Đề tài Logic của việc đi từ khái niệm sở hữu tư nhân đến lao động tha hoá và phân công lao động - Thực tiễn trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Khi lao động bị tha hóa, người lao động làm ra của cải, nhưng không thuộc về mình thì lao động đó là lao động khổ sai, lao động đó không còn là bản chất người, do đã là sự khổ sai (lao động như một con vật). Trong khi đó, các chức năng khác thuộc về bản thân người đó lại được coi như những chức năng của con người và hoàn toàn ngược lại.

Do đó, lao động tự tha hoá trong bản thân người lao động. Lao động mang bản chất người, lại trở thành bản chất vật. Đã từng có một thời, tuy lao động không phát triển như lao động trong chủ nghĩa tư bản, nhưng lao động mới được coi là lao động (người ta muốn lao động), còn trong chủ nghĩa tư bản, tuyệt nhiên lao động thuộc về người khác -> lao động là sự khổ sai.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Logic của việc đi từ khái niệm sở hữu tư nhân đến lao động tha hoá và phân công lao động - Thực tiễn trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về vật dụng. Quan hệ sở hữu có thể là những quan hệ về kinh tế và pháp lý. Nói cách khác, quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý, theo nghĩa rộng quan hệ sở hữu kinh tế là tổng hoà các quan hệ sản xuất - xã hội, tức là các quan hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm những quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu pháp lý là tổng hoà các quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những quan hệ này tạo ra và ghi nhận các quan hệ kinh tế qua các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý. Để nêu bật sự thống nhất của các quan hệ sở hữu cả phương diện kinh tế và pháp lý. Sở hữu về mặt pháp lý được xem là quan hệ giữa người với người về đối tượng sở hữu. Thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến pháp, luật của Nhà nước, nó khẳng định ai là chủ thể của đối tượng sở hữu. Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập ngày càng cao, sở hữu về mặt kinh tế ngày càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới lợi ích kinh tế, chính nó là động lực cho hoạt động kinh tế. Sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu về hình thức, phạm vi mức độ không phải là sản phẩm của chủ quan mà là do yêu cầu của qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất. Hay là sự vận động của quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự biến động của quan hệ sở hữu xét cả về mặt chủ thể và đối tượng sở hữu. Đối tượng sở hữu: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là cái có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nô lệ, cùng với sở hữu là sở hữu nô lệ. Xã hội phong kiến đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao động …) trong xã hội tư bản đối tượng sở hữu không chỉ về mặt hiện vật mà quan trọng hơn về mặt giá trị, mặt tiền tệ. Ngày nay, cùng với sở hữu về mặt hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng nhiều đến sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ, giáo dục … Quan hệ sở hữu: Là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu phản ánh sự chiếm giữ tư liệu sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng, nó biểu hiện qua mối quan hệ vật - vật. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội phát sinh, tồn tại và phát triển trong quá trình chiếm hữu mà khi xem xét dưới góc độ pháp lý nó bao gồm ba bộ phận cấu thành chủ thể, khách thể và nội dung Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở nước đó, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn công hữu thể hiện qua sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó xuất hiện tất yếu do yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và qui trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác liên doanh liên kết tự nguyện phát hành mua bán cổ phiếu… Khái quát lại thì có hai hình thức cơ bản: Công hữu và tư hữu. Còn lại là kết quả của sự kết hợp giữa chúng với nhau. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của lực lượng sản xuất sau ba cuộc phân công lao động xã hội: Lần 1: Nghành chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Lần 2: Thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp. Lần 3: Với sự xuất hiện của tầng lớp Thương nhân Do năng xuất lao động đã cao hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn ….. Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của cỉa dư thừa đó và trở thành giàu có (tư hữu riêng) lại có những người người do yếu kém mà nghèo đói ….Tất cả đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đáu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời, tựa hồ như đứng trên xã hội và quản lý xã hội. Đó là Nhà nước. Qua sơ đồ trên cho ta thấy sở hữu tư nhân trong các phương thức sản xuất khác nhau của lịch sử phát triển của loài người với tính chất và mức độ thể hiện khác nhau : Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nước chủ nô duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là người ). ở đây trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối. Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ "phong tước, cấp điền " của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy tì chế dộ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến cuả nông dân và giai cấp phong kiến. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và boác lột giá trị thặng dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không). ở đây giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư bản. Chế độ tư hữu được qui định là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giai cấp tư sản với phương pháp, thủ đoạn bóc lột mới với trình độ cao tư hữu trong xã hội tư bản chủ nghĩa nằm chủ yếu tập trung trong tay giai cấp tư sản, các tập đoàn tư bản, các nhà tư bản nắm trong tay tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì có hai phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những nước như nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc dù vậy trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo. Chính Các Mác và F.Ănghen trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng cộng sản, ông đã nhấn mạnh "chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ những việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác ". Lao động tha hoá: Theo Mác phạm trù lao động được hiểu là lao động tha hoá (trở thành một phạm trù triết học) (do sự tha hoá, "lao động chính là tư bản " - do sản phẩm của lao động thuộc về tư bản, trở thành tư bản ) T-H-T' (T và T' là tư bản -> H cũng là tư bản). Trước hết phải hiểu về "tha hoá" (được trình bày rõ nhất trong triết học của Hêgel). Tha hoá có nghĩa là một sự tồn tại, nhưng đã đánh mất bản chất. Tha hoá phải được xem xét trong từng quan hệ cụ thể (tức là chỉ có thể nói rằng tha hoá hay không tuỳ theo việc xét tong từng quan hệ.) Lao động tha hoá tức là sản phẩm do lao động sản xuất ra nhưng lại trở thành lực lượng đối lập với lao động do nó đã thuộc về người khác. Phân công lao động: Một khi có phân công lao động thì mỗi người đều có 1 phạm vi hoạt động nhất định mang tính chất đoọc chuyên (chuyên môn hoá cố định vào một