MỤC LỤC
Lời nói đầu. 1
Phần I: Liên minh Châu Âu và sự ra đời
của đồng tiền chung Châu Âu - EURO 2
I. Kinh tế của EMU-11 trong thời gian qua 2
II. Quá trình chuẩn bị ra đời đồng EURO 3
1. Cơ sở khoa học của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu 3
2. Tiến trình phát triển của hệ thống tiền tệ Châu Âu 6
III. Đồng tiền chung Châu Âu - EURO 9
1. Đồng EURO 9
2. Quy chế lưu hành đồng tiền chung Châu Âu 11
Phần II: Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế thế giới 13
I. Đối với Liên minh Châu Âu 13
1. Tác động đến những nước thuộc khu vực đồng Euro 13
2. Tác động đến các nước Châu Âu nằm ngoài khu vực
đồng Euro 14
II. Tác động đến các nước thuộc khối
CFA franc và các nền kinh tế chuyển đổi 15
III. Tác động của EURO tới hệ thống tiền tệ thế giới 16
IV. Châu á với đồng EURO 19
1. Những tác động chủ yếu 19
2. Triển vọng của đồng tiền chung Châu á- ACU 20
V. Đồng tiền chung của Mercosur 23
Phần III: Các vấn đề đặt ra sau khi EURO ra đời 24
I. Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế Việt Nam 24
II. Tình hình đồng EURO sau 10 tháng ra đời 25
III. Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi 28
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
Mục lục 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6198 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ro cent. Tiền lẻ nhỏ nhất gọi là xu, 100 xu bằng 1 Euro.
Trong 3 năm chuyển tiếp từ 1999 đến 2001, đồng Euro được sử dụng là đơn vị tiền thanh toán ghi sổ (như đồng ECU trước đây) giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên EMU, cũng như trên thị trường liên ngân hàng. Toàn bộ nợ phát sinh sau khi EMU bắt tay vào hoạt động sẽ được tính bằng đồng Euro. Nợ Nhà nước trước đó có thể tính bằng đồng Euro hay đồng bản tệ của mỗi nước tuỳ theo quyết định của mỗi quốc gia. Trong các trường hợp còn lại, thì tất cả những nghiệp vụ phát sinh của các khách hàng trên thị trường tài chính không bắt buộc phải chuyển thành đồng Euro.
Đồng Euro dưới dạng tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền lẻ) sẽ được đưa vào lưu thông bắt đầu từ ngày 1-1-2002. Từ 1.1.2002 đến 30.6.2002 sẽ thực hiện đổi tiền nhưng không phải nộp dịch vụ phí chuyển đổi, tức là các đồng bản tệ của các nước thành viên EURO sẽ kết thúc lịch sử tồn tại của mình. Sau đó, đồng Euro sẽ trở thành phương tiện thanh toán và dự trữ hợp pháp duy nhất.
Các chuyên gia cho rằng, các công ty lớn, các doanh nghiệp lớn và các hãng xuyên quốc gia có thể chuyển sang thanh toán mất 1-2 ngày; còn khu vực Nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và các hộ gia đình sẽ phải dùng bản tệ trong thanh toán hàng ngày vào khoảng 6 tháng thì sẽ hết bản tệ. Đối với các thương gia bán lẻ chắc chắn sẽ gặp khó khăn phức tạp khi lưu hành song song 2 đồng tiền trong thời gian chuyển đổi. Vì họ phải tính chuyển giá cả hàng hoá và dịch vụ từ đồng bản tệ sang đồng Euro. Khi chuyển sang đồng tiền thống nhất, Châu Âu sẽ phải thay đổi khoảng 6 triệu cỗ máy bán hàng và bán vé tầu xe tự động trên phạm vi EU.
Để quá trình đưa đồng euro vào lưu thông và thanh toán dễ dàng, thuận tiện, ngay từ năm 1996, Hội đồng EU đã thông qua quy chế xác định nguyên tắc "nhất quán" của các hợp đồng. Theo nguyên tắc này, thì việc chuyển sang sử dụng đồng Eurosex không làm phương hại đến giá trị hợp đồng (hay khế ước) đã ký kết bằng bản tệhay bằng đồng ECU. Tất cả sẽ được tính chuyển sang 1 ECU ăn 1 EURO. Như vậy, khi đồng Euro đi vào hoạt động, các nước thành viên EMU sẽ không phải ký lại hợp đồng hay huỷ bỏ các hợp đồng đã ký.
