Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hóa, lý luận giá cả và các phạm trù của nó. Ở nước ta hiện nay sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức: giá cả, lợi nhuận,chi phí, giá cả, thường xuyên so sánh đối chiếu đầu ra đầu vào. Mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều tuân theo yêu cầu của lý luận giá cả. Mọi hình thức áp dụng đều làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa lý luận giá cả. Thực hiện cơ chế giá thị trường, một cơ chế giá linh động, sự vận động của giá cả thị trường là tuân theo những lý luận kinh tế hoạt động trong cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách của Đảng đã chú ý đến tính khách quan của lý luận giá cả, một khía cạnh quan trọng, có tác động rất lớn trong việc phát triển kinh tế.
Trong năm 1991-1995, trên cơ sở những thành quả và kinh nghiệm đạt được trong những năm đầu của cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải cách nói riêng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục chỉ đạo: “Kiên trì vận dụng cơ chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi của giá quốc tế với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải đảm bảo sản xuất phát triển, kiểm tra và giám sát các loại vật tư, hàng hoá dịch vụ, quan trọng nhất là giá của một số đơn vị độc quyền kinh doanh. Tiếp tục xoá bỏ các hình thức phân phối hiện vật, tính đủ giá cả đối với tài sản đất đai tài nguyên…đưa vào sử dụng”.
Thực hiện nghị quyết trên, về cơ chế quản lý giá, chúng ta xác định rõ: việc quản lý sẽ được thực hiện thông qua các hình thức can thiệp gián tiếp bằng các biện pháp quản lý vĩ mô ngoài công cụ giá(điều hoà cung cầu, chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, lưu thông tiền tệ, xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa…để tác động đến giá thị trường xã hội chủ nghĩa và giá hàng hoá quan trọng thiết yếu cho sản xuất đời sống,hướng sự hình thành và vận dụng giá cả thị trường vào thực hiện các mục tiêu định hướng của nền kinh tế ! Can thiệp trực tiếp với mức độ khác nhau phù hợp với tính chất của từng loại hàng hoá dịh vụ như định giá chuẩn hoặc giá giới hạn đối với đất đai, tài nguyên và một số ít hàng hoá dịch vụ quan trọng độc quyền, hàng hoá dịch vụ chi từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đảng ký giá đối với một số hàng hoá quan trọng cho sản xuất và đời sống… Hiệp thương giá theo yêu cầu của doanh nghiệp… Thực hiện niêm yết giá…
Đặc biệt, để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá ngày 12/4/1993 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 151/TTG về việc: “hình thành và quản lý quỹ bình ổn giá”.
Cùng với việc hình thành Quỹ bình ổn giá, trong những năm 1991-1995, Nhà nước đã chủ động từng bước điều chỉnh giá một số vật tư, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá cho phù hợp với chi phí sản xuất, lưu thông quan hệ cung cầu và giá cả thị trường thế giới(năm 1995 so với năm 1991 giá điện tăng gấp 2,4 lần, xăng ô tô tăng gấp 1,4 lần,xi măng tăng gấp 2,5 lần, giấy tăng gấp 1,3 lần…)
Việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng trên đây đã góp phần từng bước xoá bỏ bao cấp qua giá, tính đúng, tính đủ chi phí, giảm bù lỗ, tiến tới xoá bỏ bù lỗ tăng thu cho ngân sách. Điều quan trọng hơn là việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng là đầu vào của sản xuất, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm vật tư, tăng cường quản lý, giảm chi phí sản xuất, lưu thông, đổi mới mặt hàng nâng cao chất lượng để cạnh tranh được trên thị trường trong nước và thế giới. Sự điều chỉnh này đã thực hiện những yêu cầu của lý luận giá cả và khắc phục những mặt trái của lý luận này. Một trong những khuyết tật được hạn chế là: việc chạy theo lợi nhuận của các nhà sản xuất bằng cách cắt giảm chi phí để hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, làm cho chất lượng hàng hoá kém, ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Thực hiện các chính sách, biện pháp giá cả trên, cùng với các biện pháp quản lý vĩ mô khác như: Điều hoà cung cầu xuất nhập khẩu, thuế, tín dụng, tỷ giá hối đoái… góp phần vào việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát đưa chỉ tăng giá tiêu dùng từ 67,5 % năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995; thúc đẩy việc thay đổi cơ cấu kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước.
