Đề tài Lỗi từ vựng trong báo Tiền Phong

MỤC LỤC

 

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Đối tượng nghiên cứu 1

3. Nhiệm vụ 1

4. Lịch sử nghiên cứu 2

5. Phạm vi tư liệu và phạm vi đề tài 2

6. Phương pháp nghiên cứu 2

NỘI DUNG 3

I. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài 3

1. Từ là gì? 3

2. Chuẩn ngôn ngữ 3

3. Lỗi ngôn ngữ 5

II. Khảo sát lỗi 6

1. Lỗi sử dụng từ không chính xác 6

2. Lỗi sử dụng từ sai phong cách 7

3. Lỗi lặp, thừa từ 9

4. Lỗi thiếu từ 10

5. Lỗi dùng từ sai kết hợp 11

6. Lỗi dùng từ địa phương 12

7. Hiện tượng sáng tạo từ mới 13

III. TIỂU KẾT 14

1. Hậu quả của việc tồn tại các lỗi về từ trên báo chí 14

2. Một số giải pháp, đề xuất nhằm khắc phục lỗi về từ 15

KẾT LUẬN 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5863 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lỗi từ vựng trong báo Tiền Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p thực tiễn để khắc phục tình trạng trên. 4. Lịch sử nghiên cứu Vấn đề chuẩn ngôn ngữ nói chung và chuẩn từ vựng nói riêng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều người. Về mặt lý luận: - Có các công trình nghiên cứu về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn từ vựng khái quát như: Từ vựng học, tiếng Việt thực hành. - Công trình nghiên cứu về chuẩn ngôn từ và lỗi sai trên báo chí như: Viết báo như thế nào của Đức Dũng, Ngôn ngữ báo chí của Hoàng Anh. Áp dụng lý thuyết vào các nghiên cứu khoa học cụ thể, chúng tôi được biết tới công trình: Khảo sát cách sử dụng từ ngữ lệch chuẩn trên báo Hoa học trò, khảo sát lỗi sai từ trên Báo Hà Nội mới. Song, coi các vấn đề từ vựng trên báo chí như đối tượng trung tâm thì chúng tôi chưa biết tới tác phẩm, công trình nào. Vì thế, bài tiểu luận này, trên cơ sở những công trình đã được công bố và quan điểm chủ quan, chúng tôi sẽ đi vào làm nổi bật các lỗi sai về từ trên báo in. 5. Phạm vi tư liệu và phạm vi đề tài Phạm vi đề tài: khảo sát các lỗi sai, các hiện tượng chưa thống nhất về từ, ngữ trên báo in. Phạm vi tư liệu: Chúng tôi sẽ đi vào khảo sát một vài số của báo “Tiền phong”. Cụ thể: tư liệu khảo sát trên các số: 281, 283. 6. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cơ bản mà chúng tôi sử dụng trong báo cáo khoa học này là: - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích, miêu tả. - Phương pháp so sánh Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập tư liệu. Phương pháp phân tích sử dụng để phân tích tư liêu, xếp tư liệu vào những loại cụ thể. Sau đó chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh để tìm ra những điểm khác biệt và mối tương quan giữa các kiểu lỗi đã tìm được. NỘI DUNG I. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài Trước khi đi vào khảo sát, miêu tả, phân loại các loại lỗi chúng tôi sẽ nói về một vài vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài này. 1. Từ là gì? Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 300 định nghĩa về từ. Tuy nhiên để chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản thì có thể hiểu là “là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu”. (Quan niệm của các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến) Quan niệm về từ, cách phân loại các kiểu từ hiện nay chưa có sự thống nhất. Vì vậy cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc chuẩn hoá từ vựng. ở đây có liên quan đến vấn đề chuẩn. Vậy chuẩn ngôn ngữ , chuẩn từ vựng là gì là gì? 2. Chuẩn ngôn ngữ Có nhiều cách hiểu về chuẩn ngôn ngữ. Tuy nhiên những quan điểm này hầu như không có sự mâu thuẫn: Theo GS Nguyễn Văn Khang thì “ngôn ngữ chuẩn mực có thể hiểu là biến thể ngôn ngữ đã qua chỉnh lí, đáp ứng được nhu cầu giao tiếp đa dạng và phức tạp của cộng đồng nói năng để thực hiện hiện đại hoá”. GS Vũ Quang Hào cho rằng: “Chuẩn mực ngôn ngữ được xem xét trên hai phương diện: Chuẩn mực mang tính quy ước xã hội tức là phải được xã hội chấp nhận và sử dụng. Mặt khác chuẩn mực phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử”. Như vậy chuẩn ngôn ngữ phải đảm bảo tính đúng và thích hợp. Chuẩn ngôn ngữ có hai điểm quan trọng: - Chuẩn ngôn ngữ mang tính quy ước xã hội và được xã hội đó cùng chấp nhận sử dụng. - Chuẩn ngôn ngữ không mang tính ổn định. Nó biến đối phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử. Vì rất có thể “lỗi của ngày hôm qua trở thành chuẩn hôm nay, lỗi hôm nay sẽ là chuẩn ngày mai” (Claude Haugège) Ngôn ngữ chuẩn phải thể hiện được các chức năng sau: - Chức năng thống nhất - Chức năng uy tín - Chức năng tham dự - Chức năng khung tham chiếu Một trong những khái niệm có liên quan đến chuẩn ngôn ngữ là chuẩn hoá ngôn ngữ. Chuẩn hoá là việc xác định và thực hiện các chuẩn mực ngôn ngữ vào các điều kiện cụ thể trong xử lí ngôn ngữ. Chuẩn hoá ngôn ngữ là chuẩn hoá ngôn ngữ văn học. Nói chung chuẩn mực ngôn ngữ văn học chủ yếu là ngôn ngữ viết. Chuẩn hoá ngôn ngữc của một quốc gia nói chung là nhằm: - Loại bỏ trở ngại giao tiếp mà do hàng loạt các lí do đã tạo ra các biến thể, gây khó khăn cho giao tiếp. - Thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của ngôn ngữ quốc gia dân tộc - Thực hiện quá độ từ chuẩn cũ sang chuẩn mới Chuẩn hoá ngôn ngữ đã đựơc xác định là triển khai theo hướng xã hội hoá và phát triển theo hướng dân chủ hoá. Những cái không đúng, không phù hợp gọi là lệch chuẩn hoặc lỗi Theo công trình nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Vân thì chuẩn hoá từ vựng đặt ra một số vấn đề sau: - Từ ngữ sử dụng trong văn bản phải phù hợp với phong cách của văn bản ấy - Hiện nay nhiều người thích sử dụng những từ cổ, từ Hán Việt để gây sự chú ý. Tuy nhiên do chưa hiểu kĩ nghĩa của các từ nên đã sử dụng từ sai. Vì vậy cần phải nắm chắc nghĩa của từ để sử dụng cho đúng, phù hợp với văn cảnh. - Sử dụng từ địa phương hợp lí. Nên coi một số từ địa phương là chuẩn trong các trường hợp sau: + Từ địa phương và từ toàn dân được dùng song song +Từ để gọi tên sự vật, hiện tượng chỉ có ở địa phương. 3. Lỗi ngôn ngữ Lỗi ngôn ngữ là những thể hiện ngôn ngữ làm người tiếp nhận thông tin hiểu sai, không hiểu hoặc không chấp nhận, phù hợp với tư duy của con người. Tuy nhiên khi nhìn nhận một lỗi ngôn ngữ nên dựa vào những kiến thức chung mà cộng đồng vẫn chấp nhận hoặc không chấp nhận. Đôi khi có thể do năng lực ngôn ngữ của người phát tin kém mặc dù trong tư duy người phát thì đúng nên không truyền đạt hết được những thông tin cần thông báo. Do đó làm người nghe hiểu sai hoặc không hiểu được nội dung. Điều đó đã phávỡ nguyên tắc tương ứng 1-1 giữa việc mã hoá và giải mã. Do người viết