PHẦN II
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI.
Sự ra đời của đồng Euro đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tất cả các nước và các khu vực trên thế giới. Dựa trên cơ sở những diễn biến gần đây của nền kinh tế thế giới và Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu, bài viết này đưa ra những dự đoán về tác động của đồng Euro tới một số khu vực kinh tế quan trọng.
Đối với Liên minh Châu Âu
Tác động đến những nước thuộc khu vực đồng EURO:
Theo Viện kinh tế quốc tế có trụ sở ở Washington, khi thực hiện đồng tiền chung Châu Âu - đồng EURO sẽ mang lại cho EU ba lợi ích căn bản.
Một là, điều kiện mua và bán hàng hoá, dịch vụ trong EU sẽ dễ dàng hơn, giúp cho các giao dịch thương mại nội khối tăng mạnh. Rủi ro trao đổi ngoại tệ giữa các nước Châu Âu sẽ được hạn chế vì tất cả mọi giao dịch giữa các thành viên sẽ sử dụng một đồng tiền. Một đồng tiền duy nhất sẽ làm nổi bật sự chênh lệch giá giữa các nước và xoá bỏ được nạn lợi dụng chênh giá để kiếm lời dễ dàng, vì lợi ích của cả những người sản xuất và tiêu dùng. Các công ty trong EU sẽ phải cơ cấu lại, trong đó xu hướng sáp nhập quy mô lớn sẽ diễn ra mạnh hơn. Đây sẽ là bước khởi đầu cho cuộc cách mạng về năng suất lao động, tiền đề quan trọng cho việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.
Hai là, sự bùng nổ của thị trường vốn Châu Âu, tạo cơ hội đầu tư trên quy mô lớn. Những quyết định đầu tư giữa các nước thành viên sẽ được đơn giản hoá, vì loại trừ được yếu tố rủi ro về hối đoái. Khi đó, Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu (EMU) sẽ đóng vai trò là chất xúc tác, thúc đẩy tính linh hoạt của thị trường lao động, tạo sự thống nhất của các chính sách vĩ mô trong EU. Trước mắt, sự xuất hiện của đồng EURO sẽ tạo nên thị trường trái phiếu liên chính phủ với tổng giá trị lên tới 1900 tỷ dollar, tương đương với quy mô của thị trường công trái Mỹ. Tiến trình hợp nhất làm cho các khoản thu từ trái phiếu sẽ chỉ còn một rủi ro duy nhất, đó là khả năng thanh toán của những người phát hành trái phiếu. Điều đó có nghĩa là, đối với trái phiếu của chính phủ, các thành viên EMU có thu nhập trái phiếu cao hơn truớc khi gia nhập sẽ là bên được lợi nhiều nhất. Ngoài ra, đồng EURO ra đời sẽ loại bỏ tốn phí trong giao dịch ngoại hối, tiết kiệm cho EU mỗi năm khoảng 65 tỷ USD. Điều này sẽ tạo điều kiện làm cho lãi suất tiền tệ giảm, tức là tạo thêm cơ hội cho đầu tư tăng mạnh. Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng USD chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%; bằng Yên Nhật chiếm 12%.
Ba là, đồng EURO sẽ trở thành phương tiện để dự trữ và giao dịch trong thương mại thế giới. Như vậy, vị thế chính trị của các nước Tây Âu sẽ tăng lên trên chính trường quốc tế. EU sẽ nâng được vị thế trong nhóm G-7, trong Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB).
Nhìn chung, EMU và đồng EURO cho phép các nước thành viên tận dụng tối đa những ưu thế của thị trường chung Châu Âu. Nhờ đó để thúc đẩy kinh tế của các nước EMU phát triển đồng đều, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hoà hợp giữa các dân tộc, củng cố hoà bình và an ninh khu vực.
Tác động đến các nước Châu Âu nằm ngoài khu vực đồng EURO:
Do mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia thành viên của EMU, các nước Châu Âu khác sẽ có được những lợi ích chung và dài hạn. Mặc dù trong ngắn hạn những nước này sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp của kết quả điều hành các chính sách ngân sách và tiền tệ của những nước trong khu vực đồng EURO.
