- Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và đặc biệt là giá trị. Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, các hộ gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thoả đáng ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Trên thị trường hàng hoá và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. Tiến hành đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, xoá bỏ dần việc nhà nước bao cấp sản xuất và tiêu cực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18654 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận giá trị của C.Mác và sự vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, vật liệu và lao động sống. Vì vậy, lượng giá trị hàng hoá được cấu thành bởi cả giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hoá, tức là giá trị cũ (ký hiệu là c) và hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá, tức là giá trị mới (ký hiệu là v+m). Giá trị hàng hoá = giá trị cũ tái hiện + giá trị mới. Ký hiệu: W = c + v + m.
1.1.2. Sự phát triển các hình thái giá trị
Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hoá, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái xã hội của hàng hoá, nó không có một nguyên tử vật chất nào nên không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ bộc lộ ra trong quá trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó.
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi mang tính chất hiện vật ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Còn thóc là cái được dùng để làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị. Hàng hoá (vải) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc) thì gọi là hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá (thóc) mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoá khác (vải) gọi là hình thái vật ngang giá. Nó có ba đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện của giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện của lao động trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện của lao động xã hội.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá có thể đổi lấy nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng.
- Hình thái giá trị chung: Với sự phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng , thì hình thái chung xuất hiện. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.
- Hình thái tiền tệ: Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn , do đó đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị. Vậy tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
NỘI DUNG GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Nội dung của giá trị
- Yêu cầu chung của quy luật: Giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của giá trị. Theo giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Yêu cầu riêng trong sản xuất hàng hoá: Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí lao động mà xã hội chấp nhận được.
- Yêu cầu riêng trong lưu thông hàng hoá: Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc và giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các
- Trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân (giá cả sản xuất = k + p ngang). Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tự bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác. Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở , là nội dung bên trong của giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
- Trong thời kỳ tư bản độc quyền: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền ; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị . Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
1.2.2. Biểu hiện giá trị trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay (cũng như hầu hết các nền kinh tế hiện đại ngày nay) là một nền kinh tế chịu sự chi phối của cả bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình tức là có sự phối hợp điều tiết giữa cơ chế thị trường và các kế hoạch của chính phủ để nền kinh tế vận hành một cách có hiệu quả nhất. Như trên đã nói, cơ chế thị trường là cơ chế vận động của hệ thống quy luật mà trung tâm là giá trị. Các quy luật khác nhau như quy luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ chỉ là những biểu hiện hoạt động của giá trị mà thôi. Giá trị còn là cơ sở để chính phủ điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ thuế, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ…Tất cả những quy luật và công cụ, phương tiện trên chính là cách thức biểu hiện hoạt động và vận dụng giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
- Trong quá trình sản xuất hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các
yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở nành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuốn, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
Trong quá trình lưu thông hàng hoá: Điều tiết lưu thông của giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng do tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
- Người sản xuất phải hạ thấp chi phí cá biệt: Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội củ hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trng cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: để có lợi thế họ phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội, Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên: quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết qủa là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biẹt tháp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rỗng kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi làm ăm thua kém, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo: xã hội bị phân hoá thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội; thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Tổ chức xã hội: giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc làm phong phú thêm nội dung kinh tế của các mối quan hệ kinh tế giữa xã hội với các tập thể lao động (các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao động với nhau cũng như giữa các tập thể với từng người lao động. Giá trị tạo cho chủ nghĩa xã hội các công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự xã hội hóa trên thực tế là sự tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các đơn vị kinh tế, tạo cơ sở cho người tham gia sản xuất hoạt động theo phương án thống nhất, đảm bảo các lợi ích của xã hội, tập thể và người lao động.
Kích thích xã hội: Giá trị phục vụ quá trình phân phối, nhằm tính đến hiệu quả kinh tế. ở đây, việc phân phối bao gồm sự phân chia các nguồn lực cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, các sản phẩm tiêu dùng và sự trả lương cho lao động. Giá trị kích thích sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bảo đảm xã hội: việc tuân thủ các yêu cầu của giá trị sẽ định hướng nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội hướng vào hiệu quả kinh tế, đảm bảo sự phát triển lực lượng sản xuất và tạo điều kiện khai thác các nguồn lực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, việc trao đổi ngang giá theo yêu cầu của giá trị đã tạo ra điều kiện cần thiết bảo đảm cho xí nghiệp làm ăn tốt, chống lại việc phân phối vô căn cứ đối với các nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Đây chính là đóng góp của giá trị trong việc đảm bảo xã hội ổn định và phát triển.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA C.MÁC
VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN
LÝ LUẬN GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA
2.1. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA
2.1.1. Thực trạng
- Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và đặc biệt là giá trị. Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, các hộ gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thoả đáng ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Trên thị trường hàng hoá và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. Tiến hành đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, xoá bỏ dần việc nhà nước bao cấp sản xuất và tiêu cực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
- Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: Vì vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. Mỗi thành phần kinh tế theo đuổi mục đích riêng và bằng những phương tiện riêng và chịu sự tác động của các quy luật kinh tế đặc thù.
- Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế – kỹ thuật của nước ta thấp so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đựt ra chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất đây là quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
2.1.2. Thành tựu và hạn chế
- Thành tựu:
+ Kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả.
+ Sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định.
+ Kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản xuất, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nân cao hiệu quả.
+ Thực hiện phân phối nguồn lực một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường với sự hoạt động mạnh mẽ của giá trị, việc lưu động, di chuyển phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu.
+ Tạo sự mềm dẻo và linh hoạt và có khả năng thích nghi cao hơn nữa trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
+ Nền kinh tế tăng trưởng liên tục trong giai đoạn 1986 – 2004, nhiều năm đạt tố độ cao: Từ thập kỷ 90 nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ 9,5%, hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm (1991-1995). Sản xuất đã đáp ứng được tiêu dùng và dành một phần cho tích luỹ (1991: 10%, 1995: 20%, 2000: 27% GDP). Nông nghiệp đạt sản lượng tăng từ 21,5 triệu tấn (1990) lên 36 triệu tấn (2002), bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Công nghiệp : tăng trưởng liên tục với hai con số, đạt 13,7% (1991-1995), tăng 13,2 % (1996-2000). Bình quân đầu người nhiều sản phẩm công nghiệp tăng lên. Xây dựng mới và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải và bưu điện. Hoạt động thương mại và dịch vụ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
- Hạn chế:
+Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường. Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mức thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không hteer cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hoá” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.
+ Sự cạnh tranh không hoàn hảo, do sự vận dụng giá trị còn chưa được hiệu quả nên vẫn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
+ Hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo do mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận tối đa; họ lạm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường sống.
+ Phân phối thu nhập không công bằng, dưới tác dụng của giá trị sẽ có sự phân chia kẻ giàu người nghèo nhưng do sự vận dụng còn bị hạn chế nên không đem lại được sự công bằng cho mọi người dân bằng các chính sách trợ giúp xã hội.
+ Không thể tránh khỏi khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn tương đối cao và gần đây lạm phát đã lên tới 10%.
+ Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai: Nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, chưa xây dựng được bao nhiêu, cơ cấu lao động chậm biến đổi, 75% dân số sống ở nông thôn. Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư cho phát triển còn thấp. Nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá nhưng năng suất và hiệu quả còn kém.
2.1.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
- Nguyên nhân của những thành tựu:
+ Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước Việt Nam quản lý nền kinh tế thị trường trước hết đã dựa trên những yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế thị trường mà trong đó có giá trị. Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật và Đảng đề ra những nghị quyết nhằm tạo điều kiện cần thiết để vận dụng giá trị. Những quy định đó chi phối hoạt động của các doanh nghiệp, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho giá trị được phát huy tác dụng để ổn định nền kinh tế. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả theo giá trị. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy, nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội; nhà nước bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của thị trường. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân với tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp nhưng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu thành phần kinh tế: đa dạng với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia nhưng trong đó phải kể tới vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Cơ cấu vùng kinh tế chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở Bắc – Trung – Nam với 68 khu công nghiệp lớn nhỏ, khu chế xuất thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
+ Hệ thống chính sách ban hành tạo hành lang pháp lý thuận tiện cho phát triển kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ việc thu chi ngân sách, cải cách hệ thống thuế khoá, thực thi hệ thống thuế thống nhất và bao quát cho các thành phần kinh tế. Thực hiện phân cấp hệ thống ngân hàng: Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại, chính sách lãi suất thực hiện theo hướng: đảm bảo lãi suất dương, áp dụng quy định mức lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu. Bãi bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết của nhà nước.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
+ Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Hệ thống chính sách ban hành còn chưa đồng bộ nhất quán gây ra thực tế là khó khăn trong việc chấp hành. Các nhà hoạch định chính sách ít nhiều vẫn còn có tư tưởng “thử – sai – sửa” nên không tạo ra được định hướng triệt để cho nền kinh tế.
+ Quản lý Nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm”. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu kém; thủ tục hành chính …đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ quá thấp, có những ngành đang ở trình độ 2/7 của thế giới, máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ, lao động thủ công còn phổ biến, năng suất lao động chỉ bằng 30% năng suất lao động trung bình thế giới. Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu kém phát triển. Các vùng các địa phương bị chia cắt, khó phát huy thế mạnh đất nước.
+ Phân công lao động kém phát triển và cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch. Các doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp, khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại nghèo nàn, chất lượng thấp giá cả cao.
+ Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật ở nước ta còn thấp so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hoá đặt ra cho nước ta rất nhiều thách thức, trước hết là AFTA (Khu mậu dịch tự do) mà mục tiêu là giảm và tiến tới cắt bỏ hàng rào thuế quan của các loại hàng hoá và dịch vụ xuống còn 0-5% cho đến năm 2010 đối với các nước Châu á; điều này tạo ra trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp ít có khả năng cạnh tranh và đặt hàng loạt các doanh nghiệp trước nguy cơ phá sản . Nếu không nhanh chóng chuẩn bị tốt để hội nhập, phát huy tối đa nội lực, tìm ra cái mạnh tương đối của mình thì Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi gia nhập thị trường quốc tế.
2.2. GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA MÁC Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.2.1. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển kinh tế thị trường.
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận giá trị của CMác và sự vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay.docx