muốn sáng tạo ra những cái mới để tạo ra sự hấp dẫn nhưng đôi khi những cái mới đó làm người đọc hiểu sai nghĩa, không phù hợp với sự chấp nhận chung của cộng đồng. Tuy nhiên nếu các sáng tạo đó phù hợp với cộng đồng, được cộng đồng chấp nhận thì nó lại có sức lôi cuốn người đọc. Trường hợp đó người ta lại không coi là lỗi. Khi xác định lỗi ngôn ngữ phải dựa trên những đặc trưng về phong cách chức năng, tức tu từ học chuẩn mực một cách không cứng nhắc, rập khuôn. Mỗi phong cách chức năng khác nhau lại có cách viết, cách sử dụng từ...khác nhau. Lỗi ngôn ngữ có liên quan đến nhiều mặt khác nhau của ngôn ngữ học như: phong cách học, từ vựng học, ngữ pháp học...Mỗi mặt đều có hệ thống chuẩn mực riêng cho phép người ta nhận định đâu là lỗi ngôn ngữ. Theo ý kiến của Gs Nguyễn Văn Hiệp và Gs Nguyễn Minh Thuyết trong các văn bản thường mắc phải các loại lỗi sau: + Lỗi lặp, thừa từ + Lỗi thiếu từ + Lỗi dùng từ sai nghĩa + Lỗi sai về phong cách Với tác giả Hoàng Anh lại chia thành 4 loại lỗi: + Lỗi về phong cách + Lỗi về nghĩa của từ + Lỗi về kết hợp từ + Lỗi về lặp từ Qua công trình nghiên cứu Phạm Thị Hồng Vân đã khảo sát được các loại lỗi sau: + Dùng từ sai nghĩa + Dùng từ sai kết hợp + Dùng từ sai phong cách + Lỗi lặp từ, thừa từ + Một số lỗi khác: sai quy chiếu, tự tạo từ mới, dùng từ địa phương, sai trật tự từ... Còn chúng tôi qua quá trình khảo sát và dựa trên những ý kiến đó có thể chia ra thành các loại lỗi như sau: + Lỗi dùng từ không chính xác + Lỗi dùng sai về phong cách + Lỗi lặp từ, thừa từ + Lỗi thiếu từ + Lỗi kết hợp + Lỗi dùng từ địa phương + Hiện tượng sáng tạo từ mới II. Khảo sát lỗi 1. Lỗi sử dụng từ không chính xác Mỗi từ khi được dùng phải biểu đạt chính xác nội dung cần thể hiện, tức là nghĩa của nó phải thích hợp nhất với điều định nói. Nếu người nói hay người viết không đáp ứng được yêu cầu này phat ngôn của họ sẽ trở nên khó hiểu hoặc bị sai. Nhìn chung, hiện tượng này thường gặp ở những trường hợp sau đây: + Do người viết không nắm được nghĩa của từ, nhất là các từ Hán Việt, các thuật ngữ khoa học. + Do người viết nhầm lẫn các từ gần âm gần nghĩa với nhau. + Do ngưòi viết muốn sáng tạo từ mới nhưng lại không có dấu hiệu hình thức để đánh dấu, khiến ngưòi đọc dễ hiểu sai vấn đề. Ví dụ 1: Trong số các nguyên nhân được đề cập đến có vấn đề môi trường sống bị xuống cấp và các loại thức ăn chế biến ngày càng được sử dụng các loại hoá chất, mà người ta chưa biết tác hại của chúng thế nào, đến đâu. (số 88, 2006) “Xuống cấp” có nghĩa là ở vào tình trạng chất lượng sút kém hẳn so với trước. Thường dùng cho các cơ sở hạ tầng: nhà cửa, trường, lớp... chứ với “môi trường sống” không dùng từ “xuống cấp”. Đặt trong trường hợp câu này không phù hợp lắm, mà ở ví dụ này ý tác giả muốn nói tình trạng môi trường sống bị ô nhiễm bẩn tới mức độ gây độc hại. Vì vậy nên dùng từ “ô nhiễm ” thay cho từ “xuống cấp”. Ví dụ 2: Tuy nhiên sau nhiều tháng bị cày xới, đường Thạch Bàn giờ đây đã bị xuống cấp. Do không có dấu hiệu hình thức giúp ta hiểu từ cày xới theo một nghĩa khác nên câu này dễ gây ra hiểu lầm cho người tiếp nhận thông tin. Điều mà tác giả bài báo muốn nói ở đây là: do có quá nhiều ô tô với trọng tải nặng đi qua nên đường mới bị hỏng, chứ không phải theo cách hiểu của đa số mọi người là do đường bị