Những năm gần đây, công tác giá đã tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, tạo môi trường pháp lý tiếp tục xoá bao cấp giá, giảm thiểu tình trạng bảo hộ, trợ cấp xin cho không hợp lý để người sản xuất kinh doanh chủ động tính toán hiệu quả kinh tế cạnh tranh lành mạnh về giá cả. Tiếp tục thực hiện điều chỉnh giá những hàng hoá dịch vụ thuộc danh mục nhà nước định giá phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế. Thực hiện thẩm định giá đối với các tài sản góp vốn đầu tư liên doanh; các tài sản vật tư thiết bị có giá rrị cao, khối lượng mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước. Đồng thời thực hiện biện pháp nhằm góp phần giữ bình ổn giá cả thị trường, ngăn ngừa thiểu phát trong những năm 1999-2000.
Thực hiện biện pháp giá cả trên cùng phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý khác như: điều hoà cung cầu, xuất nhập khẩu, chính sách tài chính tiền tệ … đã góp phần kiềm chế lạm phát, kéo chỉ số giá tiêu dùng tiêu dùng xuống mức tăng dưới 10%, thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 7-8%/năm. chính vì vậy tại công văn số 472-CV/TW ngày 13-4-2000 của ban thương vụ Bộ chính trị- Ban chấp hành TW Đảng gửi Ban cán sự Đảng Ban vật giá, Chính phủ đã khẳng định: “Trong những năm qua, Ban vật giá chính phủ đã có nhiều những cố gắng để nghiên cứu đề xuất các cơ chế mới mà đáng chú ý là cơ chế bình ổn giá, mở rộng hoạt động thẩm định giá … góp phần vào việc ổn định thị trường, đẩy mạnh sản xuất phát triển và ổn định đời sống nhân dân”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đảm bảo cho giá cả đóng góp vai trò tích cực, có hiệu quả vào quá trình sản xuất bảo vệ người tiêu dùng, Nhà nước cần phải kiểm soát giá độc quyền đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh độc quyền . vận dụng lý luận giá cả trong việc kiểm soát giá độc quyền cũng chính là tác động tới sự vận động của giá cả độc quyền với mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đạt hiệu quả trong sản xuất. Các giải pháp được sử dụng để kiếm soát giá đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền là:
Thứ nhất là căn cứ vào tính chất và mức độ độc quyền của từng nghành hàng hóa độc quyền mà có những hình thức quy định giá thích hợp . Giải pháp này không hề vi phạm tính khách quan của lý luận giá cả, vẫn đảm bảo giá cả hàng hóa vận động quanh giá cả của nó.
Thứ hai, Ngoài việc kiểm soát việc chấp hành các mức giá mà nhà nước quy định, cần phải kiểm tra chi phí sản xuất một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt trên chi phí sản xuất hợp lý. Chi phí sản xuất hợp lý phải dựa trên những định mức tiên tiến và có tham khảo với các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ tư, Dân chủ hóa trong việc định giá đối với sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền.
Thứ năm, Mức giá nhà nước quy định đối với hàng hóa độc quyền cần gắn với chất lượng của nó và chất lượng dịch vụ.
Trong kiểm soát giá độc quyền, nhà nước ta đã vận dụng triệt để lý luận giá cả, đưa ra những quy định chặt chẽ vừa đảm bảo công bằng với người tiêu dùng, với nhà sản xuất, vừa đảm bảo cho sự phát triển nền kinh tế.
Tuy có nhiều thành công nhưng nếu so với yêu cầu giai đoạn mới, cơ chế quản lý điều hành với hệ thống giá hiện tại còn bộc lộ nhiều như điểm như: Tình trạng độc quyền, liên minh độc quyền, đầu cơ lũng đoạn, cạnh tranh không lành mạnh về giá nhằm thu lợi nhuận không chính đáng làm phương hại đến lợi ích người tiêu dùng diễn ra khá phổ biến nhưng chưa có luật lệ kiểm soát có hiệu quả; Tình trạng thương mại bất công bằng, gian lận chi phí sản xuất, chi phí đầu tư và giá cả góp vốn, gian lận giá cả chưa có cơ chế khắc phục. Sự hội nhập của nền kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới cũng đã được thúc đẩy một bước; nhưng những biện pháp kinh tế để kiểm soát việc xuất nhập khẩu chưa được xử lý linh hoạt; khi xuất khẩu được giá thì tranh mua đấy giá nội địa tăng cao, tranh bán ngoài nước làm cho giá hạ thấp; khi giá thế giới hạ không đẩy mạnh mua xuất khẩu làm cho giá hạ thấp không hợp lý, nhiều khi vượt quá cả nhu cầu tiêu dùng nội địa gây ứ đọng, giá hạ thấp… chính sách cơ chế đối với vùng núi và vùng sâu vùng xa, cơ chế giá bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, người sản xuất và của Nhà nước còn sơ khai, kém hiệu lực… những tồn tại chủ yếu sự lợi dụng khe hở pháp luật của những kẻ làm ăn bất chính; sự hướng dẫn thực hiện không chặt chẽ của nhà quản lý.