việc) và hệ quả là người này muốn sống thì cứ phải gắn chặt vào việc đó, không thể thoát ra được vì không muốn mất đi những điều kiện sinh tồn của mình. Lịch sử của phân công lao động, đầu tiên xuất hiện hái lượm, rồi săn bắn (lấy sản vật tự nhiên) -> xuất hiện trồng trọt và chăn nuôi. Kèm theo quá trình trên là tách lao động thương nghiệp và công nghiệp ra khỏi lao động nông nghiệp, lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, tách thành thị khỏi nông thôn -> Sinh ra đối lập, sự lệ thuộc cá nhân vào phân công lao động. Có một sự phân biệt trong quá trình phân công lao động, người nào có năng lực chế ngự được tự nhiên thì là người chủ.... II. Quá trình phát triển tư duy của Mác - Logic của việc đi từ khái niệm sở hữu tư nhân đến lao động tha hoá và phân công lao động : Đầu tiên, Mác học về triết học, làm về pháp luật. Nhưng qua các vấn đề xã hội, ông thấy rằng nguyên nhân cốt lõt của các vấn đề xã hội là từ vấn đề kinh tế. Mác nghiên cứu kinh tế tư bản với tư cách như một mắt xích trong lịch sử phát triển của nhân loại (khác với A. S. hay các nhà kinh tế tư sản khác - nghiên cứu về kinh tế thị trường để làm sao cho nền kinh tế thị trường vận hành tốt hơn), và theo ông, nghiên cứu thấu đáo một hình thái cao hơn, gần hơn trong hiện tại (tư bản), sẽ có thể hiểu rõ hơn về căn gốc của các hình thái trước đó. Từ đó, Mác chuyển sang nghiên cứu về kinh tế. Đầu tiên, ông viết "Bản thảo kinh tế - triết học" (1844). Đây là một tác phẩm có tư cách nền tảng, giúp người nghiên cứu có thể hiểu về Mác, với cách đặt vấn đề từ "sở hữu" (theo thày, sở hữu gắn liền với tư hữu). Trong đó, Mác nghiên cứu một số phạm trù: Tiền công - Lợi nhuận - Địa tô (những phạm trù căn bản trong kinh tế thị trường). Tương ứng với 3 phạm trù đó là 3 phạm trù khác: Lao động - Tư bản - Địa chủ. Ông phân tích các phạm trù đó theo từng cặp tương ứng, mà tư bản (gắn liền với sở hữu) là khái niệm trung tâm. Từ đó, ông thấy rằng nghiên cứu về tư bản đi đến lợi nhuận, lợi nhuận lại gắn với tiền công, mà muốn nghiên cứu về tiền công, phải nghiên cứu về lao động. Lôgíc (phương pháp) nghiên cứu. Lôgíc (phương pháp) trình bày. Theo Mác, dĩ nhiên, phương pháp nghiên cứu khác với phương pháp trình bày. Phương pháp nghiên cứu duy nhất đúng là đi từ trừu tượng đến cụ thể (bản thân phương pháp nghiên cứu của bộ "Tư bản" đúng là như vậy). 2 phương pháp đó khác nhau, nhưng suy cho cùng lại chính là nhau. Lôgíc nghiên cứu: từ một hiện thực cụ thể (sự hiểu các tính qui định, các đặc tính của nó chỉ mang tính cảm tính => có thể coi như một phạm trù rỗng). Qua quá trình trừu tượng hóa, dần dần sẽ đi đến điểm trừu tượng nhất (về mặt lôgíc). Tới đó, bản chất hiện thực sẽ có thể được hiểu được xuất hiện. Nhưng để người khác có thể hiểu, phải trình bày. Sự trình bày lại đi theo một quá trình hoàn toàn ngược lại - đi từ một hiện thực cụ thể (nhưng tới giờ đã hoàn toàn là lý tính, đi từ cái trừu tượng nhất). Để có một nhận thức cảm tính ban đầu, Mác cũng đã phải đọc một khối lượng tài liệu khổng lồ, từ đó mới có thể trừu tượng hóa. Quá trình tư duy của Mác: Từ 3 cặp phạm trù trên: Lao động tha hóa -> phân công lao động -> khái niệm giá trị ....