Tác động của EMU đối với các nước này phụ thuộc vào hai yếu tố: quy mô ban đầu của khu vực đồng EURO và liệu các nước này có tham gia Cơ chế tỷ giá II (ERM II) hay không. ERM II là Cơ chế tỷ giá sẽ có hiệu lực sau khi đồng EURO chính thức lưu hành. Mục đích của cơ chế tỷ giá này là đảm bảo sự ổn định về tỷ giá giữa các nước thành viên EMU và các nước EU khác không tham gia đợt đầu tiên của EMU.
Những nước thuộc EU nhưng không tham gia đợt đầu của Liên minh tiền tệ gồm: Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển và Hy Lạp. Hy Lạp, mặc dù đã có những tiến bộ trong quá trình hội tụ kinh tế vĩ mô với các nước thuộc EMU, và đã tuyên bố mục tiêu gia nhập EMU vào năm 2001 nhưng tại thời điểm quyết định những nước gia nhập đợt đầu thì Hy Lạp có tỷ lệ lạm phát là 5%, cao nhất EU. Đồng Drachma của Hy Lạp hiện nay đã được gắn trong ERM II nên khả năng dao động lớn với đồng Euro là rất nhỏ. Các nhà phân tích cho rằng, nguy cơ chính đối với đồng Drachma trong giai đoạn này là khả năng bị giới đầu cơ tấn công khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và buộc chính phủ can thiệp để nâng giá đồng tiền.
Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển vào năm 1997 đều đáp ứng được các tiêu chuẩn về thống nhất tỷ lệ lạm phát, lãi suất và kiểm soát thâm hụt ngân sách nhưng tuyên bố rằng họ không muốn tham gia EMU, ít nhất là trong giai đoạn đầu. Cả ba nước này đều đối mặt với thách thức là phải điều chỉnh quan điểm và cơ chế chính sách kinh tế của mình cho thích ứng với các nước thành viên EMU. Đối với Đan Mạch, điều này không có vấn đề gì lớn, bởi vì đồng cuaron đã được gắn với đồng mác Đức trong Cơ chế tỷ giá ERM của hệ thống tiền tệ Châu Âu. Mặc dù đồng cuaron Thuỵ Điển và đồng bảng Anh được thả nổi và rút khỏi ERM kể từ cuộc khủng hoảng 1992, nhưng điều đó chưa chắc sẽ gây cản trở cho các nước này gia nhập khu vực đồng EURO trong thời gian tới. Một điều chắc chắn là các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những nước này sẽ phải gánh chịu các chi phí và rủi ro về tỷ giá khi mua bán hàng hoá với những nước láng giềng của mình. Trong năm vừa qua đồng cuaron đã dao động tới 16% so với mác Đức, đồng tiền mạnh nhất nhóm EMU, do đó việc không gia nhập EMU sẽ tạo khó khăn cho các doanh nghiệp Thuỵ Điển trong việc mua bán hàng hoá với giá cả cạnh tranh.
Để giữ cho đồng tiền nước mình có một tỷ giá ổn định với đồng EURO, yêu cầu đặt ra cho các thành viên ERM II là phải kiềm chế lạm phát thông qua việc theo đuổi các chính sách tiền tệ và ngân sách thận trọng. Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, phải có sự nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng, nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc phối hợp các chính sách kinh tế của khu vực đồng EURO trở thành điểm nóng trong giai đoạn đầu của EMU, thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi các tỷ giá cân bằng trong ERM II.
Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách tiền tệ của mình với những định hướng hiện thời. Chiến lược này cho phép họ có thêm sự linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồn EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính quan trọng (như Thuỵ Sĩ hay Anh) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính, nếu như sự không chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các luồng vốn lớn vào và ra.
Na Uy và Thuỵ Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu chuẩn tham gia, cũng trực tiếp chịu tác động của Liên minh tiền tệ do vị trí địa lý gần gũi và các liên hệ về tài chính, thương mại chặt chẽ với khu vực đồng EURO.
