Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN

Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, của các hình thức giá trị hàng hoá.

Hình thái đầu tiên của giá trị là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, khi số hàng hoá trao đổi còn rất ít và diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên. ở hình thái này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ 2, còn hàng hoá thứ 2 đóng vai trò là vật ngang giá.

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3239 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng giá trị của hàng hoá? Thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết của 1 hàng hoá không phải là 1 đại lượng cố định mà nó thay đổi, vì nó phụ thuộc vào 2 yếu tố là: năng suất lao động và cường độ lao động. Năng suất lao động: là hiệu quả có ích của lao động sản xuất vật chất của con người, nó được đo bằng số lượng sản phẩm làm ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm. W = ; W = Với: Q : là số lượng sản phẩm T : đơn vị thời gian t : lượng thời gian hao phí cho 1 đơn vị sản phẩm q : sản phẩm Trong quá trình lao động sản xuất con người luôn có xu hướng nâng cao hiệu quả sản xuất của mình tức là tăng năng suất lao động, tăng năng suất lao động được thể hiện ở chỗ: tăng số lượng sản phẩm, làm ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc giảm thời gian lao động hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm so với trước. Như vậy thực chất của tăng năng suất lao động là tiết kiệm thời gian lao động. Giá trị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn năng suất lao động lại phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động, mức độ trang bị kỹ thuật cho người lao động và phụ thuộc vào phương pháp tổ chức lao động, cũng như các điều kiện tự nhiên. Cần phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động, nó làm cho số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong 1 đơn vị thời gian tăng lên nhưng hao phí sức lao động cũng tăng lên cùng tỉ lệ và do đó giá trị của 1 hàng hoá không thay đổi. Ngoài 2 yếu tố là năng suất lao động và cường độ lao động ở trên thì lượng giá trị của hàng hoá còn chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Tham gia vào sản xuất hàng hoá với nhiều loại lao động khác nhau nhưng người ta khái quát thành 2 trình độ là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động sản xuất vật chất của con người, không cần phải đào tạo chuyên môn, mà ai có sức lao động cũng có thể làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải có chuyên môn, có đào tạo mới làm được. Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hoá thì mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình của xã hội. a.1.3. Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Hàng hoá có 2 thuộc tính trên bởi vì lao động sản xuất hàng hoá có tính chất 2 mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể: là lao động sản xuất vật chất của con người, nó được tồn tại dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết quả riêng. Lao động cụ thể là 1 phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản xuất vật chất của con người. Lao động trừu tượng: là lao động hao phí của người sản xuất hàng hoá nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính muôn màu muôn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá nên nó là 1 phạm trù lịch sử. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá có tính 2 mặt mà thôi. Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. a.2. Tiền tệ. a.2.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, của các hình thức giá trị hàng hoá. Hình thái đầu tiên của giá trị là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, khi số hàng hoá trao đổi còn rất ít và diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên. ở hình thái này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ 2, còn hàng hoá thứ 2 đóng vai trò là vật ngang giá. Khi mà số lượng hàng hoá trao đổi trên thị trường có nhiều hơn thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng hoá khác. Đó là hình thái giá trị mở rộng hay phát triển. Khi sản xuất hàng hoà phát triển hơn nữa, trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên rộng rãi hơn, thì có 1 hàng hoá tách ra làm vật ngang giá chung. Đó chính là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hoá bất kỳ. Vật ngang giá trở thành môi giới, thành phương tiện trao đổi lúc đầu ở mỗi địa phương, hoặc mỗi dân tộc thường có những sản phẩm khác nhau làm vật ngang giá chung, nhưng khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, thị trường được mở rộng thì vai trò vật ngang giá chung dần dần được cố định ở vàng và bạc thì hình thái tiền tệ của giá trị ra đời. Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá phân làm 2 cực đối lập; một phía là các hàng hoá thông thường, một phía là hàng hoá đóng vai trò là tiền tệ làm vật ngang giá chung thống nhất. Như vậy, tiền tệ là đại biểu cho hao phí lao động xã hội, biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, là 1 hàng hoá đặc biệt mà ngày nay nó được sử dụng làm 1 công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước ở trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Tiền tệ là 1 phạm trù lịch sử. a.2.2. Chức năng của tiền tệ - Quy luật lưu thông tiền tệ - Lạm phát. * Chức năng của tiền tệ: - Chức năng thước đo giá trị: giá trị của mỗi hàng hoá được thể hiện bằng 1 số lượng tiền tệ nhất định. Tiền tệ có thể làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là 1 hàng hoá, cũng có giá trị như các hàng hoá khác. Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền là giá cả. Như vậy, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hoá thay đổi lên xuống xoay quanh giá trị, nhưng tổng giá cả thì luôn bằng tổng số giá trị hàng hoá. - Phương tiện lưu thông: đây là chức năng thứ 2 của tiền tệ, với chức năng này thì tiền tệ làm môi giới trong trao đổi hàng hoá và đó phải là tiền mặt. Khi tiền tệ làm phương tiện lưu thông thì việc trao đổi hàng hoá vận động theo công thức H - T - H. - Phương tiện cất trữ: tiền rút ra khỏi lưu thông thì làm chức năng cất trữ và khi lưu thông cần nó lại đưa vào lưu thông, nhưng làm chức năng này phải là tiền vàng hoặc các kim loại quý hoặc đá quý. - Chức năng phương tiện thanh toán: sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá phát triển làm xuất hiện hiện tượng mua bán chịu do đó tiền còn làm chức năng thanh toán. Với chức năng này phát triển sẽ làm tăng thêm sự phụ thuộc giữa những người sản xuất hàng hoá. - Chức năng tiền tệ thế giới: việc buôn bán giữa các nước xuất hiện thì tiền tệ còn làm chức năng thanh toán quốc tế. Làm chức năng này phải là tiền thật, tức là vàng. Các chức năng trên của tiền tệ biểu hiện rõ nét bản chất của nó, chúng có quan hệ mật thiết với nhau và ra đời theo trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá. * Quy luật lưu thông tiền tệ. Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần có một số tiền nhất định, số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau: = Đây là quy luật lưu thông của tiền vàng. * Lạm phát: Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là quy luật của tiền vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy lại khác. Vì tiền giấy không làm chức năng phương tiện cất giữ được, nên khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thông quá mức cần thiết sẽ dẫn đến lạm phát. Lạm phát là 1 hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá. Lạm phát biểu hiện rõ rệt ở sự tăng lên của giá cả hàng hoá và dịch vụ. Lạm phát dẫn đến phân phối lại các nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giảm tiền lương thực tế của những người sống bằng lương và hưởng trợ cấp xã hội bằng tiền. Căn cứ tốc độ tăng của giá cả mà người ta chia lạm phát thành 3 loại: Tăng dưới 10% gọi là lạm phát vừa phải. Tăng dưới 100% gọi là lạm phát phi mã. Tăng từ 100% trở lên được gọi là siêu lạm phát. Hiện nay, lạm phát đã trở thành 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường hiện đại. b. Thị trường và cạnh tranh. b.1. Thị trường. b.1.1. Khái niệm: Sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường. Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá, giá cả dịch vụ và sản lượng. Nói đến thị trường trước hết là nói đến các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền, người mua và người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mua - bán, cung - cầu và giá cả hàng hoá. Nói đến thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. Ngoài ra thì mỗi một loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: thị trường gạo, thị trường muối, thị trường vải,... Sở dĩ như vậy là vì: hành vi trao đổi trở nên rất thường xuyên, quy mô và phạm vi trao đổi ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá phải qua trao đổi thì mới đến tay người tiêu dùng. b.1.2. Vai trò và chức năng của thị trường. - Thừa nhận công dụng xã hội của sản phầm và lao động đã chi phí để sản xuất ra nó; xác định mức độ giá trị của hàng hoá được thực hiện. Sản xuất hàng hoá là việc riêng của từng người có tính chất độc lập tương đối với người sản xuất khác. Khi