MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2
I. Lý luận chung về tiền tệ và thị trường tiền tệ 2
1.Tiền tệ 2
1.1 .Bản chất và chức năng của tiền tệ 2
1.1.1 Sự ra đời và bản chất của tiền tệ 2
1.1.2.Chức năng của tiền tệ 3
1.2 . Các khối tiền tệ trong lưu thông 4
1.2.1. Khối tiền giao dịch(M1) 4
1.2.2. Khối tiền mở rộng (M2) gồm: 5
1.2.3 Khối tài sản (M3)gồm: 5
2. Thị trường tiền tệ 5
2.1 Định nghĩa 5
2.2 Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ 6
2.2.1 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh 6
2.2.2 Tổ chức tín dụng. 6
2.2.3 Ngân hàng TW 6
2.2.4 Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng 6
2.2.5 Các nhà môi giới chuyên nghiệp 7
2.2.6 Các tổ chức phi tài chính 7
2.3 Hàng hoá trên thị trường tiền tệ 7
2.3.1 Tín phiếu kho bạc 7
2.3.2 Chứng chỉ tiền gửi 8
2.3.3 Thương phiếu 8
2.4 Hoạt động của thị trường tiền tệ 8
2.4.1 Hoạt động tín dụng giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng 8
2.4.2 Hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tín dụng 8
2.5 Vai trò của thị trường tiền tệ 8
II. Chính sách tiền tệ 9
1. Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ 9
1.1. Khái niệm 9
1.2. Cơ chế thực hiện. 9
2. Công cụ sử dụng trong chính sách tiền tệ 10
2.1. Công cụ trực tiếp: 10
2.2. Công cụ gián tiếp: 10
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 13
I. Mục tiêu và nội dung chính sách tiền tệ ở Việt Nam 13
1. Mục tiêu 13
1.1. Về kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền. 13
1.2. Tăng trưởng kinh tế 14
1.3. Tạo công ăn việc làm 14
2. Nội dung của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 15
2.1. Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ 15
2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế 16
2.3. Chính sách quản lý ngoại hối 18
2.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân hàng Nhà nước. 20
II. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ những năm qua ở VN. 21
1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM). 21
2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu. 22
3. Công cụ dự trữ bắt buộc. 23
4. Công cụ hạn mức tín dụng. 24
5. Công cụ lãi suất. 24
CHƯƠNG 3 27
CÁC GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN NHẤT ĐỊNH CHO VIỆC TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 27
I. Khái niệm về tự do hoá lãi suất 27
II. Những cản trở đối với việc tự do hoá lãi suất ở Việt Nam 28
III. Giải pháp chuyển sang tự do hoá lãi suất 31
1. Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ 31
1.1 Dự trữ bắt buộc: 31
1.2 Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn: 31
1.3 Nghiệp vụ thị trường mở: 32
2. Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn 32
3. Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng 34
4. Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi 36
KẾT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay tỷ giá hối đoái giảm hơn so với khi quyết định.
Về giá cả, do sản xuất hàng hoá tăng giá trị đồng tiền ổn định nên sức mua tăng. Đó là hai biện pháp để ổn định giá trị đồng tiền.
1.2. Tăng trưởng kinh tế
Khi tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) lớn hơn nhịp độ tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Khi khối lượng tiền tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền "rẻ" đi sẽ kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm cho đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc dân giảm. Như vậy, muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân hàng nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống Ngân hàng dưới tác động của Ngân hàng trung ương. Đối với Việt Nam, từ nay đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9-10%, tốc độ tăng trưởng cao này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cân bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và vay của nước ngoài để phục vụ mục tiêu này.
1.3. Tạo công ăn việc làm
Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người nhất là đối vơí các quốc gia chưa phát triển. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà có thể giảm dẫn đến thất nghiệp tăng. Nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp xảy ra là tự nhiên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng các hoạt động kinh tế. Để đạt mục tiêu này Ngân hàng nhà nước Việt Nam trách nhiệmlà phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên.
2. Nội dung của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ soạn thảo phối hợp với uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính… tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền.
2.1. Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ
Ngân hàng trung ương phải có giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối tiền tệ.
- Nếu nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối tiền tệ phải tăng bằng cách tăng trưởng kinh tế.
- Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát được kiềm chế.
- Trong điều kiện nhất định như nước ta có số lượng ngoại tệ nằm trong tay những người cư trú (Thể nhân và pháp nhân tương đối lớn nen cần được tính vào khối tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm).
- Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đén tốc độ luân chuyển của nó. tức là phải kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (M x V). Có khi gọi (M x V) là "Trao lượng tiền tệ", tức là tỏng số lượng tiền tệ để chi trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tốc độ lưu thông tiền tệ phụ thuộc nhiều yếu tố.
Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế của Nhà nước trình độ klỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng.
Về định hướng, tốc độ lưu thông tiền tệ (V) có thể do bằng tỷ số giữa GNP danh nghĩa và M (GNPIM), hoặc PQ (Tổng số giá cả hàng hoá) chia cho M (PQIM). Từ đó các nhà kinh tế "Trọng tiền" hiện đại theo học thuyết số lượng tiền tệ đến đẳng thức M x V = P x Q = GNP. Điều này có ý nghĩa là khi V và Q không đổi mà M tăng lên thì giá cả (P) sẽ tăng theo và GNP danh nghĩa tăng tương ứng. Tất nhiên cuộc sống phức tạp hơn.
Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền (Mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách, tín dụng cho nền kinh tế) bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối.
Để thực hiện toàn diện chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương sẽ cụ thể hoá từng mặt chính sách theo các kênh tiền của khối tiền tệ và sử dụng các công cụ điều tiết Vĩ mô.
2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, khối lượng tài sản các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng cung ứng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình là từ hai nguồn:
Thứ nhất là: Nguồn huy động tiền đã có sẵn trong lưu thông từ các tài khoảng gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi có kỳ hạn.
Thứ hai là: Sử dụng tiền Trung ương trong quá trình tái cấp vốn từ Ngân hàng Trung ương.
Sau khi Ngân hàn thương mại cho vay ra, sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và đẻ ra bội số tín dụng rất phức tạp. Theo lý thuyết, bội số này có thể tăng lên gấp nhiều lần so với số dư tiền gửi ban đầu. ở các nước công nghiệp phát triển công nghệ Ngân hàng phát triển cao, thị trường nhạy cảm thì người ta nặng về sử dụng các công cụ gián tiếp chủ yếu (Như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, ngiệp vụ thị trường mở lãi xuất) để điều tiết tổng khối lượng tín dụng, từ đó tác động đến tăng, giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Việc khống chế bằng hạn mức tín dụng chỉ là biện pháp hỗ trợ.
Khối lượng tiền tệ tăng thêm được rót qua kênh tín dụng hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các nhà doanh nghiệp với Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng. Khi các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến Ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn (tái chiết khấu). ở đây Ngân hàng Trung ương luôn luôn là người cho vay cuối cùng, việc này nhằm thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng phải huy động được tối đa nguồn tiền nhàn rỗi tỏng dân chúng để đầu tư và phát triển kinh tế, qua kênh gửi tiền vào Ngân hàng. Để tăng vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, kiềm chế lạm phát, tăng nguồn vốn người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá cơ cấu tiền gửi: Ngân hàng Trung ương khuyến khích và thúc đẩy việc các doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản tiền gửi, thanh toán và gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng, sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (Séc, chuyển tiền điện tử, các loại thẻ điện tử…) phục vụ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp với giá cả (Lãi suất) sử dụng vốn hạ nhất vì muốn kích thích taưng đầu tư cho nền kinh tế, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì lãi suất tiền vay là một vấn đề hết sức quan trọng. Ngân hàng là các nhà buôn tiền nên không thể chấp nhận lãi suất âm (Lãi suất tiền gửi lớn hơn lãi suất cho vay). Nhưng Ngân hàng cũng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thực tế của thị trường, mà phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để các nhà sản xuất cho người gửi và chi phí cho hoạt động của mình không để mức chênh lệch tiền gửi và lãi suất cho vay quá lớn sẽ dẫn đến khuyến khích dân chúng chuyển từ dạng tiền gửi Ngân hàng sang dự trữ tài chính bằng vàng và ngoại tệ.
Khuyến khích các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng nguồn vốn đầu tư vào các dự án cải tiến kỹ thuật, thay đổi trang thiết bị, tăng năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường, thực hiện triệt để nguyên tắc: "Vay để cho vay" Ngân hàng Trung ương chỉ là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàn thương mại và Tổ chức tín dụng.
Mở rộng mạng lưới hoạt động và dịch vụ Ngân hàng đến mọi vùng, mọi thành phần kinh tế: Trên thị trường teìen tệ khác hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn Ngân hàng, đến lượt mình Ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn nghiêm chỉnh, có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ chủ động, trong đó Ngân hàng Trung ương giữ vai trò chi phối, điều tiết.
