Mục lục 3
Phần mở đầu 4
Phần I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍCH LŨY TƯ BẢN 6
1.1. Khái niệm 6
1.2. Những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản 8
1.3. Tác dụng của tích lũy tư bản 9
1.4. Biểu hiện mới của tích tụ, tập trung tư bản 12
Phần II: XU THẾ TÍCH LŨY TƯ BẢN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI
VIỆT NAM
14
2.1. Khái quát quá trình tích lũy tư bản diễn ra trong nền kinh tế Việt Nam 15
2.2. Kết quả, thành tựu 15
2.3. Hạn chế, thách thức 16
Phần III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TÍCH LŨY TƯ BẢN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
18
3.1. Mục tiêu 18
3.2. Một số khuyến nghị 18
PHẦN KẾT LUẬN 23
Danh mục tài liệu tham khảo 24
24 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 757 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận tích lũy tư bản của học thuyết kinh tế máclê nin và ý nghĩa thực tiễn đối với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất nước.
Đối với Việt Nam tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết để tái sản
xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng
và phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH thì nhu cầu về vốn để xây
dựng các công trình nền tảng và cải tiến kỹ thuật áp dụng khoa học tiên
tiến lại càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
5
Để giữ được nhịp độ phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao
và bền vững, một trong những khó khăn lớn nhất đặt ra là phương thức
huy động vốn. Nguồn vốn có thể được huy động từ tích lũy trong nước
và vốn vay từ nước ngoài. Lý luận và thực tiễn cho thấy tích lũy và huy
động vấn từ trong nước là quan trọng nhất, đảm bảo sự bền vững của
nền kinh tế và không bị phụ thuộc vào bên ngoài.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò của việc tích lũy vốn phục phát
triển kinh tế đất nước, trong bài viết này em sẽ trình bày những lý luận
chung về tích lũy tư bản và ứng dụng lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam.
Do hạn chế về thời gian và trình độ, bài viết sẽ khó tránh khỏi những
sai sót trong quá trình nghiên cứu, em rất mọng nhận được sự đánh giá,
hướng dẫn của các thầy (cô) giáo. Em xin trân trọng cảm ơn.
Bài viết gồm ba nội dụng chính:
- Phần I: Lý luận về tích lũy tư bản của Học thuyết kinh tế Mác-
Lênin.
- Phần II: Ý nghĩa thực tiễn đối với quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
- Phần III: Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của tích
lũy tư bản đối với quá trình phát triền kinh tế thị trường ở Việt
Nam
6
Phần I: LÝ LUẬN VỀ TÍCH LŨY TƯ BẢN CỦA HỌC
THUYẾT MÁC-LÊNIN
1. 1. Khái niệm
Giá trị thặng dư - nguồn gốc của tích lũy tư bản
“Tích lũy là sự chinh phục thế giới của cải”(1)
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất.
Do vậy bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào nếu xét theo tiến trình đổi
mới không ngừng của nó, thì đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất.
Quá trình này là tất yếu khách quan theo hai hình thức: tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy
mô như cũ, đặc trưng cho nền sản xuất nhỏ. Tái sản xuất mở rộng là
quá trình sản xuất lặp lại với quy mô lớn hơn trước, đặc trưng cho nền
sản xuất lớn.
Tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất điển hình của chủ
nghĩa tư bản mà hình thái điển hình đó là tái sản xuất mở rộng. Muốn
tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không thể dùng hết giá tri thặng dư cho
tiêu dùng cá nhân, mà phải dùng một phần giá trị thặng dư để tăng quy
mô đầu tư so với năm trước, gọi là tư bản phụ thêm. “Việc sử dụng giá
trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hóa hay sự chuyển hóa giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản”.(2) Như vậy thực
chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thăng dư trở
lại thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Ví dụ: Một tư bản với: 100, c/v=4/1, m’=100%
Năm thứ nhất có quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m
7
Nếu tái sản xuất giản đơn, nhà tư bản sử dụng hết 20m cho
tiêu dùng, thì quy mô năm 2 là: 80c + 20v +20m, không thay đổi.