cày lên thật. Do đó từ cày xới bị quy vào loại dùng từ sai nghĩa. Chúng tôi sửa câu này bằng cách cho từ cày xới vào dấu ngoặc kép hoặc có thể in nghiêng nó. 2. Lỗi sử dụng từ sai phong cách Dùng từ sai phong cách nghĩa là dùng từ không hợp văn cảnh, hoàn cảnh tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức đòi hỏi ngôn ngữ được sử dụng trong đó phải trang trọng, nghiêm túc, hoàn chỉnh, có tính gọt giũa. Còn hoàn cảnh giao tiếp không theo nghi thức (còn gọi là hoàn cảnh giao tiếp thân mật, không mang tính chính thức xã hội) cho phép dùng ngôn từ tự do, thoải mái (thậm chí tuỳ tiện). Nếu người nói người viết không nắm vững điều này thì anh ta dễ dàng mắc lỗi phong cách. So với các kiểu lỗi khác, kiểu lỗi này nghiêm trọng hơn ở chỗ là nó ít nhất cũng phá vỡ tính thống nhất trong giọng điệu chung của toàn văn bản. Ấy là còn chưa kể đến những băn khoăn khó tránh khỏi của người đọc, người nghe về tầm vóc văn hoá của chủ thể phát ngôn. Ví dụ 1: Cô gái da bánh mật với tấm bikini hai mảnh xinh quá là xinh nhoẻn miệng cười... Nếu đây là hoàn cảnh giao tiếp thân mật, gần gũi, trong một phạm vi hẹp thì viẹc dùng ngữ Xinh quá là xinh được chấp nhận. Nhưng câu nói trên là của một nhà báo nên theo chúng tôi phải thay bằng từ: rất xinh. Ví dụ 2: Ông giám đốc công ty thương mại bia Hà Nội cho biết: mỗi ngày nhà máy bia Hà Nội sản xuất ra 25 nghìn lít bia hơi, trong khi mỗi ngày lượng bia hơi tiêu thụ của thành phố là...100 nghìn lít, vì thế người ta có pha phách các loại bia hơi khác vào bia hơi Hà Nội để bán là điều không kiểm soát được. Câu trên không chỉ phạm lỗi lặp từ mà có cả lỗi phong cách. Đó là sự nhầm lẫn giữa phong cách sinh hoạt tự nhiên với phong cách báo chí. Trong báo chí không nên sử dụng những từ ngữ kiểu như văn nói trừ những trường hợp đặc biệt. Chúng tôi sẽ sửa “pha phách” là “pha”. Cả hai từ đều có nghĩa là trộn lẫn vào nhau theo một tỷ lệ nhất định để tạo thành một hỗn hợp nào đó. Nhưng từ “pha phách” rõ ràng mang tính khẩu ngữ hơn. Do vậy cần tránh những cách dùng từ như thế này. Sửa lại:Ông giám đốc công ty thương mại bia Hà Nội cho biết: mỗi ngày nhà máy sản xuất ra 25 nghìn lít, trong khi mỗi ngày lượng tiêu thụ của thành phố là...100 nghìn lít. Vì thế người ta có pha các loại bia hơi khác vào bia hơi Hà Nội để bán là điều không kiểm soát được. Ví dụ 3: Ban tổ chức dỡ tấm nilon phủ ngoài và xẻo chả. (tr2, số 38, 2003) “Xẻo” với nghĩa là cắt gọn ra thành miếng, một phần nhỏ. Tuy nhiên dùng “xẻo” trong phong cách viết thì không hay lắm. Sửa lại: Có thể thay “xẻo” bằng “cắt”. Ban tổ chức dỡ tấm nilon phủ ngoài và cắt chả. 3. Lỗi lặp, thừa từ Lặp từ nghĩa là dùng nhiều lần một từ trong câu hoặc trong những câu liền kề nhau. Có một số trường hợp, người ta sử dụng phép lặp từ như một phương tiện ngôn ngữ phục vụ cho một mục đích nhất định. Chẳng hạn: + Lặp từ để liên kết các câu trong văn bản: Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre-anh hùng lao động. Tre- anh hùng chiến đấu. (Thép Mới) + Lặp từ để diễn đat thật chính xác ý kiến: Nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ các bản tuyên bố của Chính phủ ta và của chính phủ nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào. + Việc lặp lại các thuật ngữ khoa học trong văn bản khoa học hay lặp lại các từ ngữ cần thiết trong văn bản hành chính- công vụ để tránh gây mơ hồ về nghĩa cũng thuộc trường hợp này. Ngoài những trường hợp nói trên, việc lặp đi lặp lại một từ trong câu hay trong những câu liền kề nhau khiến cho câu văn, đoạn văn trở nên nặng nề. Nó chứng tỏ sự nghèo nàn về vốn từ của người viết, và được coi là một loại lỗi dùng từ. Ví dụ 1: Mỗi khi nước sông lọt vào, rau rút chết hàng loạt; lá vàng, thối phao, thân nhũn, rễ có màu đen, và dài, ngọn teo lại, không trắng, và lá không mở ra được. Câu văn trên có hai từ nối “ và” trong một câu là quá lủng củng. Vì vậy cách sửa là bỏ hai từ “ và” thay bằng dấu phẩy. Ví dụ 2: Khu quản lí giao thông 1 cho biết: trong tổng số gần 1000 tuyến đường đô thị tại TPHCM, có 30% số tuyến đường cần trung tu( sửa chữa vừa) nhưng đã quá hạn, 40% số tuyến đường đã quá hạn đại tu(sửa chữa lớn) và 30% số tuyến đường còn lại đã đến hạn duy tu( sửa chữa nhỏ) Theo chúng tôi, ở đây nên bỏ ba cụm từ trong dấu ngoặc kép: sửa chữa vừa, sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ; hoặc dùng những lối diễn đạt khác để không làm câu văn trở nên rườm rà như trên. Ví dụ 3: Ngay sau khi sự việc xảy ra, ông Dương đã gọi điện “cầu cứu” chính quyền địa phương đến giải quyết nhưng không hiểu sao không thấy cán bộ phường Thanh Nhàn đến giải quyết. Lỗi lặp từ giải quyết. Ở câu văn trên chúng ta nên bỏ từ giải quyết thứ 2 4. Lỗi thiếu từ Người viết viết thiếu từ cần thiết gây ra những phát ngôn mơ hồ về nghĩa, những cách hiểu lầm cho độc giả. Vd1. Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên, bàn bạc đến nơi đến chốn. Theo từ điển tiếng Việt( Hoàng Phê), “ lên” là di chuyển đến một chỗ, một vị trí cao hơn, hay là được coi là cao hơn. Như vậy, sau “lên” phải có một tân ngữ đi kèm. Chúng tôi nghĩ nên sửa là: Đại hội Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên bàn nghị sự, bàn bạc đến nơi đến chốn. Ví dụ 2:. Với bí thư Đoàn Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội- Thiếu uý Ngô Quang Hải, việc tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, và làm “ khớp nối” phối hợp giữa Đoàn với Đảng uỷ, Công đoàn các phòng ban trong cơ quan cũng đòi hỏi người cán bộ Đoàn phải có tầm,…” Người viết chỉ sử dụng một từ “ tầm” tạo cho độc giả nhiều cách hiểu khác nhau. Đó có thể là tầm hiểu biết, tầm hoạt động… Do đó người làm báo không nên viết nhiều câu có nhiều cách hiểu như vậy. Ví dụ 3: Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, 3 vị tổng thống gần đây của Ai Cập đều xuất thân quân đội. (tr5, số 38, 2003) Thường đi cùng “xuất thân” có thêm một giới từ “từ” để chỉ rõ nguồn gốc của ai đó. Chúng tôui sửa lại là: Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, 3 vị tổng thống gần đây của Ai Cập đều xuất thân từ quân đội. Ví dụ 2: Trong tiếng mõ, tiếng kinh là tiếng nấc nghẹn của những người mẹ, người chị và nhiều hơn cả những ánh mắt trẻ thơ tội nghiệp dõi ra biển. (tr3, số 110, 2006) Nên thêm từ “là” vào trước những ánh mắt. Người viết đã bỏ quên mất từ “là” biến câu này thành một câu so sánh “nhiều hơn cái gì”. Nhưng mục đích ở đây tác giả muốn nhấn mạnh đến những đứa trẻ tội nghiệp. Do đó câu này nên chêm thêm từ “là” vào để câu được rõ nghĩa hơn. Chúng tôi sửa lại là: “Trong tiếng mõ, tiếng kinh là tiếng nấc nghẹn của những người