2.3. Chính sách quản lý ngoại hối
Để ổn định gía trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia Ngân hàng Trung ương thực hiện các nhiệm vụ: Quản lý ngoại hối, lập theo dõi diễn biến củâ cán thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước. Quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, với các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm timf kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối vào nước mình, tổ chức quản lý nợ nước ngoài.
Trong các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái và dự trữ ngoại tệ, thị trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền tệ và giá trị đồng tiền trong nước cụ thể như sau.
Chính sách quản lý ngoại hối hướng vào ngăn chặn việc tích tữ ngoại tệ trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, nếu có ngoại tệ phải bán cho Nhà nước, khi cần thi mua lại trên thị trường hối đoái, thu hút các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Trung ương - Đây là chính sách mua bán đứt đoạn, có tác dụng làm tăng giá trị trên thị trường chỉ tiêu tiền nước mình, Nhà nước dễ kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông.
Dự trữ ngoại tệ: Phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nước. Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ vào làm cho quĩ dự trữ ngoại tệ tăng, đồng thời cũng làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Qua việc mua bán ngoại tệ Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp thị trường. Chủ động tác động đến tỷ giá hối đoái theo chiều hướng tích cực.
Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, thì chính sách tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương thực thi là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nếu tỷ giá quá thấp sẽ khuyến khích nhậph khẩu, gây khó khăn chô xuất khẩu vì hàng xuất khẩu sẽ đắt hơn, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho các ngành sản xuất những mặt hàng xuất khẩu đó, việc chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào gây bất lợi, dự trữ ngoại tệ bị xói mòn. nếu tỷ lệ hối đoái cao sẽ không có lợi cho nhập khẩu nhưng lại khuyến khích cho xuất khẩu, làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn dễ cạnh tranh trên thịi trường quốc tế, kích thích chuyển ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Như vậy có hai phương pháp để ổn định tỷ giá. Một là tỷ giá cao hay thấp là do Ngân hàng Trung ương can thiệp. Hai là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại hối trên thị trường chi phối Ngân hàng Trung ương hoàn toàn không can thiệp.
2.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân hàng Nhà nước.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng muốn đạt được mục tiêu như mong muốn, cần xử lý tốt mối tương quan của nó đối với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu chi ngân sách Nhà nước. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với mức độ khác nhau trong các trường hợp sau:
- Trường hợp Ngân sách cân bằng: Khi Chính phủ thu thuế vào ngân sách tức là lấy ra từ thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân mộ lượng tiền, khi ngân sách chi ra cho bộ máy quản lý Nhà nước và nền kinh tế thì số tiền ấy lại được giải toả nhưng vẫn nằm trong lưu thông:
- Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Chênh lệch chi lớn hơn thu, sẽ có tác động khác nhau đến nền kinh tế tuỳ theo cách tài trợ cho số thâm hụt ấy. Có 4 cách giải quyết: Một là vay dân, hai là vay của hệ thống Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng, ba là vay Ngân hàng Nhà nước, bốn là vay nợ nước ngoài.
Vay của Ngân hàng Nhà nước, vay nợ nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, gây áp lực lạm phát. Vay của dân cư, của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong nước thì nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ trên thị trường nhẹ hơn.
Không có sự lựa chọn nào hơn là phải phấn đấu thực hiẹn một ngân sách Nhà nước còn cân bằng nguồn thu thuế và chi tiêu. Không nên để bội chi ngân sách do phải bù đắp thiếu hụt chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sachs phải phấn đấu thu đủ trang trải các nhu cầu chi thường xuyên.
- Trường hợp ngân sách thặng dư: (Số thu lớn hơn số chi) là trường hợp rất quí, vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa trên thị trường, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
II. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ những năm qua ở VN.
1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM).
NVTTM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán (TTCK) trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của NVTTM được ban hành theo quyết định số 85/2000/QD - NHNN 14 ngày 09/3/2000.Qua nửa năm hoạt động, NVTTM đã góp phần khắc phục khó khăn bước đầu trong thời vận hành.
Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam , Ngân hàng công thương Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng CHINFON, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài chính bưu điện.Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua NVTTM từ 12/07/2000 đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 228,020 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trướng mở là khá đơn diệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi . Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất .
2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu.
Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTƯ thực hiện CSTT. Nhưng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay triết khấu còn chưa hoàn thiện (đó là các thương phiếu, hối phiếu).
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm 1997, lãi suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 03 đến tháng 07/1997: mức lãi suất triết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất triết khấu quy định là 0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất cho vay triết khấu lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay chiết khấu đối với các NHTM lần1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn 0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000, quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đã được ban hành và trên cơ sở đó các NHTM được chủ động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi suất cơ bản. Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN) vẫn giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng nhưng lãi suất tái triết khấu tăng từ 0,40% lên 0,45%tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4% lên 0,5%.
