêu thích.
Phần mềm là cần thiết để các máy tính chạy tốt. Năm 1981,Microsoft phát triển hệ điều hành MS-DOS trong máy tính của IBM, trong khi Apple phát triển hệ thống phần mềm riêng của mình.
Mục tiêu chính của những nhà sản xuất máy tính là tăng tốc độ xử lý, độ chính xác và dung lượng. Gần như mọi nhà sản xuất máy tính thực hiện điều này và các máy tính hiện lên ở khắp mọi nơi. Máy tính sử dụng trong doanh nghiệp để theo dõi hàng tồn kho, sử dụng trong các trường đại học để giúp đỡ sinh viên trong nghiên cứu, thực hiện các tính toán phức tạp tốc độ cao trong các phòng thí nghiệm.
Máy tính đã có mặt ở khắp mọi nơi và xây dựng một ngành công nghiệp lớn. Năm 1994, ngành công nghiệp này sử dụng 354.000 lao động và làm tăng 1,9 phần trăm lao động trong các ngành sản xuất năm 1994. Điều này so sánh với 4,9 phần trăm trong ngành chế tạo động cơ và thiết bị xe, 2,6 phần trăm ngành máy bay, và 3,7 phần trăm ngành dệt may thì nó chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Song nếu xét về mặt kinh tế, ngành công nghiệp này có giá trị các lô hàng lên tới $ 77000000000 năm 1993 và chiếm 2.5 phần trăm giá trị của tất cả các lô hàng trong các ngành sản xuất.
Tương lai đầy hứa hẹn cho ngành công nghiệp máy tính và công nghệ. Tốc độ bộ vi xử lý sẽ tăng nhanh chóng trong những năm tới. Khi kỹ thuật sản xuất tiếp tục được hoàn thiện, giá dự kiến sẽ giảm dần . Tuy nhiên, kể từ khi công nghệ vi xử lý sẽ được tăng lên, đó là chi phí cao hơn sẽ bù đắp sự sụt giảm giá các bộ xử lý cũ hơn. Nói cách khác, giá của một máy tính mới sẽ ở lại về cùng một từ năm này sang năm, nhưng công nghệ ổn định sẽ tăng .
Kể từ khi kết thúc Thế chiến II, ngành công nghiệp máy tính đã phát triển từ những viên gạch đầu tiên đã trở thành một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và lợi nhuận cao nhất tại Hoa Kỳ. Hiện nay bao gồm hàng ngàn công ty, làm mọi thứ từ siêu máy tính có giá trị hàng triệu đô la đến giấy in và đĩa mềm. Nó sử dụng hàng triệu lao động và tạo ra hàng chục tỷ đô la doanh thu mỗi năm. Chắc chắn, các máy tính đã tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống của người dân. Nó có ảnh hưởng đến cách mọi người làm việc và vui chơi. Nó làm cuộc sống dễ dàng hơn bằng cách thực hiện công việc khó khăn cho con người. Máy tính thực sự là một trong những phát minh đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử.
Có cầu là sẽ có cung. Đúng vậy, trước những nhu cầu người dùng về sự nhỏ gọn, dễ dàng di chuyển của một cái máy tính thì Laptop ra đời.
Năm 1981, chiếc laptop đầu tiên ra đời với hình dáng một chiếc vali lớn nặng hơn 9 kg. Sản phẩm được đặt tên là Osborne 1. Được nhà sáng chế người Mỹ Adam Osborne chế tạo vào năm 1981, Osborne 1 vô cùng "giản dị" với vi xử lý Zilog Z80 4 MHz, "tằn tiện" với bộ nhớ RAM tích hợp 64 KB, cùng hai đĩa mềm 5,25 inch và màn hình đen trắng có độ phân giải 52 x 24 pixel. Nó được bán với giá $ 1.795, được coi là một thành công vượt bậc với doanh thu đạt 10.000 đơn vị / tháng. Vào tháng Chín năm 1981, Công ty máy tính Osborne Hoa Kỳ đã lần đầu tiên đạt mức doanh thu $1.000.000 một tháng.