mẹ, người chị và nhiều hơn cả là những ánh mắt trẻ thơ tội nghiệp dõi ra biển” 5. Lỗi dùng từ sai kết hợp Không phải bất cứ từ nào cũng kết hợp được với nhau để tạo thành câu đúng. Các từ, khi được dùng ở phạm vi câu cũng như phạm vi toàn văn bản luôn nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau về ngữ pháp và ngữ nghĩa. Nói cách khác, mỗi từ phải thích ứng với các từ khác đứng trước nó và đứng sau nó. Nếu người viết không đáp ứng được yêu cầu này anh ta có thể tạo ra những sự mâu thuẫn, phi logích giữa các thành tố ngôn ngữ cấu thành câu hay văn bản. Hơn nữa, các đơn vị trên câu không phải là phép cộng gộp của các từ mà giữa chúng có sự liên kết chặt chẽ. Sự liên kết này do bản thân nghĩa trong các từ tạo nên. Ví dụ1: Thưa ông, tại sao ông Nguyễn Văn Lâm và đoàn công tác được nhận thêm phong bì khi mà họ đã được lo chi phí toàn bộ ăn ở. Ở đây từ “toàn bộ” có tư cách là một tiền tố đứng trước động từ “ chi phí” để bổ nghĩa cho nó. Như vậy người viết đã thay đổi trật tự thông thường nên gây ra lỗi. Chúng tôi sửa là: Thưa ông, tại sao ông Nguyễn Văn Lâm và đoàn công tác được nhận thêm phong bì khi mà họ đã được lo toàn bộ chi phí ăn ở Ví dụ 2: ..., bà lúc nào dường như cũng nghe thấy tiếng nói của bố bà và nhìn thấy gương mặt thân yêu của ông. (tr9, số 38, 2006) Dường như nên đặt trước “lúc nào cũng” thì phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Việt hơn. Chúng tôi sửa là ..., bà dường như lúc nào cũng nghe thấy tiếng nói của bố bà và nhìn thấy gương mặt thân yêu của ông 6. Lỗi dùng từ địa phương Trong giao tiếp, bên cạnh ngôn ngữ toàn dân, các đơn vị thuộc về biến thể ngôn ngữ như phương ngữ, từ địa phương cũng rất hay được sử dụng. Theo giáo sư Nguyễn Thiện Giáp: “Từ địa phương là những từ được dùng hạn chế ở một số hoặc một vài địa phương. Nói chung từ ngữ địa phương là bộ phận nào đó của dân tộc, chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học khi dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu từ”. Tuy nhiên nếu tần số sử dụng của các từ địa phương được lặp lại nhiều trong báo sẽ gây sự khó hiểu cho độc giả. Ví dụ1. Tám tháng trời lăn lóc khắp miền Tây và đậu nhất ở Bến Tre. Trong ví dụ này, người viết sử dụng chất Nam Bộ nhưng nếu người tiếp nhận không biết “đậu” cũng có nghĩa là đỗ lại, dừng lại sẽ dẫn đến cách hiểu sai về nghĩa. Chúng tôi nghĩ rằng nên thay từ đậu bằng từ đỗ thì sẽ phù hợp hơn Ví dụ 2: Lục Vũ, thi bá đời Đường xưa tả chuyện uống trà nghe mới...ghiền làm sao: “...”. (tr6, số 38, 2003) Ghiền là từ địa phương có nghĩa là nghiện. Nhưng ở đây nếu dùng từ ghiền sẽ gây khó hiếu cho độc giả.Vì thế chúng tôi thay ghiền bằng nghiện. Ví dụ 3: Do giai đoạn cuối năm 2005, đầu 2006, Ban QL-ĐT thi công ồ ạt nên phía Bưu điện không làm kịp. Bởi thế đã làm bể tuyến cáp, gây thiệt hại gần 4 tỷ đồng. Bể cũng có nghĩa là vỡ nhưng nhiều người không phải là người miền trong sẽ khó có thể hiểu được từ này, chính vì vậy chúng tôi nghĩ nên sửa lỗi trên bằng cách: thay vì dùng bể chúng ta sẽ dùng từ vỡ để đảm bảo tính thống nhất toàn dân. 7. Hiện tượng sáng tạo từ mới Là hiện tượng thường xuyên gặp trên báo chí. Đó là hiện tượng kết hợp một hoặc nhiều yếu tố của từ này với một hoặc nhiều yếu tố của từ khác để tạo thành từ mới mang nét nghĩa của cả hai từ. Mục