-> đến một điểm nào đó, biến thành tư bản (hiện thực của tư bản còn phong phú hơn nhiều so với khái niệm giá trị) -> các khái niệm khác: Giá trị thặng dư (tuyệt đối và tương đối), lịch sử sản xuất (trong đó quan trọng nhất là khái niệm giá trị thặng dư tương đối), vận động trong trạng thái tĩnh của tư bản (tức là lúc đó đã cố định tư bản, cho tư bản vận động khi các điều kiện khác không đổi) ... từ đó đi đến lý thuyết mức lợi nhuận bình quân giảm -> sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản. Cho đến đó, lại tái hiện lại khái niệm ban đầu - Tư bản. Thực chất, đi đến khái niệm giá trị là đã đến điểm trừu tượng nhất. Theo Mác, phạm trù lao động được hiểu là lao động tha hóa (trở thành một phạm trù triết học) (do sự tha hóa, "lao động chính là tư bản" - do sản phẩm của lao động thuộc về tư bản, trở thành tư bản). T - H - T' (T và T' là tư bản -> H cũng là tư bản). Trước hết phải hiểu về "tha hóa" (được trình bày rõ nhất trong triết học của Hêgel). Tha hóa có nghĩa là một sự tồn tại, nhưng đã đánh mất bản chất. Tha hóa phải được xem xét trong từng quan hệ cụ thể (tức là chỉ có thể nói rằng tha hóa hay không tùy theo việc xét trong quan hệ . Lao động tha hóa tức là sản phẩm do lao động sản xuất ra nhưng lại trở thành lực lượng đối lập với lao động do nó đã thuộc về người khác. Nếu xét trong quan hệ hiện thực, người làm ra của cải phải được quyền đối với sản phẩm làm ra. Nhưng trong xã hội tư bản, sản phẩm do người lao động sản xuất ra không thuộc về người lao động -> lao động đã bị tha hóa. Khi lao động tạo ra sản phẩm, sản phẩm không tồn tại như là sản phẩm của lao động của người lao động mà tồn tại với tư cách là tư bản, thuộc về nhà tư bản (tức là lực lượng đối lập với lao động). "Sản phẩm càng nhiều, thế giới nói chung càng giàu có thì lao động càng nghèo đi". Nếu nhìn theo một khía cạnh khác, lao động đã tự tha hóa. Khi lao động sản xuất ra sản phẩm mà sản phẩm không thuộc về mình, đấy là lao động bị tha hóa (trên quan hệ sản phẩm và người lao động).Khi nói tới "Tự tha hóa" - tức là xét trên khía cạnh: "lao động quan hệ với chính bản thân". Lao động là bản chất của con người. Nhưng trong quan niệm tự tha hóa, lao động sẽ không thuộc về bản chất của con người nữa. Con người khác con vật ở lao động (khi phân biệt như vậy, tất cả các chức năng khác là giống như con vật (ăn, ngủ, yêu đương...) - trong đó cũng có bản chất người, nhưng đó chỉ là hệ quả). Khi lao động bị tha hóa, người lao động làm ra của cải, nhưng không thuộc về mình thì lao động đó là lao động khổ sai, lao động đó không còn là bản chất người, do đã là sự khổ sai (lao động như một con vật). Trong khi đó, các chức năng khác thuộc về bản thân người đó lại được coi như những chức năng của con người và hoàn toàn ngược lại. Do đó, lao động tự tha hoá trong bản thân người lao động. Lao động mang bản chất người, lại trở thành bản chất vật. Đã từng có một thời, tuy lao động không phát triển như lao động trong chủ nghĩa tư bản, nhưng lao động mới được coi là lao động (người ta muốn lao động), còn trong chủ nghĩa tư bản, tuyệt nhiên lao động thuộc về người khác -> lao động là sự khổ sai. Để hiểu chủ nghĩa tư bản, phải xuất phát từ lao động tha hóa. Theo Mác, lao động tha hóa chính là sở hữu tư nhân (thuộc về A, tức là không thuộc những người khác). Bởi lao động tha hóa là lao động thuộc về người khác, mà không thuộc về mình. ở chỗ khác, ông lại viết: "Sở hữu tư nhân là sản phẩm của lao động bị tha hóa". Cho nên, để có thể hiểu bản chất sở hữu tư nhân, phải hiểu bản chất của lao động tha hóa (hay tại sao lao động lại bị tha hóa ?). Đó là một bước tiến lớn về lý luận (muốn hiểu CNTB phải từ lao động của con người). Trong KTCT trước Mác, khi bàn về kinh tế thị trường, chỉ bàn tới của cải. Khi đã đạt đến phạm trù lao động tha hoá, Mác bắt đầu chuyển sang phê phán. Ông đề cập tới rất nhiều các trường phái như trọng thương, trọng nông, KTCT tư sản cổ điển... Các trường phái đó cũng đều đã đề cập đến lao động. Qua những phân tích đó, Mác rút ra