Chiếc Laptop đầu tiên thế giới
Năm 1989 đánh dấu sự "lột xác" đầu tiên của laptop. Compaq LTE bắt đầu mang dáng dấp của những chiếc laptop hiện đại, nhỏ gọn hơn nhiều so với Osborne 1. Nó có trọng lượng chỉ hơn 3 kg một chút và có thiết kế không khác mấy so với những mẫu laptop hiện tại và khác xa với "gã khổng lồ thô kệch" mà "tằn tiện" Osborne 1. Compaq LTE sở hữu bộ vi xử lý Intel 8086 xung nhịp 9,55 MHz, bộ nhớ RAM 640 KB và ổ đĩa cứng 20 MB. Máy có màn hình đen trắng hiển thị tốt với độ phân giải 640 x 200 pixel.
Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của dòng ThinkPad với series 700 với phím điều khiển con trỏ, nay gọi là trackpad. Đây chính là hình mẫu sơ khai của những chiếc laptop doanh nhân Lenovo IBM ThinkPad nổi tiếng hiện nay. Trackpad hay còn gọi là pointing stick trên series 700 giúp người sử dụng di chuyển con trỏ một cách chính xác. Máy sử dụng chính vi xử lý IBM 486 SLC 25 MHz, RAM 4 MB. Ổ cứng 80 MB hoặc 120 MB, cùng màn hình màu có độ lớn 9,5 inch độ phân giải 640 x 480 pixel.
Apple PowerBook series 500 ra đời năm 1993 chính là hình mẫu hoàn chỉnh của laptop hiện đại. Đây là laptop đầu tiên có touchpad, hệ thống xử lý âm thanh 16-bit, hệ thống loa stereo và rất nhiều điều mới mẻ khác đã trở thành phổ thông trong laptop hiện đại. 5 máy trong dòng PowerBook series 500 của Apple đều có bộ nhớ RAM 4 MB, nhiều lựa chọn về màn hình với độ lớn từ 9,5 đến 10,4 inch, cùng độ phân giải 640 x 400 pixel, vi xử lý xung nhịp từ 25 đến 33 MHz và ổ đĩa cứng HDD dung lượng mở rộng từ 160 đến 75 0MB.
1993, Thị phần của máy tính cá nhân trên toàn thế giới trong năm: IBM 10,8%, Apple Computer 9,4%, 8,1% Compaq Computer.
Đến năm 1994, đã có sự thay đổi với sự soán đổi vị trí của các đại gia trong ngành máy tính, thị phần của máy tính cá nhân trên toàn thế giới trong năm: 10,3% Compaq Computer, Apple Computer 9,4%, IBM 8,5%.
HP Jornada 820 ra đời năm 1998 là mẫu laptop đầu tiên thể hiện ý tưởng netbook - loại laptop mini đang rất được ưa chuộng.
1999, IBM thông báo sẽ ngừng bán máy tính cá nhân trong các cửa hàng bán lẻ, tập trung vào việc bán hàng trực tiếp, Internet, và các kênh khác.
Acer Travelmate C100 ra mắt năm 2000 là máy tính bảng màn hình xoay đầu tiên. Nó được trang bị màn hình 10,4 inch, độ phân giải 1.024 x 768 pixel có thể xoay chỉnh ở các góc độ mong muốn và rất "chuyên nghiệp" - có thể gập ngang ngay trên bề mặt bàn phím, phục vụ việc ghi chép một cách thuận tiện. TravelMate C100 có trọng lượng gần 1,5 kg, sử dụng vi xử lý Intel Pentium 3 900 MHz, bộ nhớ RAM 512 MB và ổ cứng HDD dung lượng 40 GB.
2005, Lenovo của Trung Quốc hoàn tất việc mua lại các doanh nghiệp máy tính cá nhân của IBM.
HP Pavilion dv2000 series (2006) mở đầu cho thời kỳ laptop song hành cùng thời trang. Dòng máy này có thiết kế đẹp, vỏ máy đen bóng - màu đen nghệ thuật của những chiếc đàn piano, sử dụng công nghệ sơn phủ bề mặt độc đáo HP Imprint với những họa tiết lượn sóng hay hình rồng tinh tế. Sự trau chuốt trong thiết kế của HP đã ảnh hưởng tới các hãng khác như Dell và Gateway, hai hãng này thời gian sau đó, đã rất nỗ lực trong việc cải thiện hình ảnh sản phẩm của mình nhằm đưa ra thị trường những mẫu máy đẹp và ưa nhìn hơn.
Asus Eee PC 701 xuất hiện trên thị trường năm 2007 đánh dấu một xu thế phát triển mới của thị trường laptop và ngành công nghiệp PC. Sản phẩm này tiên phong cho trào lưu laptop mini hay còn gọi là netbook.