sản phẩm bán được, nghĩa là công dụng của nó được xã hội thừa nhận. Điều đó cũng có nghĩa là chi phí để sản xuất ra hàng hoá cũng được thừa nhận và giá trị của hàng hoá được thực hiện. Ngược lại, nếu hàng hoá không bán được nghĩa là hoặc do công dụng của hàng hoá không được thừa nhận (do chất lượng kém, mẫu mã không thích hợp, cung lớn hơn cầu,...) hoặc là do chi phí sản xuất lớn hơn mức trung bình của xã hội nên không được xã hội thừa nhận. - Bình tuyển tự nhiên những người sản xuất hàng hoá: trên thị trường, người sản xuất biết được các đối thủ cạnh tranh của họ và để giành được ưu thế cạnh tranh, họ phải cải tiến chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng cường chữ “tín” với khách hàng, để họ có thể tồn tại. - Chức năng cung cấp thông tin: thị trường nó cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. Thị trường chỉ rõ những biến động về nhu cầu xã hội, số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá và dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với những người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với quan hệ cung - cầu, thay đổi quy cách, mẫu mã cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. - Là đòn bẩy kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng trên thị trường, mọi hàng hoá đều bán và mua theo giá cả thị trường. Cạnh tranh và cung - cầu làm cho giá cả thị trường biến đổi. Thông qua sự biến đổi đó, thị trường có tác dụng kích thích và hạn chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thích và hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu dùng. b.1.3. Phân loại thị trường: Sự hình thành, phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta phân loại thị trường: thị trường cung ứng vật tư kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Sự phân chia thị trường như trên đã tồn tại thời gian khá dài ở nước ta. Nó có nhiều nhược điểm và hạn chế. Một mặt nó phản ánh nhận thức không đúng về nền kinh tế XHCN, mặt khác nó cũng phản ánh trình độ phát triển thấp của nền kinh tế hàng hoá và trạng thái bao cấp trong nền kinh tế. Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hoá nên việc nghiên cứu thị trường và phân loại thị trường có ý nghĩa quan trọng. Có thể phân loại thị trường như sau: Một là, thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. ở thị trường này người ta múa bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo và các phương tiện sinh hoạt gia đình,... Ngoài những hàng hoá hữu hình, còn có những hàng hoá hữu hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá, cắt tóc,... Hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và nó đem lại thu nhập ngày càng lớn. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường này còn được gọi tắt là thị trường “đầu ra”. Hai là, thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như: các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động,... thị trường này, được gọi là thị trường “đầu vào”. Sự phân chia thị trường thành 2 loại trên là dựa vào chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra đến đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó. Ngoài ra nếu dựa vào trình độ phân công lao động thì có thị trường địa phương, thị trường khu vực và thị trường toàn quốc, thị trường thế giới. b.2. Cạnh tranh. b.2.1. Khái niệm: Cạnh tranh kinh tế là sự đấu tranh, sự ganh đua giữa các nhà sản xuất hàng hoá với nhau nhằm giành ưu thế có lợi cho mình trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, để có thể thu được nhiều lãi. Cơ sở của cạnh tranh kinh tế đó là sự khác biệt về lợi ích hay nói cách khác là sự tư hữu về tư liệu sản xuất tạo ra. Cạnh tranh kinh tế là 1 xu hướng mang tính quy luật của nền kinh tế hàng hoá. b.2.2. Vai trò và chức năng của cạnh tranh: - Nó kích thích việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Đó là vai trò tích cực của cạnh tranh trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc những người sản xuất thường xuyên động não, tích cực nhạy bén, năng động, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động,... - Nó có tác dụng tiết kiệm chi phí sản xuất và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống: Để tiêu thụ được nhiều, nhanh các sản phẩm người ta phải nghiên cứu thị trường, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng. Do đó cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn cải tiến chất lượng, hình thức hàng hoá, làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng, phục vụ cho nhu cầu của xã hội tốt hơn. Tóm lại, quy luật cạnh tranh có tác dụng bình tuyển tự nhiên những cái tiến bộ và đào thải cái lạc hậu để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực thì cạnh tranh cũng đồng thời để lại những hiệu quả tiêu cực. Đó là phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm phá sản những người sản xuất gặp khó khăn do trình độ công nghệ thấp, ít vốn, gặp rủi ro,... vào những hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi. Mặt khác, trong cạnh tranh người ta dùng rất nhiều thủ đoạn, có những thủ đoạn kinh tế nhưng cũng có những thủ đoạn bằng bạo lực,.. b.2.3. Các hình thức cạnh tranh: C.Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở trong giai đoạn tự do cạnh tranh, ông đã nêu ra 2 loại cạnh tranh là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Còn các nhà kinh tế học tư sản thì lại phân cạnh tranh thành: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. c. Cơ chế thị trường. c.1. Khái niệm: Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Hiện nay đã có nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường, nói chung thì cơ chế thị trường là những nhân tố, những quan hệ, những công cụ,... mà Nhà nước sử dụng để tác động đến nền kinh tế hàng hoá, làm cho nó vận động theo những quy luật vốn có của nó để đạt được những mục tiêu xác định. Nói đến cơ chế thị trường là trước hết phải nói đến thị trường. Đó là lĩnh vực mà người mua và người bán tác động lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng của hàng hoá và dịch vụ nhằm giải quyết 3 vấn đề là: cái gì? bằng cách nào? cho ai? ở trên thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới 2 mặt cơ bản của nó là: cung - cầu và giá cả của hàng hoá. Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới lợi nhuận. Vì nó là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường, cho nên ở trong nền kinh tế thị trường phải lấy lỗ, lãi để tính toán. Nói đến cơ chế thị trường là nói tới các quy luật kinh tế khách quan tác động đến nền kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung - cầu,... Trong đó quy luật giá trị là quy luật căn bản nhất. c.2. Hai mặt cơ bản của cơ chế thị trường và sự vận động của cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá thì sức cung là đại biểu cho người sản xuất, còn sức cầu là đại biểu cho người tiêu dùng. Giữa cung - cầu và giá cả thị trường - hai mặt cơ bản của cơ chế thị trường, chúng có quan hệ với nhau. Đó chính là nội dung của quy luật cung - cầu về hàng hoá. Sự vận động của cơ chế thị trường được thể hiện qua sự hoạt động của quy luật cung - cầu như sau: - Sức cầu: nhu cầu của con người có nhiều nhưng chỉ có những nhu cầu có khả năng thanh toán mới trở thành sức cầu. Như vậy, sức cầu là biểu hiện nhu cầu về hàng hoá với 1 giá cả nhất định. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sức cầu như: thu nhập bằng tiền của tầng lớp dân cư, tập quán tiêu dùng của họ, giá cả,... nhưng trong đó giá cả là quan trọng nhất. Bởi vì với 1 sức cầu nhất định nhưng nếu giá cả của hàng hoá giảm xuống so với trước thì sẽ đẩy nhanh hành vi mua bán, còn nếu giá cả tăng lên thì sẽ hạn chế sức cầu về hàng hoá đó. Quan hệ giữa sức cầu và giá cả được thể hiện bằng biểu đồ sau: P O Q D Hình 1: Đường cầu P O Q S Hình 1: Đường cung - Sức cung: là đại biểu cho người sản xuất. Tức là số lượng hàng hoá đã, đang và sẽ được cung cấp cho thị trường với 1 giá cả nhất định. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sức cung như: quy mô sản xuất, chi phí sản xuất, giá cả,... Trong đó giá cả là quan trọng nhất, bởi vì với 1 lượng hàng hoá cung cấp nhất định, nếu giá cả tăng lên so với trước thì sẽ làm cho sức cung tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng mặt hàng. Quan hệ giữa sức cung và giá cả được biểu hiện bằng đồ thị ở Hình 2. - Cung-cầu và giá cả thị trường: Giữa cung - cầu và giá cả thị trường có mối quan hệ với nhau. Giá cả thị trường là giá bán hàng hoá ở trên thị trường. Người bán muốn bán với giá cao, người mua thì trả giá thấp. Giá cả thị trường chính là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán hay còn được gọi là giá cả trung bình. ở điểm giá cả trung bình thì sản lượng hàng hoá bán ra bằng sản lượng hàng hoá mua vào. Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả thị trường được biểu hiện bằng đồ thị sau: P O Q D Hình 3 S M P0 Q0 Như vậy: giữa cung - cầu và giá cả thị trường có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hình thành nên quy luật cung - cầu về hàng hoá. Sự hoạt động của quy luật này làm tăng dung lượng của thị trường đồng thời quy luật cung - cầu này điều tiết sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. c.3. Những ưu và nhược điểm của cơ chế thị trường: c.3.1. Cơ chế thị trường có những ưu thế sau đây: Trước hết cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Bởi vì, kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Hai là, cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng với những điều kiện về kinh tế - xã hội, với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá,... Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tại 1 nguyên tắc ai đưa ra thị trường 1 loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên. Ba là, trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú đa dạng. Do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. c.3.2. Cơ chế thị trường cũng có những nhược điểm mà bản thân nó tự giải quyết được. Trước hết phải nói tới những căn bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát,... Do kinh tế thị trường hoạt động theo chu kỳ. Khủng hoảng sản xuất “thừa” là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên dẫn đến tình trạng “dư thừa hàng hoá” nguyên nhân của tình trạng này là do mâu thuẫn của phương thức sản xuất TBCN. Mâu thuẫn này thể hiện ở tính kế hoạch cao độ trong từng doanh nghiệp với tính vô Chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động. Đó là căn bệnh nan giải của nền kinh tế thị trường. Thứ hai, dù kinh tế thị trường hoạt động hoàn hảo đến đâu, hiệu quả kinh tế dù có cao nhưng nó gây ra sự bất công, gây phân hoá giàu nghèo, tạo ra sự phân hoá giai cấp, do đó nó cũng làm tăng thêm mẫu thuẫn giai cấp,... Thứ ba, các doanh nghiệp do chạy theo lợi nhuận cho nên gây ô nhiễm môi trường, làm mất cân bằng sinh thái,... Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của kinh tế thị trường. Nhưng sự điều tiết của nó cũng mang tính chất mù quáng. Hơn nữa các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Có người giàu lên và có người lại nghèo đi. Cạnh tranh khó tránh được lường gạt, phá sản, thất nghiệp,... Tất cả các điều này gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định của xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế - xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao. 3. Quan điểm của Mác - Lênin về kinh tế thị trường trong CNXH. a. Quan điểm của Mác - Ăngghen. Mác và Ăngghen khi phân tích mâu thuẫn của sản xuất hàng hoá đã dự kiến, đến chủ nghĩa cộng sản khi dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động mang tính chất xã hội trực tiếp thì không còn tồn tại sản xuất hàng hoá. Nhưng theo 2 ông thì phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa lại phát triển qua 2 giai đoạn: giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội còn mang nặng dấu ấn của xã hội cũ - tư bản chủ nghĩa, còn phân phối theo lao động cho nên còn tồn tại sản xuất hàng hoá. Chính C.Mác đã viết: “CNXH là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra “thì tất yếu còn tồn tại sản xuất hàng hoá” (1) C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr33 b. Quan điểm của Lênin. V.I.Lênin, trước cách mạn tháng mười, ông cho rằng trong chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế hàng hoá sẽ bị xoá bỏ “để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh doanh”. Sau cách mạng tháng mười Nga thành công, Lênin đã đề ra kế hoạch xây dựng CNXH nhưng chưa thực hiện được vì nước Nga bước vào nội chiến. Trong giai đoạn này Nhà nước Xô Viết đã thực hiện chính sách cộng sản thời chiến nên quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường không được thừa nhận chính thức. Thế nhưng đến mùa xuân năm 1921, khi nội chiến kết thúc, trước những nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh tế, khắc phục những hậu quả của chính sách cộng sản thời chiến, Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã quyết định thực hiện chính sách kinh tế mới (Nep) mà nội dung chủ yếu là thừa nhận kinh tế hàng hoá, thừa nhận tự do buôn bán, cho phép tồn tại đến một thời hạn nhất định thành phần kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, xem chủ nghĩa tư bản Nhà nước và hợp tác xã như là những chiếc cầu nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, chính Lênin, khi căn cứ vào điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn thấp ở nước Nga lúc bắt đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra mô hình chủ nghĩa xã hội có vai trò của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. II. Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường vào Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách qua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50663.DOC