nhận xét: muốn hiểu được lao động tha hóa, phải hiểu được phân công lao động và trao đổi. Phân công lao động là một điểm then chốt để có thể hiểu Mác và đó là một bước nhảy thực sự. Cuốn "Bản thảo kinh tế - triết học" là nền tảng trong cách đặt vấn đề của Mác. Cuốn tiếp theo, trình bày rõ hơn, hệ thống hơn và tiến gần thêm một chút - tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" - cuốn trình bày hệ thống nhất về quan điểm của Mác. Một khi có phân công lđ thì mỗi người đều có 1 phạm vi hoạt động nhất định mang tính chất độc chuyên (chuyên môn hóa cố định vào 1 việc) và hệ quả là người này muốn sống thì cứ phải gắn chặt vào việc đó, không thể thoát ra được vì không muốn mất đi những điều kiện sinh tồn của mình. Đầu tiên xuất hiện hái lượm rồi săn bắn (lấy sản vật tự nhiên). Sau đó xuất hiện trồng trọt và chăn nuôi vì lao động của con người càng ngày càng chiếm nhiều hơn trong lao động làm ra của cải. Kèm theo quá trình trên là việc: Tách lao động thương nghiệp và công nghiệp ra khỏi lao động nông nghiệp Tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay. Tách thành thị khỏi nông thôn (thành thị là cái bướu của nông thôn). Hệ quả là sinh ra đối lập, sự lệ thuộc của cá nhân vào phân công lao động và biến con người thành con vật thành thị hay con vật nông thôn. Vì cả hai loại người đều ngu dốt như nhau, chỉ là một mảnh của con người nói chung. Có một sự phân biệt trong quá trình phân công lao động, khi trình độ phân công đang ở trình độ nông nghiệp và ở trình độ công nghiệp. ở trình độ Nông nghiệp: Tư liệu sản xuất là ruộng đất, rừng núi, thuỷ lợi là chính. Công cụ do con người làm ra không nhiều. Tự nhiên quyết định quan hệ của con người với tự nhiên và qđ qhệ giữa người với người. Người nào có năng lực chế ngự được tự nhiên thì là người chủ. Hình thái này nói chung không có thương mại, có trao đổi nhưng không phải là mua bán, trao đổi mang tính cục bộ, địa phương trong phạm vi rất hẹp. Người với người gắn bó với nhau bằng những quan hệ mang tính tự nhiên như quan hệ huyết thống, dòng họ, làng xã. Quan hệ mang tính tự nhiên. Trao đổi là trao đổi chủ yếu giữa lao động của con người với sản phẩm tự nhiên. Với trình độ phân công lao động thì không cần trí tuệ cao (chỉ cần xoá mù chữ) không có nhu cầu tách lao động trí óc ra khỏi chân tay. Sự thống trị của người có sở hữu với người không có sở hữu được thực hiện dựa vào quan hệ cá nhân trực tiếp thông qua cộng đồng. So sánh với trình độ phân công lao động công nghiệp: Không phải lực lượng tự nhiên quyết định mà chủ yếu nhờ vào công cụ do lao động tạo ra (công cụ là lao động vật hóa). Khi đó, quan hệ lao động vật hóa quyết định quan hệ giữa người với người, hay người có quyền sở hữu lao động vật hóa quyết định. Bắt đầu phát triển trao đổi hàng hóa, thương mại. Nhưng không phải như trước, mà bản chất quan hệ thương mại ở trình độ này không có biên giới. Chênh lệch về giá cả khiến cho hoạt động thương mại vượt qua mọi quốc gia. Khi đã có sự trao đổi, nó giả định các cá nhân độc lập với nhau (độc lập, tự do trong lựa chọn), hay nó đồng nghĩa với một mệnh đề: kinh tế thị trường dẫn tới sự tự do cá nhân (do bắt nguồn từ dân chủ trong kinh tế). Quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ giữa người với người. Giả định là phải có phân công lao động trí óc và lao động cơ bắp, do đòi hỏi phải có tri thức (để có thể sáng tạo công cụ). Sự thống trị của người có sở hữu với người không có sở hữu không phải dựa vào quan hệ cá nhân trực tiếp thông qua cộng đồng, mà sự thống trị thông qua một quan hệ vật chất cụ thể, một hình thức vật chất trực