II. Tác động đến các nước thuộc khối CFA franc và các nền kinh tế chuyển đổi.
CFA franc là đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn của Cộng đồng tài chính Châu Phi, gồm: Bênanh, Buốckinaphaxô, Camơrun, Trung Phi, Sát, Cônggô, Bờ biển ngà, Gabông, Mali, Nigiê, Xênêgan, Tôgô, Ghinê Xích đạo.
Sự thay đổi về giá trị của các đồng tiền mạnh và mức biến động của tỷ giá đồng EURO sẽ tác động tới những nước đang phát triền và những nền kinh tế chuyển đổi có quan hệ kinh tế với các nước thuộc EMU. Có lẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất là các nước ở Trung Âu, Đông Âu và các nước thuộc khu vực đồng franc CFA, những nước gắn đồng tiền của mình với đồng tiền của các nước thuộc EU (mà hiện nay là đồng EURO) nhưng có nghĩa vụ trả nợ bằng đồng đô la Mỹ hoặc yên Nhật. Do sự không cân xứng này, đồng EURO giảm giá dẫn tới sự gia tăng chi phí trả nợ tính theo đồng nội tệ, là không được hoàn toàn bù đắp bởi nhũng cải thiện của cán cân mậu dịch. Đây là mối quan tâm đặc biệt của những nước có tỷ lệ nợ nước ngoài cao, bị hạn chế khả năng đa dạng hoá các khoản vay nợ do gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Đối với những nước có khả năng tiếp cận vốn tư nhân, EMU mở ra một thị trường rộng lớn cho việc phát hành trái phiếu bằng đồng EURO, nhờ đó các nước hiện đang vay nhiều bằng đô la Mỹ có thể giảm bớt sự mất cân xứng giữa đồng tiền mà họ gắn tỷ giá và các nghĩa vụ tài chính của họ.
Sự biến động lớn của đồng EURO cũng có thể dẫn tới sự thay đổi về chỉ số thương mại (terms of trade). Sự thay đổi về tỷ giá gây ra tác động chệch hướng đối với giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu của một nước tính theo đồng nội tệ. Ví dụ: đồng EURO tăng giá có ảnh hưởng bất lợi đến chỉ số thương mại của các nước nhập khẩu hàng công nghiệp của các nước EU, nhưng xuất khẩu hàng hoá thô tới một nhóm các đối tác đa dạng hơn; giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng còn giá hàng nhập khẩu sẽ giảm trừ trường hợp sự dịch chuyển đường cung và cầu trên phạm vi toàn cầu phát sinh từ sự thay đổi của tỷ giá dẫn tới những thay đổi có tác động triệt tiêu lẫn nhau về giá cả đô la và đồng EURO.
Các nước chuyển đổi ở Trung Âu, Đông Âu và khu vực Ban Tích gắn đồng tiền của mình với đồng mác Đức hoặc một rổ tiền tệ mà đồng mác Đức chiếm đa số sẽ chuyển sang gắn đồng tiền của mình vào đồng EURO. Do những nước bạn hàng chính về xuất -nhập khẩu của các nước này là các thành viên tham gia EMU. Một đồng EURO yếu có thể dẫn tới giá nhập khẩu tính theo đôla tăng lên và do đó là áp lực làm gia tăng giá trong nước. Nợ nước ngoài của các nước Trung và Đông Âu phần lớn là bằng đô la Mỹ và yên Nhật. Tuy nhiên sự biến động của đồng EURO sẽ không gây ra khó khăn cho việc trả nợ, bởi vì các nước này có khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế và mới nợ nước ngoài cở mức vừa và thấp. Hunggary là một ngoại lệ, nước này có nợ nước ngoài nhiều, nhưng đã thành công trong việc giảm bớt rủi ro do sự biến động về tỷ giá bằng cách sử dụng các hợp đồng kỳ hạn để cân đối yêu cầu trả nợ. Xét về dài hạn, các nền kinh tế chuyển đổi này chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi ích từ thành công của EMU. Đó là, sự tăng trưởng nhanh của thị trường xuất khẩu chính của họ, và mức lãi suất thấp - một nhân tố khuyến khích việc cấp vốn cho công cuộc cải cách kinh tế của họ. Mức lạm phát của các nước EMU là mục tiêu cho các nền kinh tế chuyển đổi hướng tới để thực hiện được nguyện vọng gia nhập EU.
