Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt nam

Thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp,tính chất của nó còn hoang sơ,dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn.Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung:trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường.Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn mà chỉ có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay trả,mua bán còn thô sơ.Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất,tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định.Chưa có lãi suất,tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường ngày càng bộc lộ nguyên hình những mặt trái của nó:nạn thất nghiệp,bất công xã hội,phân hoá giàu nghèo,tình trạng tội phạm...Những điều đó khẳng định thêm một lần nữa nền kinh tế thị trường cần có sự can thiệp của Nhà nước.Nhà nước đưa ra những chính sách để hạn chế những khuyết tật nói trên.Chẳng hạn,chính sách tài chính-tiền tệ,kinh tế đối ngoại(Thuế,lãi suất,điều tiết xuất nhập khẩu...) chú ý vấn đề tiền lương,trợ cấp thất nghiệp,phúc lợi xã hội... 1.3.Các quy luật vận động của kinh tế thị trường. a.Khái quát về hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của loa động,nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của người lao động;nó được sản xuất ra để bán chứ không phải sản xuất ra để người sản xuất ra nó tiêu dùng. Hàng hoá có hai thuộc tính:giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.Ví dụ:cơm để ăn,áo để mặc,máy móc thiết bị nguyên nhiên vật liệu để sản xuất...Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên của sản phẩm quy định.Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển giúp con người ngày càng phát hiện ra những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp lợi dụng những thuộc tính đó. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng.Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng,nhưng không phải bất kì sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá.Chẳng hạn,không khí,nước suối cũng có giá trị sử dụng nhưng không phải là hàng hoá.Trong kinh tế hàng hoá nói chung giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.Ví dụ,1 rìu trao đổi lấy 20 kg thóc.Tại sao rìu và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau?Tại sao lại đổi tỉ lệ 1 rìu lấy 20 kg thóc?Hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau khi giữa chúng có một cơ sở chung.Hao phí lao động chíng là cơ sở chung để so sánh rìu với thóc.Còn sở dĩ phải trao đổi với một tỉ lệ nhất định, 1 rìu lấy 20 kg thóc là vì người ta cho rằng lao động hao phí sản xuất ra 1 cái rìu bằng hao phí sản xuất ra 20 kg thóc.Khi chủ rìu và chủ thóc đồng ý trao đổi với nhau thì họ cho rằng lao động của họ để sản xuất ra rìu bằng giắ trị của 20kg thóc. Từ phân tích trên chúng ta rút ra kết luận quan trọng:giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Sản phẩm nào không chứa đựng lao động của con người thì không có giá trị.Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi,giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính của hàng hoá,hàng hoá được thể hiện như là sự thống nhất chặt chẽ nhưng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này. b.Khái niệm về thị trường,vai trò và tác dụng,phân loại thị trường. Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá Vậy thị trường là gì? Theo nghĩa ban đầu thị trường gắn liền với địa điểm nhất định,trên đó diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá.Thị trường có tính không gian và thời gian.Theo nghĩa này thị trường là cái chợ,cái địa dư,khu vực tiêu thụ hàng hoá phân theo các mặt hàng,ngành hàng. Sản xuất hàng hoá luôn phát triển,lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú,thị trường được mở rộng.Thị trtường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn,nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới.Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Ngày nay các nhà khoa học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như sau:Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng. Phân đoạn thị trường: Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau.Chẳng hạn dựa vào lưu thông hàng hoá người ta đã phân chia thị trường thành:thị trường cung ứng vật tư kĩ thuật,thị trường hàng tiêu dùng.Dựa vào quan hệ sở hữu người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do.Kinh tế học hiện đại chia thị trường thành thị trường yếu tố sản xuất và thị trường hàng hoá tiêu dùng,dịch vụ;thị trtường trong nước và thị trường nước ngoài. Thị trường yếu tố sản xuất hay thị trường “đầu vào” là nơi mua bán các yếu tố sản xuất như sức lao động,tư liệu sản xuất,vốn và các điều kiện vật chất để sản xuất kinh doanh. Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất hàng hoá,mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ hay mới có thị trường đầu ra.Số lượng,chất lượng,tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định.Tuy nhiên thị trường đầu ra cũng có ảnh hưởng tới thị trường đầu vào,kích thích tính tích cực của thị trường đầu vào. Thị trường hàng tiêu dùng,dịch vụ hay thị trường “đầu ra” là nơi mua bán các hàng hoá tiêu dùng cuối cùng và dịch vụ. Hàng hoá tiêu dùng là các vật phẩm tiêu dùng như lương thực,thực phẩm,quần áo,nhà ở, các hàng hoá dịch vụ như sửa chữa,du lịch,chữa bệnh... Thị trường trong nước là việc mua bán trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng trong nước.Thị trường nước ngoài là sự mua bán trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác. Thị trường ngoài nước thông qua ngoại thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển.Ngược lại,thông qua ngoại thương thị trường trong nước có thể nhanh chóng tiếp cận với thị ttrường thế giới. Vai trò của thị trường: Như trên đã khẳng định kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường.Sản xuất cho thị trường,tiêu dùng thông qua thị trường.Thị trường là trọng tâm của toàn bộ qua trình tái sản xuất. Trong nền kinh tế hàng hoá cần sản xuất mặt hàng gì,số lượng bao nhiêu, điều đó phải thông qua thị trường.Như vậy thị trường chính là lực lượng hướng dẫn đặt nhu cầu cho sản xuất,và do đó thị trường có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hàng hoá. Để sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất.Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường.Sản xuất hàng hoá là để trao đổi,để bán.Thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp,thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu được vốn.Nếu coi doanh nghiệp là một cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống đó và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để cho sự sống tồn tại và phát triển. Từ đó,thị trường chính là điều kiện và là môi trường cho hoạt động sản xuất hàng hoá.Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng chủng loại các hàng hoá,số lượng hàng hoá cũng như chất lượng hàng hoá.Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội.Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội. c. Khái niệm về cơ chế thị trường, quy luật vận động của kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là gì?cho đến nay đã có nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường do nội hàm và ngoại diện rộng,cho nên rất khó định nghĩa,nhưng ta có thể hiểu một cách cơ bản như sau: “ Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật vốn có của nó để nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội là cái gì ? bằng cách nào ? và cho ai? ” Nói tới cơ chế thị trường trước hết phải nói tới thị trường Nói tới cơ chế thị trường là phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng - tiền , người mua và người bán . Từ đó hình thành nên các quan hệ hàng hoá - tiền tệ,mua bán,cung cầu và giá cả thị trường Nói tới cơ chế thị trường là phải nói tới lợi nhuận vì nó là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia thị trường.Cho nên ở trong nền kinh tế thị trường phải lấy lỗ, lãi để tính toán. Nói tới cơ chế thị trường và thị trường là phải nói tới cạnh tranh và các quy luật kinh tế chi phối sự vận động của thị trường (quy luật giá trị ,cạnh tranh, cung cầu...) trong đó quy luật giá trị là căn bản nhất.Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là trừu tượng.Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả thị trường.Giá cả thị trường là giá bán hàng hoá trên thị trường,đó là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán,người bán muốn bán giá cao còn người mua muốn mua giá thấp.Giá cả thị trường chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường,giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá,nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường.Ngoài giá trị thị trường,sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện: Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người tiêu dùng.Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường,nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường.Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng hoá.Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống,nó sẽ kích thích mức cầu làm cho mức cầu của thị trường về loại hàng hoá này tăng lên,đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung,làm cho mức cung giảm xuống.Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên,nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng lên và đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống.Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường,giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó.C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.Vấn đề quan trọng trong kinh tế hàng hoá là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không.Để có thể bán được thì hao phí lao động xã hội cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được.Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết.Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng bằng nhau. Vai trò và tác dụng của quy luật giá trị: Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.Trong sản xuất quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả thị trường.Như đã nói ở trên,do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu nên giá cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó.Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng cầu,giá cả hàng hoá tăng lên thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó.Ngược lại,khi ngành đó thu hút qúa nhiều lao động xã hội,cung vượt cầu dẫn đến giá cả hàng hoá hạ xuống thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành khác nhau.Trong lĩnh vực lưu thông,quy luật giá trị điều tiết nguồn hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Quy luật giá trị có tác dụng kích thích lực lượng sản xuất phát triển:Lợi nhuận là cái mà người sản xuất luôn mong muốn đạt được,càng nhiều càng tốt.Hơn nữa trên thị trường luôn xảy ra sự cạnh tranh.Để đạt được lợi nhuận ngày càng nhiều,đứng vững và thắng trong cạnh tranh thì mọi người sản xuất đều tìm cách rút ngắn đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt.Để làm được điều đó họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật,tăng năng suất lao động.Vì thế trong nền kinh tế thị trường lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp tự túc. Quy luật giá trị có tác dụng thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo: Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị,lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết.Những người làm giỏi,làm tốt có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí xã hội cần thiết.Nhờ đó phát tài,làm giàu,mua sắm thiệt bị sản xuất,mở rộng theo quy mô sản xuất,mở rộng doanh nghiệp của mình.Bên cạnh đó,những người làm ăn kém cỏi,không gặp may,hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết.Nên họ bị lỗ vốn,thâm chí đi đến phá sản.Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển,đánh giá người sản xuất,nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt,làm giỏi và hình phạt cho những người làm ăn kém cỏi.Về phương diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng với người sản xuất. 2.Sự phát triển của Lênin về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao,đỉnh cao nhất của sự phát triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghiã tư bản,được xã hội đó sử dụng triệt để.Đó là cơ sở để trước đây nhiều người đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.Quan điểm đó được củng cố thêm do trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây,hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều kì thị với kinh tế thị trường.Tuyệt đối hoá kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu.Do vậy đã có sự đối lập về kinh tế thị trường đối với chủ nghĩa xã hội.Kết quả nghiên cứu lý luận,hộat động thực tiễn và nhận thức mới về chủ nhgiã xã hội trong những năm gần đây cho phép ta kết luận rằng:Nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế hàng hoá,thị trường. Sự biến đổi về chất trong phương pháp tổ chức kinh tế của xã hội đã gây ra nhiều nỗi băn khoăn cho không ít người.Bằng nhiều luận cứ,từ di sản của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đến thực tiễn lịch sử người ta kết luận:chủ nghĩa xã hội không có chỗ cho thị trường,càng nhiều thị trường bao nhiêu thị càng ít chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu.Có ý kiến còn cho là đã là kinh tế thị trường thì đừng nói đến chủ nghĩa xã hội;rằng cái “ruột” kinh tế thị trường thì không thể mang cái “vỏ”là chủ nghĩa xã hội.Nói kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là một sự “huyền hoặc” và nếu quả là như thế-theo ý nghĩa của những người có quan điểm này thì “công lao” của nó là “đã cung cấp cho nhân loại thêm một con đường để tư bản hoá”. Những ý kiến trên đây là không đúng cả trên phương diện lý luân lẫn thực tiễn.Vì nó đồng nhất kinh tế hàng hoá với kinh tế tư bản chủ nghĩa,đồng nhất “cách tổ chức của kinh tế xã hội” nói chung với “cách tổ chức kinh tế xã hội tư bản” nói riêng. Sự thật như thế nào? Liệu chúng ta có xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội hay không? Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen. Ph.