Eee PC 701 có màn hình 7 inch, độ phân giải 800 x 480 pixel, RAM 512 MB, ổ cứng thể rắn 4 GB, thiết kế nhỏ gọn, nặng chưa đầy 1 kg. Nhược điểm của nó, cũng như là đặc tính cố hữu của các netbook sau này, là bàn phím chật hẹp và màn hình nhỏ. Để xem nội dung các trang web, bạn phải cuộn ngang chiều rộng màn hình để xem đầy đủ. Song với mức giá 399 USD, sản phẩm này đã khuấy động thị trường laptop giá rẻ và khiến các hãng sản xuất laptop khác như Acer, MSI, HP, Lenovo, Dell, và cả Samsung không thể đứng ngoài cuộc chơi.
Apple MacBook Air (2008) khiến thị trường phải "định nghĩa lại" thế nào là laptop siêu di dộng. Cho dù Dell Adamo hay HP Voodoo Envy 133 có được coi là siêu phẩm, là tuyệt tác của laptop siêu di động thì danh hiệu laptop mỏng, nhẹ đầu tiên thế giới vẫn thuộc về Apple MacBook Air. Chiếc máy này đã phải đánh đổi một số cổng kết nối thiết bị ngoại vi để có thân máy "mảnh dẻ" và trọng lượng siêu nhẹ, khoảng 1,4 kg. Song tính cơ động cao của máy và sự chuyên nghiệp trong xử lý lại được đánh giá cao, với cấu hình gồm vi xử lý Intel Core 2 Duo, RAM 2 GB, và ổ cứng 80 GB.
2010, Apple cho ra mắt máy tính bảng iPad. Đơn vị tính năng sẵn có Wi-Fi và 9,7-inch hiển thị màn hình cảm ứng. Giá là US $ 499-829. Với tổng doanh số bán hàng ngày đầu tiên trên 300.000 đơn vị. Giá trị thị trường của Apple (US $ 222.000.000.000) lần đầu tiên vượt qua Microsoft (US $ 219.000.000.000) kể từ ngày 19 tháng 12,1989. Apple cổ phiếu có giá trị hơn 10 lần so với 10 năm trước đây, trong khi cổ phiếu Microsoft đã giảm 20 phần trăm so với cùng thời gian.
Và với xu hướng hiện nay ưa chuộng sự tiện lợi, nhỏ gọn dễ di chuyển, thời trang kèm với thời lượng pin cũng nhỉnh hơn laptop thì máy tính bảng cũng đang được giới trẻ hết sức quan tâm và trở thành thị trường tiềm năng cho các nhà sản xuất.
II. Ngành sản xuất phần mềm máy tính:
Hẳn ai cũng biết Google, Microsoft, Apple là 3 hãng công nghệ hàng đầu hiện nay. Dù khủng hoảng kinh tế tại Mỹ vẫn còn dư âm nhưng doanh thu của những tập đoàn này vẫn liên tục tăng và cạnh tranh gay gắt với nhau làm cho thị trường công nghệ vẫn luôn sôi động. Apple với doanh thu năm ngoái là 15,68 tỷ USD thì mới đây Apple công bố doanh thu của quý đầu tiên năm tài chính 2011 là 26,74 tỷ USD với lợi nhuận lên đến 6 tỷ USD. Microsoft với 9 sản phẩm phần mềm trên 10 sản phẩm thành công nhất năm 2010. Google đạt doanh thu 29 tỷ năm 2010. Bill Gates, tỷ phú giàu nhất nước Mỹ với tài sản lên đến 80 tỷ USD (năm 2009) là cha đẻ của tập đoàn Microsoft. Những điều này cho thấy ngành công nghệ nói chung và công nghệ phần mềm máy tính nói riêng là ngành trí tuệ đầy tiềm năng.
Lịch sử phát triển công nghệ phần mềm :
Thập niên 1940 : Các chương trình máy tính được viết bằng tay
Thập niên 1950 : Các công cụ đầu tiên xuất hiện như là phần phiên dịch Macro Assembler và phần mêm thông dịch đã được tạo ra và sử dụng rộng rãi để nâng cao năng suất và chất lượng. Các trình dịch được tối ưu hóa lần đầu tiên ra đời.