Các nước thuộc khu vực CFA franc cũng có mối liên hệ thương mại chặt chẽ với EU, đặc biệt là Pháp - nước đảm bảo sự chuyển đổi tự do của CFA franc tại một tỷ giá ấn định được nhất trí. Không giống như các nền kinh tế chuyển đổi, phần lớn tỷ trọng xuất, nhập khẩu của các nước thuộc khối CFA franc là nằm ngoài EU. Nhưng ngay cả khi đồng franc Pháp chuyển đổi sang EURO, chỉ số thương mại của các nước sẽ tiếp tục thay đổi theo những biến động của tỷ giá. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực trả nợ nước ngoài của những nước có nợ nước ngoài lớn và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế. Như vậy, tác động của tỷ giá đến chỉ số thương mại và nợ nước ngoài ngược chiều nhau (đồng EURO lên giá làm giảm nợ nước ngoài tính bằng đôla Mỹ nhưng làm xấu đi chỉ số thương mại). Có lẽ mức độ ảnh hưởng tới nợ nước ngoài sẽ lớn hơn nhiều tới thương mại, vì gánh nặng nợ nước ngoài của các nước này lớn hơn so với kim ngạch mậu dịch.
Tác động của EURO tới hệ thống tiền tệ thế giới
Trong bối cảnh hệ thống tiền tệ quốc tế (SMI) đang có xu hướng phát triển theo hướng một hệ thống đa cực, đồng EURO xuất hiện là một hiện tượng quan trọng nhưng cũng khó xác định hoặc dự báo chính xác tác động cụ thể của nó.
Sự ra đời EMU kéo theo việc hạ thấp độ mở cửa của khu vực EURO và giảm độ nhạy cảm đối với các biến động hối đoái. Vì lợi ích Châu Âu không được phép làm xuất hiện các biến động tỷ giá kéo dài, cản trở tới thương mại quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, biến động tỷ giá "nuôi nấng" áp lực bảo hộ và làm hại đến tình hình đầu tư trực tiếp.
Do đó ECB và Chính phủ các quốc gia phải giám sát chặt chẽ sự biến động tỷ giá đồng EURO. Những biến động tỷ giá lớn sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu ổn định giá cả của ECB, tác động tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Châu Âu. Nếu như Châu Âu đang muốn xây dựng một cực tăng trưởng và ổn định thì đương nhiên càng không được chuyển yếu tố bất ổn định vào hệ thống tiền tệ thế giới. Đồng EURO ra đời phải đóng góp vào sự ổn định của SMI.
Biểu số 3: Độ mở cửa của các nền kinh tế Châu Âu.
(Đơn vị: %)
Tên nước
Tính cả kim ngạch xuất khẩu với các nước EU
Không tính phần xuất khẩu nội bộ trong EU
Bỉ
70,1
23,5
Phần Lan
26,8
14,7
Pháp
22,7
8,9
Ailen
62,8
19,7
Đan Mạch
36,1
19,5
Đức
23,7
12,4
Tây Ban Nha
17,6
5,5
Thuỵ Điển
27,9
13,0
Italia
18,2
8,5
Bồ Đào Nha
25,5
6,2
Liên hiệp Anh
23,8
11,7
Hà Lan
52,1
14,9
Nguồn: OECD, Union Europeénne.
Việc sáng tạo đồng EURO sẽ tăng cường sự tiến triển của SMI theo hướng một hệ thống đa cực. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, trong hệ thống thế giới đa cực ấy, phương thức phối hợp cộng tác giữa các cực tiền tệ là yếu tố quyết định để bảo đảm ổn định giá cả. Hệ thống tiền tệ thế giới sẽ được cân bằng tốt hơn và đối xứng hơn. Các lợi ích tiềm tàng không những sẽ tăng lên mà còn được phân chia đồng đều cho các bên đối tác. Hợp tác là vì lợi ích của tất cả các bên.