đích của người viết muốn tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc hoặc đôi khi tác giả muốn làm cho câu văn ngắn gọn. Tuy nhiên có trường hợp từ mới đó không phù hợp với cái chuẩn và không được cộng đồng chấp nhận vì nó có thể làm cho người đọc hiểu sai nghĩa, thì đó gọi là lỗi ngôn ngữ. Nhưng cũng có trường hợp từ mới lại tạo ra được hiệu quả đích thực của nó và được cả cộng đồng chấp nhận. Và lúc đó người ta không thể quy nó vào lỗi ngôn ngữ. Ở đây chúng tôi tạm gọi là hiện tượng chứ không gọi là lỗi sáng tạo từ. Ví dụ 1: Khom lưng nhưng không thấp đầu, không gập gối, khách khiêm kính cúi chào hoa và thư hoạ rồi về nơi an toạ. (tr6, số 38, 2003) “khiêm kính” là kết quả của việc kết hợp “khiêm nhường” và “kính trọng”. Về mặt nghĩa nó mang nghĩa của hai từ này. Hiện tượng này không sai nhưng lại không phổ biến lắm, khi nghe người ta vẫn cảm thấy hơi “lạ tai”. Ví dụ 2: Chủ bước vào, tiến tới phía khách cúi đầu chào một cách khiêm cung, khách cũng đứng lên cúi chào đáp lễ (tr6, số 38, 2003) “khiêm cung” được tạo nên từ hai từ “khiêm nhường” và “cung kính”. Đay là hình thức rút gọn từ chúng ta không thấy xuất hiện nhiều trong các văn bản và trong giao tiếp hàng ngày. Sau quá trình khảo sát chúng tôi thu được kết quả như sau: Lỗi dùng từ không đúng nghĩa Lỗi dùng từ sai phong cách Lỗi dùng từ sai kết hợp Lỗi lặp, thừa từ Lỗi thiếu từ Lỗi tạo từ mới Lỗi dùng từ địa phưong Số lỗi 125 64 20 90 50 2 6 % 32.89 16.85 5.26 23.68 13.16 3.94 4.22 III. TIỂU KẾT 1. Hậu quả của việc tồn tại các lỗi về từ trên báo chí Đối với bài báo: các lỗi dùng từ sai nghĩa, sai kết hợp sẽ làm cho câu văn tối nghĩa, khó hiểu. Còn lỗi dùng từ sai phong cách sẽ làm cho từ đó câu đó trở nên không phù hợp khi đặt trong văn bản mà đôi khi tạo nên sự lố bịch. Lỗi lặp từ thừa từ thì làm cho đoạn văn bài báo trở nên lủng củng hết sức diễn đạt dài dòng gây nhàm chán. Đối với với độc giả (người tiếp nhận): Các lỗi về từ như chúng tôi đã khảo sát ở trên sẽ gây khó khăn cho quá trình tiếp nhận văn bản của độc giả. Họ sẽ phải đọc đi đọc lại nhiều lần để hiểu xem thực sự tác giả ở đây muốn nói điều gì và như thế rất mất thời gian. Đôi khi đọc đi đọc lại nhiều lần mà độc giả vẫn không hiểu. Hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng rất lớn đến công chúng vì thế những lỗi về từ trên sẽ vô cùng tai hại nếu bị hiểu sai hoặc hiểu không đúng dẫn đến việc truyền đạt thông tin sai lạc. Mà truyền thông đã truyền đi thì sẽ khó sửa lại Đối với tác giả (người sáng tạo): Các lỗi về từ hẳn là ngoài mong muốn của họ. Mục đích của họ chỉ muốn truyền đạt cho công chúng những điều mình muốn nói một cách rõ ràng nhất. Vì thế mà khi trong bài viết của họ mắc lỗi thì việc truyền đạt thông tin dường như đã thất bại một phần. Việc này cũng phần nào ảnh hưởng đến uy tín của ngòi bút phóng viên. Đối với chính tờ báo đó: Các lỗi về từ cùng với các lỗi khác sẽ làm cho bài báo trở nên lủng củng, khó hiểu đối với quá trình tiếp thu của bạn đọc. Nếu việc này xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của bạn đọc với tờ báo. Vì thế mà đôi lúc làm mất uy tín của tờ báo làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ báo và doanh thu của tờ báo. 2. Một số giải pháp, đề xuất nhằm khắc phục lỗi về từ 2.1. Khắc phục trên trình bài