2.1.2 Vận dụng lý luận giá cả trong hạch toán kinh tế ở các doanh ngiệp nhà nước
Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hóa, lý luận giá cả và các phạm trù của nó. Ở nước ta hiện nay sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức: giá cả, lợi nhuận,chi phí, giá cả,…thường xuyên so sánh đối chiếu đầu ra đầu vào. Mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều tuân theo yêu cầu của lý luận giá cả. Mọi hình thức áp dụng đều làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội.
Vận dụng lý luận giá cả trong hoạt động hạch toán kinh tế tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng , thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt nhu cầu thị trường, thường xuyên cải tiến phương pháp tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… làm cho doanh nghiệp tự chủ và sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên không tránh khỏi tình trạng chạy theo lợi nhuận mà cắt giảm chi phí bằng các cách như trốn thuế, sản phẩm không đảm bảo sự an toàn,… là những khuyết tật cần chú ý khi vận dụng lý luận giá trị .
2.1.3 Vận dụng lý luận giá cả trong các phạm trù kinh tế: Tài chính, Tín dụng, Lưu thông tiền tệ
Tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ là những phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với kinh tế hàng hóa như là những điều kiện của tái sản xuất, đồng thời chúng còn là công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế.
Tài chính là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa và sự vận động của tài chính chịu sự tác động chi phối của cơ chế thị trường với những lý luận nội tại của nền sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính không chỉ bao gồm giá cả tổng sản phẩm xã hội , mà còn là giá cả tài sản quốc gia. Vì vậy không bó hẹp trong phạm vi phân phối giá cả của cải xã hội và tài sản quốc gia. Kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải tự lo liệu các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ việc đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm , nên tài chính đồng thời vừa là phương tiện, vừa là mục đích của các hành vi kinh tế. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. Việc vận dụng lý luận giá cả trong phạm trù tài chính thể hiện trong chức năng cơ bản của tài chính đó là chức năng tổ chức giám sát . Tổ chức giám sát: tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều gắn liền với các hoạt động tài chính thông qua sự vận động của đồng tiền. Lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả, mà giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả, nên có thể nhận định rằng lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của đồng tiền khi vận dụng nó vào trong phạm trù tài chính.
Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời là lợi tức. Thừa nhận hoạt động tín dụng là hình thức kinh doanh tiền tệ thì lợi tức phải được xem như giá cả của loại hàng hóa- tiền tệ và nó thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Mặt khác lý luận cung cầu chỉ là sự biểu hiện của lý luận giá cả, do đó lợi tức bị chi phối bởi lý luận giá cả . Vận dụng lý luận giá cả trong phạm trù tín dụng chính là quyết định mức lãi suất tùy theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Lãi suất có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích đầu tư nhưng trái lại, nó cũng không tránh khỏi việc gây tác động xấu đến nền kinh tế, khi mà lãi suất quá cao hoặc quá thấp so với yêu cầu trên thị trường tiền tệ thì dẫn tới suy thoái hoặc lạm phát.
Tiền là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa phản ánh mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa, đồng thời tiền là công cụ mục đích của người sản xuất hàng hóa, sự vận động của đồng tiền không ngừng từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông và từ lưu thông sang sản xuất liên tục chuyển hóa cho nhau. lưu thông hàng hóa lấy tiền tệ là môi giới. Lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa và phụcvụ cho lưu thông hàng hóa. Vận dụng lý luận giá cả trong lưu thông tiền tệ là việc thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng khi xảy ra lạm phát, để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên áp dụng chính sách tiết kiệm trong thời kỳ suy thoái lại là cách đẩy nền kinh tế lâm vào suy thoái nặng nề hơn .
2.1.4 Vận dụng lý luận giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ không được thực hiện nếu các quốc gia tham gia không cùng cùng có lợi về kinh tế. Vì trong trường hợp này quan hệ kinh tế thế giới sẽ vi phạm các lý luận, nhất là lý luận giá cả, lý luận kinh tế vốn có của kinh tế thị trường trong thị trường quốc tế. Nguyên tắc cùng có lợi phải trở thành động lực kinh tế, để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển .
Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu nhiệm vụ đối ngoại của nước ta là: Tiếp tục giữ môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế _xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập,chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực bình đẳng cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Một trong những quan điểm phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu đảm bảo xen kẽ giữa lợi ích quốc gia với lợi ích các nước, các vùng, các khu vực thì quan hệ kinh tế quốc tế trong trường hợp này tuân theo lý luận giá cả. Vì lý luận giá cả vận động thông qua hoạt động kinh tế của con người, động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi ích kinh tế nên vận dụng lý luận giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế chính là sự đảm bảo về mặt lợi ích kinh tế giữa các bên.
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Sự hình thành kết cấu hạ tầng và chi phí sản xuất ngày càng có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của các nước. Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc tế, giá cả quốc tế. Mỗi nước có một điều kiện sản xuất khác nhau nên sản xuất ra cùng một loại hàng hoá sẽ có chi phí khác nhau. Thí dụ, nước ta sản xuất ra một tấn cao su, chè rẻ hơn Châu Âu, ngược lại Châu Âu lại sản xuất ra ô tô, máy bay rẻ hơn ta. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ quốc tế. Sự vận động của giá cả quốc tế là sự hoạt động của lý luận giá cả trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Nước nào thu được phần lợi nhuận lớn hay thắng trong cạnh tranh là đã thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Bên cạnh những kết quả tốt thì còn có mặt trái đó là việc chạy theo lợi nhuận mà hàng hóa xuất khẩu có chất lượng kém, ngoài ra lý luận giá cả cũng phân hóa thành nước giàu và nước nghèo.
2.1.5 Vận dụng lý luận giá cả trong xuất khẩu lao động
Chúng ta đều biết, Nước ta đất hẹp người đông. Trong quá trình CNH-HĐH, giải quyết công ăn việc làm, vấn đề thu nhập là nhu cấu hết sức cấp bách. GDP bình quân đầu người mới khoảng 400 USD, bình quân mỗi năm số người đến độ tuổi lao động ở nước ta là 1 triệu người. Những tính toán trong chiến lược 10 năm ( 2001-2010) vẫn không giải quyết hết số lao động. Vì vậy XKLĐ và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết hết số lao động. Vì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và người lao động. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa cấp bách, vừa lâu dài của nước ta.
Trong bối cảnh thi trường lao động quốc tế suy giảm, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng gay gắt, phần lớn các doanh nghiệp của việt nam mới bước vào hoạt động còn ít kinh nghiệm. Hiện nay có hơn 300.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở trên 400 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghành nghề thuộc các lĩnh vực: xây dựng, cơ khí, chế biến thủy sản, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học vv... năm 2000, thu nhập dòng của lao độngvà chuyên gia đạt khoảng 1,25 tỷ USD.
Đạt được thành tích trên, trước hết là do thực hiện nghị định 152/CP, Bộ lao động- thương binh và xã hội đã phối hợp với các Bộ, nghành có liên quan như Tài chính, Công an, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước...ban hành một hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn về cấp phép,đăng ký hợp đồng, đơn giản hóa các thủ tục cấp hộ chiếu và lý lịch tư pháp của người lao động; hạ mức thuế suất đối với các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất kẩu lao động; giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động và cho vay với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Các chính sách trên của Nhà nước đã vận dụng tốt lý luận giá cả. Vì việc giảm thuế suất đối với các doanh nghiệp sẽ giúp cho chi phí của doanh nghiệp đó giảm đi, lợi nhuận tăng nên và tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước khác. Đối với người lao động thì đi xuất khẩu lao động dù cực khổ nhưng có thu nhập giúp đỡ gia đình, phần lớn họ là những người có thu nhập thấp, nên chính sách cho vay, giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động làm tăng quy mô đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong xuất khẩu lao động có vấn đề đặt ra cho nước ta là thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có sự thay đổi cơ bản về nhu cầu chất lượng và cơ cấu, đó là sự đòi hỏi ngày càng cao về trình độ tay nghề, ngoại ngữ và ý thức kỷ luật, phong tục tập quán, tức là đòi hỏi tính văn hóa cao hơn trong trong XKLĐ. Muốn mở và giữ được thị trường phải có lao động chất lượng cao. Thị trường và nguồn lao động là hai yếu tố chính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nhận thức vấn đề này việc đào tạo nguồn lao động trở thành vấn đề trọng tâm được cả nước và doanh nghiệp rất quan tâm: từ chỗ tuyển lao động tự do nay Bộ LĐ-TBXH đã hướng các doanh nghiệp tuyển lao động từ các trường nghề. Đây là một hướng đi hết sức đúng đắn, giải tỏa được ách tắc về chất lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài, cắt giảm được chi phí đào tạo so với tuyển lao động tự do. Nó có tác dụng tốt đối với các doanh nghiệp.