Thập niên 1960 : Các công cụ của thế hệ thứ hai như các trình dịch tối ưu hóa và công việc kiểm tra mẫu đã được dùng để nâng cao sản phẩm và chất lượng. Khái niệm công nghệ phần mềm được bàn thảo rộng rãi.
Thập niên 1970 : Các công cụ phần mềm, chẳng hạn trong UNIX các vùng chứa mã, lệnh make,… được kết hợp với nhau. Số lượng doanh nghiệp nhỏ về phần mềm và số lượng máy tính cỡ nhỏ tăng nhanh.
Thập niên 1980 : Các PC và máy trạm ra đời. Cùng lúc đó có sự xuất hiện mô hình dự đoán khả năng. Lượng phần mềm tiêu thụ tăng mạnh.
Thập niên 1990 : Phương pháp lập trình cực hạn được chấp nhận rộng rãi. Trong thập niên này, word wide web và các thiết bị cầm tay phổ biến rộng rãi.
Hiện nay : Các phần mềm biên dịch và quản lý như .NET, PHP và Java làm cho việc viết phần mềm trở nên dễ dàng hơn.
Một số phần mềm phổ biến :
Công nghệ phần mềm là ngành công nghệ thuộc về trí tuệ. Trí tuệ con người là vô hạn, vì thế phần mềm được sản xuất ra cũng tỷ lệ thuận với nó. Chúng ta khó có thể thống kê được số phần mềm đã, đang và sẽ được sử dụng. Điều này chứng tỏ được rằng ngành công nghệ phần mềm chứa đựng tiềm năng phát triển rất lớn. Sau đây là một số phần mềm phổ biến.
Trình duyệt:
Sự ra đời của máy tính đã tạo tiền đề thúc đẩy cho hàng loạt các nhà sản xuất trình duyệt và ứng dụng đua nhau cạnh tranh mạnh mẽ, liên tục và không ngừng để chiếm lĩnh thị trường. Từ những ông vua sừng sỏi trong ngành cho đến những nhà sản xuất nhỏ lẻ đều muốn mau chóng khẳng định vị thế chỗ đứng cho doanh nghiệp mình trong lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng này đón đầu với xu thế thế giới bên cạnh sự phát triển và cải tiến không ngừng của máy tính. Nói đến trình duyệt, có lẽ người dùng máy tính nào cũng biết. Ngày nay, có khá nhiều trình duyệt đang tồn tại và phát triển cùng nhau. Nó giúp người ta có thể đọc được dữ liệu được viết dưới ngôn ngữ lập trình nhằm mục đích cho thương mại điện tử, tiếp cận thông tin và thường là thông qua đường truyền internet. Dù chỉ là một ứng dụng trên máy tính nhưng nó đã gây những cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty với nhau. Có thể nói vì doanh thu, lợi nhuận mà trình duyệt mang lại đã làm các công ty ganh đua nhau trên thương trường. Cuộc cạnh tranh diễn ra từ khi trình duyệt đầu tiên ra đời như sau :
Ngày 13 tháng 10 năm 1994, tập đoàn Mosaic Communications (sau đổi tên thành Netscape Communications) đã giới thiệu phiên bản beta của trình duyệt Mosaic Netscape, sau này được đổi tên thành Netscape Navigator. Phiên bản 1.0 của Navigator được phát hành vào ngày 15 tháng 12 trong cùng năm này. Đây là trình duyệt đầu tiên, tạo tiền đề cho sự phát triển trình duyệt sau này. Mới ra đời, Navigator nhanh chóng trở thành ông vua trên lãnh địa trình duyệt khi thâu tóm tới hơn 90% thị phần trình duyệt. Không chỉ thế nó còn tạo ra hiện tượng bong bóng trên cả thị trường chứng khoán với sự lên giá chóng mặt của giá cổ phiếu mà nó phát hành.