Nếu nhà tư bản không sử dụng hết 20m cho tiêu dùng cá nhân, mà
phân thành 10m dùng để tích lũy và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân.
Phần 10m được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất năm 2 sẽ
là: 88c + 22v +22m (m’ vẫn như cũ). Như vậy vào năm 2, quy mô tư
bản bất biến và khả biến, giá trị thặng dư đều tăng lên.
Từ đó cho phép ta rút ra được những kết luận vạch rõ hơn bản chất
bóc lột của chư nghĩa tư bản:
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng
dư và tư bản tích lũy chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư
bản.Trong quá trình tái sản xuất, lãi m cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì
lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành
phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền
kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Nhà tư
bản không những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn
là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không
ngừng của giá trị. Để thực hiện được điều đó các nhà tư bản không
ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản
để bóc lột công nhân. Mặt khác do tính cạnh tranh quyết liệt nên các
nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên,
điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Do
8
đó động cơ thúc đẩy tích lũy tư bản và tái sản xuất mở rộng chính là
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư.
1. 2. Những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản
Quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư và tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào tiêu dùng
cá nhân nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích lũy ít đi, khi
đó quy mô tích lũy sẽ giảm đi.Ngược lại, việc tiêu dùng ít sẽ làm tăng
khối lượng tích lũy làm quy mô tích lũy tăng lên.
Nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy
tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Bì vậy những nhân tố
quyết định quy mô tích lũy chính là những nhân tố quyết định quy mô
của khối lượng gía trị thặng dư, bao gồm:
-Trình độ bóc lột sức lao động: như tăng cường độ lao động, kéo
dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương công nhân.
- Trình độ năng suất lao động xã hội: việc nâng cao năng suất lao
động sẽ tăng thêm giá trị thặng dư, do sẽ có thêm những yếu tố vật chất
(tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng) để biến giá trị thăng dư thành tư bản
mới, nên làm tăng quy mô tích lũy.
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng: Trong
quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn
bộ vào quá trình, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần.
Mặc dù đã mất đi giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động,
máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Máy móc thiết bị càng
hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản tiêu dùng
9
càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được
những thành tựu của lao đọng quá khứ càng nhiều, dẫn đến quy mô tích
lũy tư bản ngày càng lớn.
- Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay
đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết
định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước nhất là bộ phận tư bản khả
biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo
điều kiện tăng thêm quy mô tích luỹ tư bản.
1. 3. Tác dụng của tích lũy tư bản
1. 3. 1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của
tư bản
Sản xuất bao giờ cùng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: tư liệu sản
xuất và sức lao động. Sự kết hợp của chúng dưới hình thái hiện vật gọi
là cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệulao động
và khối lượng tư bản cần thiết để sử dụng các tư liệu đó. Cấu tạo kỹ
thuật là cấu tạo hiện vật, nên nó biểu hiện dưới hình thức: số lượng máy
móc, nguyên liệu, năng lượng do công nhân sử dụng trong một thời gian
nào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tư bản
bất biến và tư bản khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết để
tiến hành sản xuất.
Cấu tạo kỹ thuật thay đổi sẽ làm cấu tạo giá trị thay đổi. C.Mác
đã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để phản ánh mối quan hệ
10
đó. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị tư bản, do cấu tạo kỹ
thuật quyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư
bản.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường
xuyên của tiến bộ khoa học, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không
ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biển hiện
ở chỗ: bộ phận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến,
tư bản bất biến tăng tương đối và tăng tuyệt đối, còn tư bản khả biến có
thể tăng tuyệt đối nhưng lại giảm xuống tương đối.
Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tư
liệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc thiết bị là điều
kiện để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất
lao động. Nó đòi hỏi việc sử dụng lao động mới được đào tạo với giá
trị sức lao động cao nhưng năng suất lao động tăng cao lại làm cho hàng
hóa kỹ thuật hiện đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ trọng người
lao động có trình độ cao, lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, gây nên
những hậu quả xã hội tiêu cực đối với toàn bộ đội ngũ người lao động
làm thuê.
1. 3. 2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư
bản ngày càng tăng.
Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sản xuất
lớn tư bản chủ nghĩa.
Tích tụ tư bản và việc tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
tích lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích
lũy. Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng
11
dụng tiến bộ kỹ thuật, mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng
dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả
năng cho tích tụ tư bản. Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản
nhỏ thành một tư bản lớn cá biệt. Đây là sự tích tụ những tư bản đã hình
thành, là sự thủ tiêu tính độc lập riêng biệt của chúng, là việc nhà tư bản
này tước đoạt nhà tư bản khác, là việc biến tư bản nhỏ thành số ít tư bản
lớn.
Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quy mô
của tư bản cá biệt, nhưng khác nhau ở chỗ nguồn tích tụ tư bản là giá
trị thặng dư tư bản hóa, còn nguồn tập trung tư bản là hình thành trong
xã hội. Do tích tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư bản xã
hội cũng tăng theo. Còn tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các tư bản
đã có quy mô tư bản xã hội vẫn như cũ.
Tích tụ tư bản thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động, còn
tập trung tư bản thì biểu hiện mối quan hệ giữa những nhà tư bản với
nhau. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Nhờ có sự tập trung tư bản mà tổ chức được một cách
rộng lớn lao động hợp tác, biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công
thành quá trình sản xuất theo quy mô lớn, hiện đại.
Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng của
tư bản mà còn làm cho tư bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo
hữu cơ của tư bản tăng lên, nhờ đó năng suất lao động tăng lên nhanh
chóng. Chính vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của
tích lũy tư bản.
12
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng được xã hội hóa, làm cho mâu
thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng trở nên sâu sắc.
1. 3. 3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp
vô sản
Sự phân tích trên cho thấy, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng
tăng là một xu hướng phát triển khách quan của sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Do vậy, số cân tương đối về sức lao động cũng có xu hướng ngày
càng giảm. Đó là nguyên nhân gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối,
hay cầu sức lao động giảm một cách tương đối.
Có ba hình thái nhân khẩu thừa: Nhân khẩu thừa lưu động, nhân
khẩu thừa tiềm tàng, nhân khẩu thừa ngừng trệ.
Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân đến bần cùng hóa. Bần
cùng hóa giai cấp công nhân là hậu quả tất nhiên của quá trình tích lũy
tư bản. Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và
bần cùng hóa tương đối. Bần cùng hóa tuyệt đối của công nhân biểu
hiện mức sống bị giảm sút. Sự giảm sút này không chỉ xảy ra trong
trường hợp tiêu dùng cá nhân tụt xuống tuyệt đối, mà còn khi tiêu dùng
cá nhân tăng lên, nhưng mức tăng đó chậm hơn mức tăng nhu cầu do
chi phí sức lao động nhiều hơn.
1. 4. Biểu hiện mới của tích tụ, tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích
tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó
cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập
13
trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng
dư nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ
tư bản và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tập
trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được xí nghiệp lớn sử
dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gắn với quá trình tích tụ và tập
trung tư bản ngày càng tăng, do đó nên sản xuất tư bản chủ nghĩa trở
thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc thêm.