Ăngghen đã tóm tắt ý nghĩa của C.Mác năm 1875 rằng: một khi xã hội nắm giữ các tư liệu sản xuất nền sản xuất hàng hoá sẽ bị loại trừ.Tuy nhiên,từ những di sản lý luận của các ông,đó mới chỉ là một trong hai cách luận giải về vận mệnh của nền sản xuất hàng hoá trong xã hội cộng sản tương lai,xét từ góc độ biến đổi sẽ xảy ra trong tính chất của chế độ sở hữu.Còn khi hai ông xem xét vấn đề từ góc độ nguyên tắc tổ chức kinh tế kiểm kê và thông ước và hao phí lao động,bức tranh đã biến đổi nó,và giá trị,với tất cả các đặc thù của nó,ít ra cũng là tất yếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.Nghĩa là,ở hai ông người ta chỉ tìm thấy những phán đoán lẻ tẻ chứ chưa phải là một học thuyết hoàn chỉnh về vận mệnh của nền sản xuất hàng hoá ttrong tương lai.Như vậy cả hai phương hướng tìm kiếm khoa học giải quyết vấn đề,không một phương hướng nào cho ta câu trả lời dứt khoát. Còn Lênin thì sao? Quan điểm của Lênin. Sau khi cách mạng tháng mười Nga thành công.Nước Nga bước vào cuộc nội chiến.Nhà nước xô viết thực hiện chính sách cộng sản thời chiến.Thực chất của chính sách này là xoá bỏ nhanh chóng những chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất,không thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ,quan hệ thị trường…Sau khi nội chiến kết thúc chính sách cộng sản thời chiến không thích hợp nữa.Lênin đề ra chính sách kinh tế mới.Như vậy thoạt đầu ông cũng mắc sai lầm như chính ông thừa nhận:tưởng rằng có thể trực tiếp dùng pháp luật của Nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa việc sản xuất và phân phối sẩn phẩm trong một nước tiểu nông. Và để sửa sai,ông đã đưa ra chính sách kinh tế mới mà thực chất là sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ,đặt thương nghiệp,thị trường lên hàng đầu.Coi nó như chiếc “đòn xeo” để phát triển lực lượng sản xuất.Như vậy chính Lênin là người mác xít đầu tiên đã đưa ra luận điểm về sự cần thiết phải sử dụng và phát triển kinh tế hàng hoá trong điều kiện chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo. Luận điểm này phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử kinh tế theo quan điểm biện chứng duy vật,sự ngự trị của một hình thức tổ chức kinh tế – xã hội nào đó là tuỳ thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu của phương thức sản xuất công nghệ.Thoạt đầu loài người chỉ có thể sống bằng nền kinh tế tự nhiên.Cùng với sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất(biểu hiện ở sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển và sâu sắc).Xã hội loài người theo Lênin bước vào một cách tổ chức kinh tế xã hội mới,tức sản xuất hàng hoá.Nền kinh tế này ngày càng phát triển và trở thành nền kinh tế thị trường mà cho đến nay đang là nền kinh tế thống trị và mang tính chất toàn cầu.Loài người chưa đủ điều kiện để chuyển sang một nền kinh tế phi hàng hoá.Vì nền sản xuất xã hội hoá ttrên thực tế chưa cao đến mức làm cho mỗi lao động tập thể cũng như cá nhân trở thành một bộ phận hữu cơ của lao động xã hội trực tiếp.Do vậy,xã hội vẫn chưa thể vòng tránh những yếu tố thị trường và “việc xác định giá trị vẫn mang tính chất thống trị như C.Mác đã dự đoán trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Do giáo điều và định kiến,do ngộ nhận cái xã hội hoá về hình thức là cái đã xã hội hoá trên thực tế.Cùng với những nguyên nhân khác.Sau khi Lênin mất sản xuất hàng hoá ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên(và sau đó ở các nước xã hội chủ nghĩa khác) đã bị thủ tiêu và được thay thế bằng một nền kinh tế “phi hàng hoá” được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tuyệt đối.Mặc dù nền kinh tế ấy cũng đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ,song đó chỉ là sự tăng trưởng về chiều rộng.Chỉ thích hợp với điều kiện về tài nguyên nhân lực và công nghệ nhất định.Khi yếu tố tăng trưởng về lượng đã cạn,và đặc biệt khi có sự biến đổi về chất trong công nghệ thì nền kinh tế lâm vào cuộc khủng hoảng trì trễ.Những khiếm khuyết cơ bản của phương pháp tỏ chức kinh tế “phi hàng hoá” trước đây là ở chỗ:nó triệt tiêu tinh thần lao động sáng tạo,nó không trực tiếp tác động lực cố hữu,thiết thân của người lao động là lợi ích vật chất. II. Sự vận dụng lý thuyết trên ở Việt Nam. 1.Đặc điểm kinh tế xã hội ở Việt Nam trước khi đổi mới. a.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Sau khi kháng chiến thắng lợi,dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa,nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tâp trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu ssản xuất.Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác,mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó.Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá,Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai,tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kì đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp,nó đã tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc.Bởi nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mớc cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. Tuy nhiên sau ngày giải phóng Miền nam,chúng ta vẫn duy trì cơ chế kinh tế trên.Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực,đó là: - Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính,mang tính tổ chức hình thức.Nhiều nơi không nắm vững nguyên tắc động viên tự nguyện và làm đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất,coi nhẹ hiệu qua kinh tế xã hội. - Không xác định rõ và can thiệp không đúng về quyền tự chủ về kinh tế –tài chính,quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới,không gắn nghĩa vụ với quyền lợi,trách nhiệm với quyền hạn,lợi ích với kết quả cuối cùng. - Coi nhẹ và không vận dụng các quy luật kinh tể trong tổng thể hệ thống các quy luật khách quan,tồn tại trong nền kinh tế có thời gian dài nặng về kế hoạch hoá tập trung,không gắn kế hoạch sản xuất với thị trường,kìm hãm sản xuất và lưu thông,coi nhẹ các quan hệ hàng hoá-tiền tệ,quan niệm còn giản đơn về chủ nghĩa xã hội,không đảm bảo quan hệ thích đáng giữa ba lợi ích:xã hội-tập thể-người tiêu dùng làm cho xã hội thiếu động lực phát triển hay phát triển không lành mạnh. - Các cấp, ngành thường ỷ vào ngân sách Nhà nước,vào trung ương,cấp dưới ỷ vào cấp trên,gây lãng phí, gây hạn chế tính năng động của cơ sở. - Bộ máy quản lý cồng kềnh,chồng chéo,quan liêu.Đội ngũ cán bộ quản lý về Nhà nước thiếu hiểu biết về Nhà nước,pháp luật,không sâu sát cơ sở,kém năng động.Bộ phận kém phẩm chất đẻ ra nạn tham nhũng,buôn lậu,gây ra các tệ nạn xã hội. Cho đến cuối những năm 80 xã hội Việt nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nước,nông dân chiếm đại đa số.Việt nam vẫn là một nước nghèo nàn,lạc hậu và kém phát triển.Trong những năm này giá cả leo thang,khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số nơi nạn đói đang rình rập.Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do chúng ta duy trì quá lâu,rập khuôn một cách máy móc mô hình kinh tế chưa phát triển và kém hiệu quả.Thể hiện ở chỗ ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn,thực hiện việc phân phối theo lao động trong khi điều kiện chưa cho phép.Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu qủa nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng tăng,và dẫn đến việc làm mất động lực của sự phát triển.Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng,việc viện trợ nước ngoài giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới,phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường. 2.Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam từ khi đổi mới đến nay. 2.1.Thực trạng nền kinh tế Việt nam khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang kinh tế thị ttrường chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất nước đã và đang từng bước qua độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp.Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh,hậu qủa để lại còn nặng nề.Những tàn dư thực dân,phong kiến còn nhiều,lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với những đặc điểm xuất phát như trên có thể nhận xét rằng:Nền kinh tế nước ta không còn hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc,nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ.Mặt khác,do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nền kinh tế nước ta cũng không còn là kinh tế chỉ huy.Có thể nói thực trạng nước ta khi chuyển sang kinh tế hàng hoá là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển,còn mang nặng dấu ấn tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây: a.Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển,nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp. Sự yếu kém của kinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có tính điển hình dưới đây: Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. Hệ thống kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả.Từ điểm xuất phát thấp,nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn tồn tại,ngành nghề chưa phát triển. Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp,tính chất của nó còn hoang sơ,dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn.Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung:trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường.Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn mà chỉ có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay trả,mua bán còn thô sơ.Khu vực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34577.doc
Tài liệu liên quan