Không để cho ông vua này tiếp tục làm mưa làm gió, năm 1995 Microsoft đã ranh mãnh tích hợp chặt trình duyệt Internet Explorer vào hệ điều hành Windows. Năm 2000, thị phần của Netscape rơi xuống dưới mức báo động 1% và dần mai một cho tới năm 2008 thì ngừng phát triển. Ngày 24 tháng 8 năm 1995, Microsoft bắt đầu phát hành trình duyệt Internet Explorer phiên bản 1.0 được tích hợp chặt vào hệ điều hành Windows 95. "Mánh khóe" này là nguyên nhân cốt lõi khiến cho IE ngày càng trở nên phổ biến nên chỉ trong vòng 2 năm kể từ khi chào đời, Internet Explorer đã có trong tay 49% thị phần trình duyệt, chính thức giúp người khổng lồ phần mềm phế truất ngôi vị độc tôn của Netscape trong cuộc đua các nhà cung cấp trình duyệt. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, công ty phần mềm Opera Software đã giới thiệu trình duyệt web đầu tiên của hãng chạy trên hệ điều hành Windows mang tên Opera 2.1. Tuy nhiên, kể từ đó cho tới lần cập nhật gần đây nhất (ngày 1 tháng 9 với phiên bản Opera 10), thành tích của hãng phần mềm có trụ sở tại Nauy không được vang dội cho lắm khi thị phần Opera chỉ chiếm trung bình 1,1% thị trường trình duyệt với 40 triệu người dùng máy tính cùng 30 triệu người sử dụng Opera Mini trên điện thoại di động. Tháng 2 năm 1998, Netscape đang phải chịu sức ép vô cùng lớn từ phía Microsoft với số thị phần trình duyệt đã đảo lộn hoàn toàn so với 4 năm trước đó: Netscape: 28% và Microsoft 69%. Ngày 23 tháng 2 năm 2008, Mozilla Organization được Netscape thành lập trên danh nghĩa nhà phát triển mã nguồn mở cung cấp phiên bản miễn phí cho trình duyệt của hãng. Tháng 7 năm 2003, Mozilla Organization được đổi tên thành Mozilla Foundation và trở thành cái nôi sinh ra Mozilla Firefox vào năm sau đó.
Ngày 18 tháng 5 năm 1998, Bộ tư pháp Hoa Kỳ tiến hành một vụ kiện chống độc quyền nhằm vào Microsoft vì hành động tích hợp chặt Internet Explorer vào hệ điều hành Windows vốn có mặt trên 95% PC toàn cầu. Với sự ra mặt của công tố viên David Boies (ảnh), bộ tư pháp đã thắng vụ này và khiến cho gã khổng lồ xứ Redmond phải cắn răng chia sẻ giao diện lập trình ứng dụng API cho các các công ty đối thủ kể từ năm 2001 cho tới tháng 11 năm nay.
Ngày 24 tháng 11 năm 2008, AOL đã bỏ ra 4,2 tỷ USD để thu phục Netscape, song dù đã cố gắng hết sức nhưng AOL cũng không đủ khả năng vực dậy được Netscape Navigator dưới sự kìm kẹp của Internet Explorer. Tháng 12 năm 2007, Navigator coi như bị khai tử khi AOL tuyên bố ngừng mọi hỗ trợ dành cho biểu tượng Internet lẫy lừng một thời này. Không chịu lép vế trước kình địch Microsoft, ngày 7 tháng 1 năm 2003, Apple đã phát hành phiên bản beta của Safari – sau đó trở thành chuẩn trình duyệt được tích hợp vào các hệ điều hành Mac. Tháng 6 năm 2007, Apple cung cấp thêm 1 bản Safari dành cho các hệ điều hành Windows XP và Windows Vista. Ngoài ra, Safari còn được sử dụng trên 3 đời smartphone bom tấn iPhone của nhà táo. Tháng 6 năm 2009, Safari được nâng cấp lên phiên bản 4 với vô số cải thiện về tốc độ duyệt web, khả năng tương thích Windows cùng nhiều hiệu ứng đẹp mắt. Tuy gây ra được hiệu ứng khá lớn với kỷ lục 11 triệu bản được download trong 3 ngày đầu phát hành, tuy nhiên cho tới nay, thị phần của Safari vẫn chỉ ở mức khiêm tốn với không quá 1% thị trường trình duyệt.
Từ khi ra mắt vào ngày 9 tháng 2 năm 2008, Firefox ngày càng chứng tỏ mình là một đối thủ không thể xem thường khi liên tục bám đuổi và giành giật từng chút thị phần với Internet Explorer. Sau 5 năm phát triển, “cáo lửa” đã có trong tay 19,2% thị phần trình duyệt. Google bắt đầu tung ra phiên bản beta của trình duyệt mã nguồn mở Google Chrome vào ngày 2 tháng 9 năm 2009, ban đầu chạy trên hệ điều hành Microsoft Windows. 4 tháng sau, Google tiếp tục đưa đến tay các nhà phát triển một phiên bản Chrome khác hỗ trợ các hệ thống Linux và Apple Macintosh. Hiện nay, Chrome đã được nâng cấp lên phiên bản 3, mang nhiều ưu điểm vượt trội so với các trình duyệt đối thủ như thanh tìm kiếm thông minh Omnibox, chế độ duyệt web riêng tư, tốc độ duyệt web siêu nhanh cùng một giao diện cực kỳ thoáng và rộng rãi.