EURO ra đời là cơ hội duy nhất để Châu Âu và Hoa Kỳ cùng chung sức duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Hơn nữa, EURO còn được coi như một nhân tố góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền tệ quốc tế về một thế giới tiền tệ ba cực: EURO, đôla Mỹ, yên Nhật. Đồng EURO sẽ cạnh tranh quyết liệt với đôla Mỹ trong việc phân chia lại quyền lực tiền tệ trên thế giới, sẽ thúc đẩy đồng yên Nhật cùng góp sức vào việc duy trì thế cân bằng ổn định của SMI. Đồng EURO sẽ thúc đẩy sự chấm hết thời kỳ chuyên chế của đồng đôla Mỹ được xác lập từ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Từ nay, tam giác tiền tệ quốc tế EURO, đôla Mỹ và yên Nhật đã bắt đầu được hình thành. Ba nhân tố này sẽ vừa hợp tác chặt chẽ lại vừa cạnh tranh khốc liệt với nhau để tăng cường vị thế của mình trên chính trường quốc tế.
EEEEEEEEUUUUU
Dự trữ ngoại tệ quốc tế Tài sản có của tư nhân
(%) trên thế giới (%)
Việc chuyển hướng trong nhu cầu về dự trữ ngoại hối của các quốc gia từ đồng đôla Mỹ sang đồng EURO có tác động tiêu cực tới tài khoản vốn của Mỹ và phân phối lại một phần thu nhập của việc phát hành tiền từ Dự trữ Liên bang Mỹ sang ECB. Ngoài ra, việc chuyển dịch sang sử dụng đồng EURO làm đồng tiền dự trữ của những người không cư trú tại Mỹ sẽ làm giảm lượng đôla Mỹ. Lượng trái phiếu đôla Mỹ do người nước ngoài nắm giữ được ước tính là hơn một nửa của tổng số 375 tỷ đôla Mỹ được nắm giữ ngoài các ngân hàng vào đầu năm 1996. Lượng trái phiếu do người nước ngoài nắm giữ này đem lại mức tiết kiệm hàng năm từ 10 - 14 tỷ đôla Mỹ tiền lãi đối với các chứng khoán của kho bạc. Theo nhiều nhà kinh tế, dự trữ ngoại hối của Mỹ không đủ để bảo vệ đồng đôla khi đồng EURO tăng giá nhanh. Trong thời gian qua, việc Mỹ (chủ nợ lớn nhất thế giới) phần nào tránh được các cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở Châu á và Mỹ Latinh là nhờ vào việc các nhà đầu tư nước ngoài muốn nắm giữ các khoản nợ bằng đôla Mỹ. Tuy nhiên, nếu các cuộc khủng hoảng này tiếp tục thì đôla Mỹ khó có thể giữ vai trò hàng đầu khi mà đồng EURO đã hiện diện trên thị trường tài chính quốc tế. Với những tác động mà đồng EURO mang lại, Mỹ có thể sẽ phải thực hiện chính sách thắt chặt và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn đầu tư nước ngoài. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, đa qua rồi thời kỳ mà Mỹ mặc vay nợ và "rũ nợ" một cách dễ dàng bằng cách "thay đổi" tỷ giá của đồng đôla. Nhưng khi nào mà Mỹ còn là cường quốc xuất nhập khẩu mạnh của thế giới, thì khi ấy Mỹ vẫn dùng đồng đôla Mỹ làm áp lực trong giao dịch và buôn bán quốc tế.
Đồng EURO ra đời cũng đã làm Nhật Bản thức tỉnh, tuy khá muộn màng. Tháng 12-1998, Nhật Bản còn từ chối đảm đương chức năng tiền tệ quốc tế của đồng yên với lý do: một đồng yên mạnh có hại cho xuất khẩu và như vậy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế Nhật Bản vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Nhưng ngày 6-1-1999, Thủ tướng Ô-bu-chi đã cấp tốc lên đường thăm ba nước hạt nhân của EMU là Pháp, Đức, Italia. Thủ tướng Nhật Bản trình bày với Châu Âu về vấn đề cùng chia sẻ quyền lực tiền tệ thế giới giữa EURO, đôla Mỹ và yên Nhật. Viện trưởng Viện tiền tệ quốc tế Nhật Bản bày tỏ: "tôi không nghĩ rằng, Nhật Bản đã mất hết cơ hội để đưa đồng yên thành đồng tiền quốc tế, nhưng sự ra đời của đồng EURO đã làm cho các thách thức trở nên lớn hơn nhiều, môi trường quốc tế trở nên khó khăn hơn"... Hiện nay, đồng yên Nhật không được sử dụng rộng rãi như đồng đôla Mỹ trong các giao dịch quốc tế, thậm chí trong quan hệ mậu dịch giữa Nhật và các nước bạn hàng Châu Á. Việc sử dụng đồng đôla Mỹ cũng đang lấn át đồng yên. Sự xuất hiện đồng EURO có thể cản trở đồng yên phát triển thành đồng tiền quốc tế, mặc dù những cải cách sâu rộng hệ thống tài chính của Nhật đang được hy vọng mang lại hấp dẫn mới cho đồng yên.