14
Phần II:
XU THẾ TÍCH LŨY TƯ BẢN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển
kinh tế, nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá
cao, sản xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm
tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh
tế. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn phát triển đạt tốc
độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước,
tăng cường nó có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư phải có hiệu
quả cao để hệ số ICOR chỉ ở mức 2,5 và mức tăng trưởng phải ít nhất
là trên 8% một năm, như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam có thể tăng gấp 4-5 lần trong vòng một thế hệ. Việt Nam có thể
lựa chọn các tình huống tăng trưởng tuỳ theo mức tích luỹ trong nước
và mức đầu tư trên GDP cũng như hiệu suất sử dụng vốn. Việt Nam
muốn đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nền kinh tế cần huy động tối đa
không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư mà còn cần
phải huy động các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả
các quan hệ bang giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
15
nền kinh tế. Chúng ta sẽ xem xét thực trạng và giải pháp tích lũy vốn ở
Việt nam hiện nay.
2. 1. Khái quát quá trình tích lũy tư bản diễn ra trong nền kinh tế Việt
Nam
Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, chỉ huy khi mà cuộc sống
của người dân còn vô cùng khó khăn, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá
trình tích luỹ vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Sự can thiệp quá sâu vào
nền kinh tế của Nhà nước làm cho các tổ chức doanh nghiệp không thể
phát huy hết được khả năng tham gia vào thị trường của mình. Nguồn
vốn viện trợ của nước ngoài lại chứa đựng nhiều yếu tố chính trị nên
không được phát huy hết khả năng vốn có của nó.
Với chính sách mở cửa phát triển kinh tế, đời sống nhân dân đã
được cải thiện rõ rệt, tổng thu nhập quốc dân tăng nhanh, thị trường
hàng hoá phong phú và sôi động... Tuy nhiên những thành quả đó vẫn
còn quá nhỏ bé, nền kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, kém phát triển. Một
trong những nguyên nhân chính là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp.
2. 2. Kết quả thành tựu
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004,
cả nước có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là
1.724.558 tỷ đồng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì
quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một
tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp
Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước (1.018.615
16
tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ
đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% tổng vốn
các doanh nghiệp cả nước (868.788 tỷ đồng). Xét riêng đối với mỗi
doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004, bình quân
mỗi doanh nghiệp là 23,95 tỷ đồng).
Theo Trung tâm thông tin doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
năm 2005 toàn quốc có 39.959 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với
tổng vốn đăng ký 108,03 ngàn tỷ đồng, đạt 107,3% về số lượng và 141%
về vốn đăng ký so năm trước.
Số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết trong
quý I năm 2006, có 7.775 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật
Doanh nghiệp với số vốn đăng ký 29.063 nghìn tỷ đồng. Tuy giảm 8%
về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng tăng 25% về số vốn đăng
ký.
2. 3. Hạn chế, thách thức
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều hộ gia đình và không ít những doanh
nghiệp còn đầu tư chưa có hiệu quả, nguồn vốn vẫn không luân chuyển
được từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của Nhà nước tuy đã tăng lên
nhưng còn dàn trải, còn lãng phí, thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn
chậm phát triển, lãi suất tín dụng chưa phù hợp với việc đẩy mạnh quá
trình tích tụ và tập trung vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư phát triển. Các
hình thức tích tụ và tập trung vốn chưa tạo ra sức hấp dẫn với người có
17
vốn và hệ số sử dụng vốn trong nền kinh tế còn thấp. Việc quản lý và
sử dụng vốn đầu tư còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt
cũng như nhân tài vật lực để giải quyết với tốc độ nhanh các công trình
thiết yếu mang tính chất “xương sống” của nền kinh tế, vẫn còn nhiều
lãng phí và kém hiệu quả. Hệ thống hành chính nói chung còn lắm thủ
tục phiền hà. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng
khoán thời gian qua đã cho thấy đây là một kênh huy động vốn thực sự
hấp dẫn và rất đáng kể. Tính đến năm 2005, giá trị thị trường của chứng
khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đã tương đương 6,5% GDP (năm
2004 con số này là 3,9% GDP).
Trong khi nguồn vốn còn hạn chế thì các giải pháp huy động vốn
hiệu quả đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó những nhà quản lý kinh
tế cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp tích tụ và tập trung
vốn đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ở Việt Nam.