Nhìn chung các doanh nghiệp đều có quy chế, quy định rõ ràng. Công tác tuyển chọn được cải tiến và quan tâm nhiều hơn theo nguyên tắc trực tuyến, tuyển đúng nghành nghề, kỹ thuật. Bước đầu có ưu tiên nhất định với gia đình chính sách, gia đình nghèo. Việc thu chi được thực hiện rõ ràng, minh bạch, thanh toán kịp thời tiền lương do lao động gửi về. Với những hoạt động trên,doanh nghiệp nào thực hiện tốt sẽ tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Việc vận dụng tốt lý luận giá cả trong hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp và Nhà nước ta là rất quan trọng, nó đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và làm tăng ngân sách nhà nước. Ngoài ra vấn đề việc làm được giải quyết, tệ nạn xã hội giảm.
Tuy nhiên vận dụng sai cơ chế tác động của lý luận giá cả thì sẽ có những tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Sự vận dụng không đạt hiệu quả lý luận giá cả thể hiện là vẫn còn tồn tại những yếu kém trong hoạt động xuất khẩu lao động ở Nước ta. Lao động nước ta được đánh giá là cần cù và khéo léo. Tuy nhiên kiến thức về ngoại ngữ, nhận thức về quan hệ chủ-thợ, kém hiểu biết về tác phong công nghiệp là nguyên nhân chu yếu gây ra tranh chấp lao động. Sai sót này do sự tuyển dụng và đào tạo của doanh nghiệp, do đào tạo sơ qua thì chi phí sẽ thấp đi và lợi nhuận thu được sẽ tăng nên. Doanh nghiệp đã vận dụng lý luận giá cả nhưng với mục đích lợi ích cá nhân, không tính đến lợi ích của xã hội, làm mất đi giá cả của con người Việt Nam ở nước ngoài. Những yếu kém còn tồn tại còn do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong tổ chức triển khai chính sách xuất khẩu lao động. Đặc biệt là gần đây sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hướng dẫn Luật doanh nghiệp chưa tốt, nên các văn bản hướng đã coi dịch vụ việc làm là một lĩnh vực kinh doanh không điều kiện. Vì vậy đã có một số lượng lớn các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ việc làm, trong đó có một số doanh nghiệp lợi dụng chức năng này để tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài trái pháp luật, mang tính lừa đảo, gây thiệt hại đối với người lao động, gây dư luận xấu trong xã hội.
Khe hở trong pháp luật mà các doanh nghiệp lợi dụng để đem lại lợi ích cho mình là do các nhà hoạch định chính sách đã không xét đến tính hai mặt của lý luận giá cả khi vận dụng nó. Bên cạnh mặt tích cực,chúng ta còn phải chú ý đến những tác đọng tiêu cực của nó.
2.1.6 Vận dụng lý luận giá cả để thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là một loại hình kinh tế (hay một kiểu tổ chức ) trong đó dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, là nền tảng kinh tế hình thành các giai tầng, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Ở nước ta, việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển có tác phát huy mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế, cũng như sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh nghiệm tổ chức quản lý... Ngoài ra, việc kích thích các thành phần kinh tế phát triển còn có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa kinh tế, thực hiện chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc tế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước. Chính vì vậy từ đại hội Đảng VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và coi đó là đường lối chiến lược lâu dài ở nước ta.
“Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó nền kinh tế quá độ là nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. V.I Lênin chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế XHCN, kinh tế TBCN và kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.”
Vận dụng tư tưởng của lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 2001 phân theo thành phần kinh tế(%) :
Kinh tế nhà nước: 38,58; kinh tế tập thể : 8,21; kinh tế tư bản nhà nước: 4,2; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 13,11; kinh tế cá thể: 32,13; kinh tế tư bản tư nhân: 3,77.
Phát triển các thành phần kinh tế là điều kiện để đại đa số công dân tham gia hoạt động kinh tế, làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao đời sống. Đó là tiền đề cho dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội và thực hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền kinh tế hang hóa ở nước ta hiện nay.docx