Đáp trả lại sự trỗi dậy mạnh mẽ của hàng loạt đối thủ cạnh tranh như Firefox, Safari, Opera và Chrome, ngày 19 tháng 3 năm 2009, Microsoft đã tung ra phiên bản 8.0 của trình duyệt lão làng Internet Explorer. Theo Microsoft quảng cáo, đây sẽ là trình duyệt an toàn, ổn định và nhanh nhất của công ty từ trước tới nay. Phiên bản 8 bổ sung một số cải tiến đáng chú ý như Web slice, Multiple tabs, tăng tốc lướt web, chế độ duyệt web riêng tư… Đây còn được hiểu là nỗ lực cứu vãn tình thế khi người khổng lồ nhận ra tầm ảnh hưởng của Internet Explorer đang ngày càng thu hẹp dần khi số thị phần trình duyệt mà hãng nắm giữ đã tụt xuống chỉ còn 68% ở thời điểm hiện tại.
Logo firefox
Ngày 30 tháng 6 năm 2009, Mozilla chính thức phát hành Firefox 3.5, phiên bản mới nhất của firefox với nhiều cải tiến đáng khích lệ về tốc độ, tính bảo mật cùng nhiều tiện ích bổ sung. Dù không phải là trình duyệt nhanh nhất hiện nay, tuy nhiên Firefox 3.5 đang ngày càng trở nên hấp dẫn với số thị phần không ngừng được nâng cao. Ở phiên bản này, người dùng có thể xem video không cần plug-in, tìm kiếm các nhà hàng hay cửa hiệu bán lẻ gần nhất và đặc biệt, firefox 3.5 bổ sung chức năng duyệt web riêng tư – tính năng đã được cung cấp trước đó ở 3 trình duyệt đối thủ là Chrome, Safari và Internet Explorer. Theo các số liệu từ Mozilla, hiện nay trên thế giới đã có hơn 300 triệu người chơi với “cáo lửa”. Ngày 13 tháng 8 năm 2009, Marc Andreessen, cha đẻ của Netscape, đã tiết lộ với tờ New Yorks Time rằng ông đang nuôi hoài bão sẽ gây dựng lại tên tuổi cho đứa con cưng từng một thời vang bóng, và phiên bản 2 của Netscape sẽ có tên là RockMelt. Dự án vẫn còn trong giai đoạn trứng nước, tuy nhiên giới công nghệ được dịp đoán già đoán non rằng trình duyệt mới có thể sẽ tập trung chủ yếu để tối ưu hóa chức năng của các mạng xã hội như Facebook, Myspace, Twitter...
Hệ điều hành :
Nếu con người có bộ não để điều khiển mọi hoạt động của cơ thể thì máy tính có hệ điều hành để vận hành. Thực ra hệ điều hành là một phần mềm đặc biệt, khi có nó các phần mềm khác trên máy tính mới có thể cài đặt và chạy được. Trước kia, hệ điều hành chỉ được sử dụng trên máy tính nhưng hiện nay nó được cài đặt trên một số loại thiết bị cầm tay. Những công ty nổi tiếng cung cấp hệ điều hành hiện nay như Microsoft với Windows, Apple với Linux trên các máy Mac, Honeycomb - hệ điều hành di động dành riêng cho máy tính bảng di động của Google. Hàng năm họ thu được một khoản khổng lồ từ bán bản quyền hệ điều hành. Hệ điều hành được phá triển qua nhiều thế hệ cụ thể như sau :
Thế hệ 1 (1945 - 1955)
Vào khoảng giữa thập niên 1940, Howard Aiken ở Havard và John von Neumann ở Princeton, đã thành công trong việc xây dựng máy tính dùng ống chân không. Những máy này rất lớn với hơn 10000 ống chân không nhưng chậm hơn nhiều so với máy rẻ nhất ngày nay. Mỗi máy được một nhóm thực hiện tất cả từ thiết kế, xây dựng lập trình, thao tác đến quản lý. Lập trình bằng ngôn ngữ máy tuyệt đối, thường là bằng cách dùng bảng điều khiển để thực hiện các chức năng cơ bản. Ngôn ngữ lập trình chưa được biết đến và hệ điều hành cũng chưa nghe đến.