18
Phần III:
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
TÍCH LŨY TƯ BẢN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3. 1. Mục tiêu.
Mục đích của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa : “ CNXH là làm nhằm
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần văn hoá cho mọi người dân sung
sướng, ấm no”. Trong điều kiện nước ta, từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH
chúng ta không còn cách nào khác là một mặt phải huy động toàn bộ
sức lực của mọi người, mọi ngành mọi cấp để tăng gia sản xuất thúc
đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích luỹ
vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền
kinh tế sản xuất lớn XHCN.
3. 2. Một số khuyến nghị.
3. 2. 1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích luỹ - tiêu dùng
Vì mục tiêu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng,
tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân lao động
mà chúng ta cần phải xác định cho được giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu
dùng. Tỷ lệ cụ thể giữa tích luỹ và tiêu dùng phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế xã hội trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã
hội, hiệu quả của kỹ thuật mới sử dụng hợp lý các nguồn vật tư, lao
động và các yếu tố khác nữa.
Tương quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử
dụng đươc các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích luỹ có thể đảm
19
bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm
bảo tăng tiêu dùng và tích luỹ không đến mức cao nhất. Vởi tỷ lệ giữa
tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như thế nào là thích đáng? Tỷ lệ này có
phải cố định không và dựa trên nguyên tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây
là vấn đề trung tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cụ
thể mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa lợi ích
lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn
xã hội... Việc phân chia tỷ lệ này không cố định mà thay đổi tuỳ thuộc
vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời
chúng ta phải không ngừng khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra
sức tiết kiêm, tích luỹ. Như vậy có thể nói tỷ lệ giữa tíh luỹ và tiêu dùng
không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế mà là thể hiện đường lối chính
sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất định.
3. 2. 2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác
định rõ từng đối tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một
cách hợp lý cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn
toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy doanh
nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính
nhờ có cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát
huy mọi năng lực cũng như khả năng quản lý của họ từ đó sẽ nâng cao
rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn.
20
Việc đồng vốn có được sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn
phụ thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngủ cán bộ
quản lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước
cũng cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, chú ý đến đội ngũ
cán bộ, tạo diều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng
lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn
FDI trong khu vực cũng như trên thế giới thì việc thiết lập một cơ chế
tổ chức gọn nhẹ không chồng chéo có hiêu quả cũng tạo ra khả năng
cạnh tranh lớn.
3. 2. 3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu
hút vốn đầu tư nước ngoài
Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng
đầu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò
quan trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường
xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy
nâng cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà
nước là hết sức cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức
tín dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả
tương đối cao do có thể thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân.
Để thực hiện được ngày càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt ngân
hàng cần phải tự đổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các
hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an toàn bí
mật và ổn định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng
cần có biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn
21
nhàn dỗi trong dân. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt
chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn được thuận
tiện. Chúng ta có thể huy động vốn cả qua các công ty bảo hiểm, công
ty sổ xố kiến thiết, qua sự tài trợ của các nhà doanh nghiệp, các quỹ từ
thiện, quỹ hỗ trợ,... Mặt khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn
trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ những tài sản công
còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài
để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần
nghiên cứu lại các quy định về đất và quyền sử dụng đất kết hợp hài
hoà với các tổ chức thị trường liên quan. Trong thời gian tới phải tìm
cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn vốn từ tài sản công. Đó
là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy động bằng cả
hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân
sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước ngoài.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút
vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập
trung vốn rất có hiệu quả đang được các nước phát triển áp dụng. Tuy
nhiên để có thể phát triển thị trường chứng khoán trước hết chúng ta
phải tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhà nước và đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại.
Chính thị trường chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và
nếu thị trường chứng khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay
khi nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn
22
vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu
tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế
trong nước. Vì thế mà chún
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_ly_luan_tich_luy_tu_ban_cua_hoc_thuyet_kinh_te_macle.pdf