Các hoạt động tài chính của các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB, IBRD) cũng phải thay đổi cho phù hợp với thực tế hoạt động kinh tế - xã hội của thế giới. Song, những thay đổi ấy diễn ra dần dần, vì lúc này trên thế giới có 2 đồng tiền được hậu thuẫn tương đồng về kinh tế là đồng EURO và đồng đôla Mỹ.
Hệ thống tiền tệ thế giới mới sẽ nhanh chóng xác lập ngôi thứ của nó, tuỳ theo sức mạnh của các cực kinh tế và mức độ tin tưởng của thế giới vào chính các đồng tiền mang chức năng quốc tế đó.
Bảng số 4: So sánh tiềm lực giữa 3 cực kinh tế thế giới.
Chỉ tiêu
EU - 11
Hoa Kỳ
Nhật Bản
Dân số (triệu người)
291
269
126
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
2,5
3,8
0,9
GDP (tỷ ECU)
5546
6846
3712
Tỷ trọng trong tổng GDP thế giới (%)
19,4
19,6
7,7
Tỷ trọng kim ngạch thương mại quốc tế (%)
18,6
16,6
8,2
Nguồn: 1997/OECD.
IV. CHÂU Á VỚI ĐỒNG EURO
1. Những tác động chủ yếu:
Mối quan hệ giữa EU với Châu Á ngày càng lớn mạnh được thể hiện qua các Hội nghị thượng đỉnh cấp cao ASEM I, ASEM II. Mặc dù bị "tổn thương" bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, song Châu Á đã tỏ một thái độ hoan nghênh đồng EURO. Cuối năm 1998, một số ngân hàng Châu Á đã đưa ra những chỉ dẫn, những kiến thức cơ bản để mọi người dân trong khu vực có thể ứng phó với tình thế mới.
Đồng EURO tác động đến Châu á thông qua các luồng mậu dịch, đầu tư vào Châu á và trong việc lựa chọn đồng tiền dự trữ.
Sự xuất hiện của đồng EURO tạo ra một sự lựa chọn mới cho các nhà đầu tư Châu á, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản.Quan điểm này được hầu hết các nhà kinh tế Nhật Bản nhất trí. Các chuyên gia kinh tế Nhật cho rằng, sẽ hợp lý hơn nếu Nhật Bản giữ 1/3 tài sản nước ngoài bằng đồng EURO thay cho việc lưu giữ 100% bằng đồng USD. Vào tháng 5-1998, các nhà đầu tư Nhật mua 5,6 tỷ đôla trái phiếu trung bình và dài hạn của Mỹ, còn chỉ mua 3,3 tỷ đôla trái phiếu của Đức và Pháp gộp lại. Đến tháng 10-1998, theo con số Bộ tài chính Nhật công bố thì Nhật đã bán ra các trái phiếu của Mỹ và mua vào trái phiếu Đức và Pháp trị giá 7,8 tỷ đôla. Hiện nay có khoảng hơn 2 ngàn tỷ đôla ở Nhật được chuyển vào đồng EURO. Công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhất của Nhật, Nippon Life cho biết nó sẽ cân nhắc chuyển đổi một nửa trong số 34 tỷ đôla Mỹ tài sản có ở nước ngoài vào đồng EURO. Hiện tại, Nippon có khoảng 30% tài sản có bằng các đồng tiền chuyển đổi vào EURO.