tiếp, mà đỉnh cao là bằng tiền. Khi đã định hình khái niệm phân công lao động, chúng ta sẽ chứng minh: PCLđ = Sở hữu (tư nhân) = Lao động tha hóa "Ngay từ đầu, phân công lao động đã bao hàm sự phân chia các điều kiện lao động, công cụ lao động và vật liệu. Do đó, nó cũng bao hàm sự phân chia giữa tư bản và lao động"- (lao động sống). Tư bản ở đây là lao động vật hóa - là vốn, máy móc,.... "Sự phân công lao động càng phát triển và sự tích luỹ (tư bản, hay lao động tích luỹ lại) càng tăng thì sự chia cắt càng trở nên rõ rệt. Bản thân lao động chỉ có thể tồn tại trong sự chia cắt đó" (Bởi lao động tương đương với một trình độ phân công lao động, mà là một điều tất yếu, thì bản thân lao động chỉ có thể tồn tại trong sự chia cắt, hay gắn với một sự phân công lao động) - (trích trang 95) "Một khi bắt đầu có sự phân công lao động, mỗi người có một phạm vi hoạt động và độc chuyên". Tức là phân chia bản thân lao động (hay hoạt động lao động). - (Trang 47) Lao động tạo ra sản phẩm không thuộc về mình, mà thuộc về nhà tư bản -> sản phẩm của lao động đương nhiên thuộc về người khác. Sự tha hóa của lao động chính là do sự phân công lao động, hay sự chia cắt tạo ra sự tha hóa là đương nhiên. Khi phân chia bản thân lao động, lao động chính là sự đánh mất nhân cách. "Chừng nào sự phân chia lao động còn được tiến hành không phải dựa trên sự tự nguyện, thì chừng đó hành động của bản thân con người trở thành một lực lượng đối lập với con người, nô dịch con người". - (Trích trang 95) Phân công lao động -> chuyên môn hóa (Méo mó - nghèo nhân cách - và lệ thuộc vào hệ thống -> lệ thuộc vào lao động vật hóa - vào tư bản -> lệ thuộc vào tư bản - sản phẩm của lao động không thuộc về mình - đó là sự tha hóa của lao động). Phân công lao động -> Sở hữu tư nhân -> lao động tha hóa, nhưng để hiểu lao động tha hóa, lại phải xem lại phân công lao động. Chủ nghĩa Cộng sản như định nghĩa của Mác là thủ tiêu sở hữu tư nhân. Muốn có điều đó, phải thay đổi tất cả các điều kiện trong đó lao động của con người bị tha hóa -> phải thủ tiêu phân công lao động làm cho lao động bị tha hóa. Nhưng đó phải là một quá trình tự nhiên, tự thân nó nảy sinh yếu tố xóa bỏ nó. Khi Mác nói, sản phẩm của lao động không thuộc lao động (cá nhân) mà nó thuộc về người khác - hay những tư liệu sản xuất còn lại không thuộc về một cá nhân (hay những cá nhân rời rạc - đa số cá nhân) mà thuộc về một lực lượng nào đó khác với từng cá nhân, hay thuộc về xã hội (dưới hình thái những nhà tư bản) và hình thái chiếm hữu tư liệu sản xuất này là tư nhân. Mâu thuẫn giữa lao động mang tính cá nhân và lực lượng sản xuất mang tính xã hội. Để có thể xóa bỏ mâu thuẫn đó, tất yếu chỉ có xóa bỏ sơ hữu tư nhân. Phân công lao động phát hiện ra phạm trù giá trị - đây là điểm mấu chốt nhất để có thể hiểu học thuyết Mác. Bước chuyển này rất phức tạp và ít được Mác viết một cách trực diện. Trong sự phân công lao động này, con người bị cố định trong một công việc, trở thành một bộ phận trong cỗ máy xã hội. Kiểu phân công lao động đó mới dẫn tới lao động tha hóa (sau này còn nghiên cứu về kiểu phân công lao động khác) III. Giải quyết vấn đề sở hữu tư nhân, lao động tha hoá... để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới: 1. Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây , vì nhiều lý do khách quan và chủ quan đã dẫn tới việc xoá bỏ một cách nhanh chóng các loại hình tư hữu, xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt, nhanh chóng thực hiện quốc doanh hoá, tập thể hoá. Trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tran, sự điều hành tập trung cao độ theo lối hành chính - quân sự đã có hiệu quả nhất định... Sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975), vào thời kỳ trước đổi mới, sai lầm chính của chúng ta là ở chỗ: Điều kiện trong và ngoài nước đã có những thay đổi nhất định, song vẫn quá 'say sưa" với kinh nghiệm cũ, đem áp dụng một cách máy móc những tiến trình cải biến quan hệ sở hữu đã làm. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ, sở hữu tư nhân còn tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển, đang là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Tuy vậy, nếu để cho quá trình đó diễn ra một cách hoàn toàn tự phát thì tất yếu dẫn tới quá trình phân hoá, tập trung trong tư liệ sản xuất, hình thành chủ sở hữu tư bản riêng biệt, sở hữu tư bản cổ phần, hình thành các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia và sở hữu nhà nước tư bản chủ nghĩa. Động lực sở hữu tư nhân và tác động tự phát của qui luật giá trị tất yếu dẫn tới chế độ tư bản chủ nghĩa và khi đó sẽ kéo theo những tai hoạ do chế độ tư hữu sinh ra. Mặt khác, nếu triệt để xoá bỏ tư hữu, xác lập chế độ công hữu một cách cực đoan, quản lý nền sản xuất theo cơ chế kế hoặch hoá tâph trung quan liêu, thiết lập một cơ chế kinh tế phi hàng hoá - thị trường thì sẽ triệt tiêu động lực phát triển của sản xuất xã hội, làm cho sản xuất ngừng trệ, đời sống khó khăn, phát sinh nhiều tiêu cực khác và sẽ làm lung lay tận gốc chế độ chính trị tiến bộ đã được xây dựng. Đó là mâu thuẫn và là vấn đề nan giải mà các nước đã từng lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trước đây đã phải giải quyêt Quá trình chuyển biến một cách tự nhiên từ hình thức sở hữu này sang hình thức sở hữu khác ở mỗi dân tộc phụ thuộc vào điều kiện lịch sử - cụ thể ở mỗi nước, vào tình hình trong nước và quốc tế, vào nhân tố chủ quan, tìm cách vận dụng qui luật khách quan, vào nhân tố tích cực trong hệ thống chính trị mỗi nước. 2. Ngày nay, công cuộc đổi mới ở nước ta đang tìm những hình thức kinh tế để khắc phục tính chất trái tự nhiên của chế độ công hữu hình thức trước đây, để chuyển một cách tự nhiên phù hợp giữa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất với sự phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Chúng ta đã tìm cách khắc phục chế độ công hữu hình thức trước đây nhằm khơi dậy những động lực, làm cho nền kinh tế khởi sắc, sống động. Trong nông nghiệp; thực hiện khoán 100 (theo chỉ thị 100 của Ban Bí Thư), những công cụ cầm tay đã hoàn toàn thuộc về sở hữu của người lao động. Đến khoán 10 (theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ), quyền sở hữu về trâu, bò, cày, bừa, máy móc và quyền sử dụng ruộng đất lâu dài đã được trao cho nông dân. Ngày nay, hộ nông dân đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ, nhiều hộ ở một số vùng đã trở thành đơn vị sản xuất hàng hoá. Với tư cách người chủ tư liệu sản xuất, quan hệ với thị trường, người lao động đã quan tâm đến hiệu quả tư liệu sản xuất và sức lao động. Ngoài ra, trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, người lao động: Tách rời Tư liệu sản xuất và sức lao động, không có quyền tổ chức quản lý, không có quyền phân phố và chi phối sản phẩm lao động mà mình làm ra. Trong khi đó lao động tha hoá: Lao động là bản chất con người, con người bằng lao động và cũng chính lao động đã làm biến đổi chính bản thân con người. Thì giờ đây nó trở thành lực lượng đối lập với con người, thống trị con người. Sản phẩm của lao động -> Lực lượng thống trị con người. Chính vì vậy để

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35110.doc
Tài liệu liên quan