3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc( DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hành năm1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây NHNN cũng liên tục giảm tỷ lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng.
4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành CSTT trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đưa ra và áp dụng công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất định, chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990-1991 còn ở tỷ lệ cao, để khống chế lạm phát, NHNN chủ trương giảm bớt lượng tiền cung ứng hạn mức tín dụng đối với tất cả NHTM là 34,5% (năm1992) và đã đạt được kết quả thực tế rất khả quan là mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều tiền tệ dần đi vào ổn định. Những năm sau đó, để kiểm soát lạm phát, NHNN cũng đưa ra tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Nhưng tình hình thực tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt quá chỉ tiêu hạn mức tín dụng theo kế hoạch đã được giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở rộng tín dụng. Vì vậy, từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành CSTT.
5. Công cụ lãi suất.
ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như công cụ của CSTT. Đặc biệt những năm gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hướng từng bước nới lỏng của NHNN được coi như một đối sách nhạy bén trước những thay đổi của cung - cầu về tiền tệ.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989, NHNN thực hiện một cơ cấu kiểm soát lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phức tạp, ấn định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tượng, nghành nghề kinh tế và kỳ hạn vay mượn.
Năm 1990, cơ chế lãi suất trần tín dụng và sàn tiền gửi đã được áp dụng, nhưng vẫn được phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng.
Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hẳn hình thức lãi suất theo nghành, chỉ quy định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào thời gian này, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được thí điểm áp dụng đối với nguồn vốn hình thành do phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trường, vì cầu tín dụng cao hơn cung nên lãi suất cho vay đã được đẩy lên rất cao và cơ chế lãi suất thoả thuận đã bị loại bỏ.
Bắt đầu 01/01/1996, NHNN thực thi chính sách trần lãi suất, tín dụng và quản lý chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi). Cũng vào thời gian này, chế độ thuế doanh thu đánh vào hoạt động tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính được điều chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi suất tín dụng cũng đã được điều chỉnh giảm mạnh. Lãi suất tín dụng trung và dài hạn lần đầu tiên đã đuợc điều chỉnh cao hơn lãi tín dụng ngắn hạn.
Năm 1998 là năm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi thông qua xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra, NHNN chỉ quản lý duy nhất trần lãi suất tín dụng. Cuối năm 1998, lãi suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1,1%/tháng; cho vay trung hạn, dài hạn còn 1,15%/tháng.
Sau mấy tháng đầu năm 1999, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 198/1999/QD-NHNN 1 điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn, trung và dài hạn được thống nhất ở mức chung là 1,15%/tháng, được áp dụng chung cho các NHTM ở cả thành thị và nông thôn. Đến tháng 10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các NHTM được quy định ở mức chung là 1,05%/tháng.
Vào năm 2000, việc kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ cũng đã được xoá bỏ. Ngày 05/08/2000, NHNN đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các NHTM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sơ đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới hàng tháng, NHNN công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái triết khấu.
Trong tất cả các tháng 08,09,10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với tiền VNĐ vẫn liên tục giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng với biên độ 0,3% đôí với cho vay ngắn hạn, 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ (USD) được xác định trên cơ sở lãi suất SiBor kỳ hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn.
Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh nhau đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng, mức lãi suất tiền gửi VNĐ cao nhất của kỳ hạn 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên tới 0,6-0,65%/tháng; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,55%/tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các Ngân hàng là 5,5% - 6,0%/năm.
Như vậy, hiện tại lãi suất cho vay nội tệ (VNĐ) hiện nay ở Việt Nam 7,5% - 10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng (bắt đầu từ tháng 3/2001).
Chương 3
các giải pháp tạo điều kiện nhất định cho việc tự do hoá lãi suất
I. Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi suất và sử dụng công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ.
Như phần đầu của chuyên đề ra nêu ra ,NHTW có thể tác động vào lãi suất theo trong hai cách sau:
* Dùng qui định hành chính.
* Dùng tác động kinh tế .
ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối với ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính ngân hàng quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá lãi suất - hạt nhân của tự do hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác; loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất; cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc.
Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách cứng nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những tính năng ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.
II. Những cản trở đối với việc tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau:
Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ chế thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh nghiệm của các nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là những khó khăn cơ bản nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa cho phép nếu chúng ta thực hiện tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt Nam còn có những khó khăn đặc thù riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng Việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28165.doc