Hơn nữa, thị trường trái phiếu Châu Âu sẽ cho phép các công ty Châu á tăng tài chính ở nước ngoài và phân tán rủi ro. Theo ông Tommy Koh - giám đốc điều hành Âu-á, cho biết: "Nếu đồng EURO trở thành một đồng tiền mạnh, thì theo thời gian nó là đối thủ của đồng đôla Mỹ và vượt trội đồng yên Nhật về ảnh hưởng quốc tế. Các chính phủ Châu á nên đón nhận sự nổi lên của một đồng EURO mạnh, bởi vì qua tin cậy vào đồng USD đã là một trong những nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ gần đây ở Đông á. Các đồng tiền Châu á sẽ được kiểm soát so với một rổ đồng tiền trong tính toán thương mại, bao gồm USD, Yên, EURO và các đồng tiền khác được ưa chuộng hơn và ấn định gắn liền với đồng đôla". Cho nên, Châu á muốn giảm bớt lệ thuộc quá lớn vào đồng USD thì việc sử dụng đồng EURO trong buôn bán và dự trữ là rất có lợi. Đặc biệt, các nước ASEAN đang có ý tưởng sử dụng nội tệ trong buôn bán với nhau, thì EURO ra đời lại càng có ý nghĩa quan trọng.
ADB cho biết, các ngân hàng trung ương trong khu vực sẽ phải thay đổi một phần dự trữ tách khỏi đồng đôla, hiện tại chỉ có khoảng 12% dự trữ bình quân bằng các đồng tiền Châu Âu. Thương mại của Đông á với Châu Âu chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng thương mại toàn cầu. Trung quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippin đã sẵn sàng sử dụng EURO là đồng tiền dự trữ hay đang cân nhắc một cách nghiêm túc. Nếu EURO ổn định thì Thái Lan sẽ sử dụng nó như là một phần dự trữ quốc tế. Còn Philippin đang cân nhắc huy động vốn bằng đồng EURO, và có khả năng sẽ phát hành trái phiếu bằng đồng Euro. Ông Singson, thống đốc ngân hàng trung ương Philippin, cho biết Manila thích huy động vốn các kênh vốn ưu đãi trước khi chuyển sang thị trường giấy nợ thương mại với số lượng lớn hơn.
Các chuyên gia kinh tế cũng nói nhiều tới việc đồng Euro sẽ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Châu á. Xuất khẩu của Châu á sang Châu Âu nếu được tính theo đồng Euro thì sẽ dễ dàng hơn. Do các nước Châu á không phải tập trung quá mức vào các đồng tiền khác nhau và các nước khác nhau vì họ chỉ buôn bán với một khu vực gồm nhiều nước với một đồng tiền chung duy nhất. Cơ hội xuất khẩu sang Châu Âu cũng được ổn định, vì Châu Âu muốn duy trì tỷ lệ lạm phát thấp. Hiện nay, các nước Châu á đang muốn thúc đẩy xuất khẩu để góp phần thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì đây là một điều kiện rất thuận lợi cho Châu á.
2. Triển vọng của đồng tiền chung Châu á - ACU:
Tiếp theo sự hình thành Liên minh tiền tệ Châu Âu với một đồng tiền chung - EURO, các nước Châu á cũng đã nghĩ đến việc thành lập "đồng tiền chung Châu á". Ý tưởng này không hề ảo tưởng mà là một gợi ý (dù còn sớm) trên cơ sở những sự kiện có thật và được cổ vũ bởi mô hình Châu Âu.
Việc cột chặt đồng tiền của các nước trong khối ASEAN nhiều năm nay vào đồng USD đã tạo cho các nước này nhiều bất lợi. Đó là làm cho nền kinh tế phụ thuộc vào chính sách kinh tế của Mỹ, mất tự chủ, đồng thời khi đồng USD có biến động thì buộc đồng tiền các nước này cũng biến động theo, dễ gây nên một sự ổn định cho nền kinh tế. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ tại khu vực Châu á vừa qua. Nhận thức được vấn đề đó các quan chức ASEAN đang có những bước đi nhằm tháo bỏ dần sự ràng buộc này.
Tại cuộc họp cấp cao ASEAN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá trình hình thành, ra đời đồng EURO của liên minh kinh tế & tiền tệ châu Âu - tác động của nó đến nền kinh tế thế giới & Việt Nam.doc