Vào đầu thập niên 1950, phiếu đục lổ ra đời và có thể viết chương trình trên phiếu thay cho dùng bảng điều khiển.
Thế hệ 2 (1955 - 1965)
Sự ra đời của thiết bị bán dẫn vào giữa thập niên 1950 làm thay đổi bức tranh tổng thể. Máy tính trở nên đủ tin cậy hơn. Nó được sản xuất và cung cấp cho các khách hàng. Lần đầu tiên có sự phân chia rõ ràng giữa người thiết kế, người xây dựng, người vận hành, người lập trình, và người bảo trì. Để thực hiện một công việc (một chương trình hay một tập hợp các chương trình), lập trình viên trước hết viết chương trình trên giấy (bằng hợp ngữ hay FORTRAN) sau đó đục lỗ trên phiếu và cuối cùng đưa phiếu vào máy. Sau khi thực hiện xong nó sẽ xuất kết quả ra máy in. Hệ thống xử lý theo lô ra đời, nó lưu các yêu cầu cần thực hiện lên băng từ, và hệ thống sẽ đọc và thi hành lần lượt. Sau đó, nó sẽ ghi kết quả lên băng từ xuất và cuối cùng người sử dụng sẽ đem băng từ xuất đi in. Hệ thống xử lý theo lô hoạt động dưới sự điều khiển của một chương trình đặc biệt là tiền thân của hệ điều hành sau này. Ngôn ngữ lập trình sử dụng trong giai đoạn này chủ yếu là FORTRAN và hợp ngữ.
Thế hệ 3 (1965 - 1980)
Trong giai đoạn này, máy tính được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng như trong thương mại. Máy IBM 360 là máy tính đầu tiên sử dụng mạch tích hợp (IC). Từ đó kích thước và giá cả của các hệ thống máy giảm đáng kể và máy tính càng phỗ biến hơn. Các thiết bị ngoại vi dành cho máy xuất hiện ngày càng nhiều và thao tác điều khiển bắt đầu phức tạp. Hệ điều hành ra đời nhằm điều phối, kiểm soát hoạt động và giải quyết các yêu cầu tranh chấp thiế bị. Chương trình hệ điều hành dài cả triệu dòng hợp ngữ và do hàng ngàn lập trình viên thực hiện. Sau đó, hệ điều hành ra đời khái niệm đa chương. CPU không phải chờ thực hiện các thao tác nhập xuất. Bộ nhớ được chia làm nhiều phần, mỗi phần có một công việc (job) khác nhau, khi một công việc chờ thực hiện nhập xuất CPU sẽ xử lý các công việc còn lại. Tuy nhiên khi có nhiều công việc cùng xuất hiện trong bộ nhớ, vấn đề là phải có một cơ chế bảo vệ tránh các công việc ảnh hưởng đến nhau. Hệ điều hành cũng cài đặt thuộc tính spool. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự ra đời của hệ điều hành chia xẻ thời gian như CTSS của MIT. Đồng thời các hệ điều hành lớn ra đời như MULTICS, UNIX và hệ thống các máy mini cũng xuất hiện như DEC PDP-1.
Thế hệ 4 (1980 –Đến nay )
Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của máy tính , đặc biệt là hệ thống IBM PC với hệ điều hành MS-DOS và Windows sau này. Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh của các hệ điều hành tựa Unix trên nhiều hệ máy khác nhau như Linux. Ngoài ra, từ đầu thập niên 90 cũng đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ điều hành mạng và hệ điều hành phân tán.
Những bản windows theo thứ tự ra đời như: DOS, Windows 1.0, Windows 2.0, Windows 3.0, Windows 3.1, Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup) windows NT, windows 95, windows 98, windows me, windows 2000, windows XP, windows Vista, Windows 7. Đặc biệt, với sự ra đời của Windows 95 có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Giao diện Windows 95
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus. Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1,gói dịch vụ được phát hành vào tháng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L7883ch s7917 ra 2737901i my vi tnhs7921 7843nh h4327903ng .doc