viết trong quá trình biên tập và xuất bản Khắc phục lỗi dùng từ sai nghĩa. Để khắc phục lỗi này thì chỉ có một cách là người viết phải cẩn thận khi sử dụng những từ mà mình chưa nắm rõ nghĩa nhất là từ Hán Việt thì phải tra từ điển để hiểu rõ nghĩa xem có đúng với ý định muốn viết của mình không rồi mới viết vào bài Còn đối với nhà biên tập khi gặp lỗi này thì cũng không thể tuỳ tiện sử được mà phải dựa vào từ điển nếu thấy sai thì có thể thay bằng từ khác nhưng phải chú ý đến sắc thái nghĩa phải tương ứng Đối với trường hợp dùng từ chuyển nghĩa thì tác giả nên có dấu hiệu hình thức để cho người đọc dễ nhận biết. Đó là dấu ngoặc kép Khắc phục lỗi dùng từ sai kết hợp thì người viết và nhà biên tập phải đọc lại nhiều lần nếu thấy kết hợp là không thuận tai thì phải kiểm tra lại và sửa lại sao cho thuận tai, và phù hợp với cách nói cách diễn đạt của người Việt Dùng từ sai phong cách: Khi viết tác giả phải nắm vững phong cách mình đang viết là phong cách báo chí nên tránh dùng các từ thuộc phong cách khẩu ngữ và phải sử dụng từ ngữ sao cho phù hợp với văn cảnh. Còn nhà biên tập thì phải căn cứ vào phong cách chức năng của bài, văn cảnh xuất hiện từ đó trongg tờ báo đó để sửa. Lỗi lặp từ, thừa từ: Đối với lỗi này thì người viết hoặc người biên tập phải đọc lại nhiều lần sau khi phát hiện lỗi thì phải bỏ những từ thừa. Còn đối với các từ lặp thì có thể bỏ nếu được, nếu không ta có thể thay thế bằng cách gọi khác đồng sở chỉ hoặc bằng đại từ Đối với lỗi thiếu từ: để phát hiện lỗi này không khó vì có những cụm từ và những cụm từ và những từ nhất thiết nó phải đi với một số hư từ hay một bộ phận nào đó kèm theo. Đọc lên khi thiếu ta sẽ dễ phát hiện ra. Vì thế nhà biên tập chỉ cần phát hiện ra thiếu gì rồi điền thêm vào Còn việc dùng từ địa phương: Không nên dùng từ địa phương trong bài còn nếu muốn dùng để tăng sắc thái nghĩa địa phương thì người viết nên mở ngoặc kép ra từ đó ở tiếng toàn dân là gì Hiện tượng tạo các kết hợp từ mới có kết hợp chấp nhận được thì nên để còn kết hợp nào phi lý không phù hợp với tiếng Việt thì phải bỏ 2.2. Ngoài ra ta cũng có thể lấy ý kiến của bạn đọc về vấn đề này và từ đó rút kinh nghiệm để sữa chữa. Đưa ra các câu hỏi để trưng cầu ý kiến như bạn có thấy dễ hiểu khi đọc các bài viết không và nếu khó hiểu thì ở chỗ nào ở bài nào. KẾT LUẬN Từ luôn được coi là yếu tố hiển nhiên đối với người bản ngữ, vì thế cấp độ dễ ảnh hưởng nhất tới cảm nhận và thói quen sử dụng ngôn ngữ ở người đọc là từ và ngữ. Đặc biệt, trong hoàn cảnh tiếp xúc đa văn hóa hiện nay, vấn đề dùng lai căng, tùy tiện các từ bản ngữ đang gây nhiều tranh luận, bức xúc trong xã hội. Báo chí, với vai trò là phương tiện hướng dẫn và tập hợp quần chúng, cũng cần đặt ra cho mình nhiệm vụ hướng việc sử dụng từ, ngữ vào cái chuẩn. Chính vì thế, khảo sát các lỗi sai trong dùng từ trên báo chí hiện nay là việc làm cần thiết. Quan trọng hơn, tiểu luận này còn chú trọng đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục các vấn đề còn tồn tại. Thông qua tiểu luận, chúng tôi đã tìm ra 7 loại lỗi về từ mà người viết báo mắc phải: Dùng từ sai nghĩa, dùng sai phong cách, lỗi thừa từ, lỗi thiếu từ, lỗi kết hợp từ, lỗi tạo từ mới không hợp lý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN20 (8).doc
Tài liệu liên quan