Đề tài Lý luận tuần hoàn và chu chuyển Tư Bản với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

NỘI DUNG CHÍNH 2

A. TRÌNH BÀY LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN 2

I. TUẦN HOÀN TƯ BẢN 2

1. Ba giai đoạn vận động và sự biến hoá hình thái của Tư bản 2

2. Sự thống nhất ba hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp Tư bản. 6

a) Tuần hoàn của Tư bản tiền tệ : T- H SX H - T 7

b) Tuần hoàn của tư bản sản xuất 7

c) Tuần hoàn của tư bản hàng hoá : H - T - H SX H 8

II. CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN 9

1. Chu chuyển của Tư bản. Thời gian chu chuyển 9

a. Thời gian sản xuất của tư bản 10

b) Thời gian lưu thông 10

2. Tư bản cố định và tư bản lưu thông 11

3. Tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển của TB và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của TB. 14

B. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN VÀO NƯỚC TA TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN VỐN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 16

I. QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GỒM VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG. 16

1. Vốn và những đặc trưng của vốn DNNN 17

2. Xử lý và quản lý tốt nguồn vốn trong DNNN. 19

a) Vốn cố định 19

 b) Vốn lưu động. 22

3. Giải pháp tăng tốc độ chu chuyển vốn. 24

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆT NAM TRONG VẤN ĐỀ NÀY VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT 26

1. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNNN. 26

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp Nhà nước. 29

KẾT LUẬN 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận tuần hoàn và chu chuyển Tư Bản với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó : n : Số lần chu chuyển TB trong 1 năm CH : Năm đơn vị đo lường Ch : Thời gian chu chuyển 1 vòng của TB 2. Tư bản cố định và tư bản lưu thông Thời gian chu chuyển của Tư bản bằng toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng thực tế phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản là không giống nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của TB người ta chia TB thành TB cố định và tư bản lưu thông. Tư bản cố định là bộ phận Tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì lại không chuyển hết một lần mà chuyển dần từng phần một vào sản phẩm. Trước hết bộ phận được xếp vào tư bản cố định là bộ phận Tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động như máy móc, thiết bị, nhà xưởng đang được sử dụng trong quá trình sản xuất. Hình thái sử dụng của những bộ phận này luôn được duy trì và tồn tại như lúc chúng mới gia nhạo vào quá trình lao động. Chức năng tư liệu lao động trong quá trình sản xuất giữ chúng lại và do vậy bộ phận giá trị TB ứng ra được cố định lại dưới hình thái ấy. Bộ phận tư bản này lưu thông không phải dưới hình thái giá trị sử dụng của nó, mà chỉ giá trị của nó mới lưu thông và chuyển dần từng phần một giá trị đó vào sản phẩm. Phần giá trị đó không ngừng giảm cho đến khi TLLĐ trở thành vô dụng. Khi tư liệu lao động càng bền thì nó càng chậm hao mòn bằng nhiều giá trị tư bản bất biến sẽ được cố định dưới hình thái sử dụng ấy trong một thời gian càng lâu bất nhiêu. Ngoài ra tư bản cố định còn bao gồm bộ phận TB tồn tại dưới hình thái các TLSX mà xét về mặt giá trị và cả về phương thức lưu thông giá trị cũng như TLLĐ đã nói trên. Đây là trường hợp những chất dùng để cải tạo chất đất. Những chất này đem vào trong đất những chất hoá học làm giàu dinh dưỡng cho đất và chúng nằm lại trong đất trong nhiều thời kỳ sản xuất. Trong trường hợp này không phải chỉ có giá trị của TB cố định được chuyển dần vào sản phẩm mà giá trị sử dụng của bộ phận ấy cũng được chuyển vào sản phẩm. Tư bản lưu thông là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…tiêu dùng trong quá trình lao động. Xét về phức chu chuyển bộ phận TB khả biến cũng giống như bộ phận TB bất biến lưu thông nói trên do đó cũng được xét vào là TB lưu động. Sự phân chia TB thành bộ phận cố định và lưu động là đặc điểm riêng có của TBSX chỉ có TBSX mới có sự phân chia này và căn cứ của việc phân chia này chính là phương thức chu chuyển của TB. Cũng chính vì thế có những TLSX khi được coi là TBCĐ khi được coi là TB lưu động tùy theo chức năng của nó trong qúa trình sản xuất. Chẳng hạn như một con bò kéo đầy là TBCĐ nhưng bò thịt lại TBLĐ trong qúa trình sản xuất. TBCĐ bị hao mòn dần từ một chiếc máy mới nguyên vẹn cho đến khi chỉ còn là đống sắt vụn, đó là hao mòn về mặt giá trị sử dụng. Đồng thời với sự hao mòn vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm. Đó là hao mòn về mặt giá trị. Những hao mòn này được gọi là hao mòn hữu hình, nguyên nhân của những hao mòn này là do sử dụng trong sản xuất bị động của thiên nhiên gây nên. VD như máy bị gỉ. Bên cạnh đó TBCĐ còn bị hao mòn vô hình. Đó là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị trong khi giá trị sử dụng mới hao mòn hoặc còn nguyên vẹn nhưng bị mất giá vì có những máy móc tốt hơn, tồi tàn hơn xã hội. Cả hao mòn hữu hình và vô hình của TBCĐ đều được tính chuyển giá trị vào sản phẩm, lưu thông cùng sản phẩm, chuyển hoá thành tiền và trở thành qũy, dự trữ tiền tệ để đổi mới TBCĐ khi đến kỳ tái tạo ra TB đó dưới hình thái hiện vật. Đó chính là qũy khấu hao của TB. Để phát huy hiệu quả của tư bản bộ phận qũy khấu hao này có thể được đưa ra sử dụng để mở rộng doanh nghiệp tức tăng quy mô theo chiều sâu. Nhờ vậy doanh nghiệp có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng mà không cần có sự tích lũy TB thực sự. Để tránh những hao mòn bất thường và bất động phát huy hiệu quả cao, TBCĐ đòi hỏi những chi phí bảo quản đồng bộ. Việc bảo quản ấy được thực hiện một phần ở bản thân qúa trình lao động sử dụng nó, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Nhưng để bảo quản tốt TBCĐ còn đòi hỏi phải thực sự chi phí mức lao động nữa. Máy móc yêu cầu thường xuyên phải được lau chùi. Đây là việc phụ nhưng nếu không là thì máy móc sẽ nhanh hỏng. Ngoài ra TBCĐ còn cần được tu bổ, sửa chữa do đó đòi hỏi phải có những khoản chi về TB riêng. Thường mỗi TBCĐ đầu tư cho một ngành CN nhất định đều được dự tính theo kinh nghiệm những công văn lau chùi, những yêu cầu tu sửa sau những quãng thời gian lao động nhất định cũng như sửa chữa thông thường và bất thường có thể xảy ra. Những chi phí cho việc bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ của TB và được tính vào giá cả sản phẩm được sản xuất ra. Như vậy là những chi phí đó đã được dự tính trước dễ phân phối đều cho các vòng chu chuyển của TB ngay từ vòng đầu. Số TB chi ra cho CN bảo quản, sửa chữa là một thành phần có tổ chức đặc biệt, nó không thể xếp vào TB cố định cũng không phải là TB lưu động nhưng nó là một bộ phận trong chi phí thường xuyên nên được xếp vào TB lưu động. Trên thực tế ranh giới giữa việc thực sự là sửa chữa và thay thế, giữa chi phí bảo quản và chi phí đổi mới có phần nào không rõ ràng. Đặc biệt trong nông nghiệp hôm nay chưa sử dụng nhiều cơ khí nên việc phân biệt này càng trở nên khó thực hiện. Trong qúa trình sản xuất của các doanh nghiệp để tránh hao mòn vô ích cũng như ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa tăng cường hiệu suất các nhà TB tìm mọi cách để thu hồi TB về nhanh và thu nhiều lợi nhuận hơn. Để thực hiện được điều này thì ngoài các thủ đoạn thông thường như tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động… các nhà TB còn bóc lột cả thời gian nghỉ của công nhân, buộc công nhân lao động trong điều kiện cực khổ thậm chí không bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Điều này dẫn tới mâu thuẫn giai cấp trong XHTB trở nên gay gắt. Dưới chế độ XHCN khác hẳn những việc tận dụng khái niệm công suất của máy móc để tránh hao mòn vô hình, chú ý bảo quản sửa chữa, sử dụng hợp lý, có hiệu quả vốn cố định, vốn lưu động là yêu cầu kết quả trong việc quản lý nền kinh tế XHCN. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay việc tăng cường đưa máy móc hiện đại vào sản xuất, tận dụng hết công suất của máy không chỉ có tác dụng tránh hao mòn mà còn có ý nghĩa qúa trình trong việc tăng NSLĐ xã hội lên bước cao mới, đó là tránh được tình trạng lãng phí nghiêm trọng trong và sử dụng vốn cố định. 3. Tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển của TB và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của TB. Tốc độ chu chuyển của tổng TB ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển TB của TBCĐ và TB lưu thông. Công thức tính tốc độ chu chuyển của tổng TB ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển của TB cố định và giá trị chu chuyển của TB lưu động trong năm chia cho tổng TB ứng trước. Từ công thức suy ra tốc độ chu chuyển của tổng TB tỉ lệ thuận với tổng giá trị chu chuyển của TB cố định và TB lưu động và tỉ lệ nghịch với giá trị của tổng TB. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì động lực đồng thời cũng là vấn đề quan trọng đặt lên hàng đầu đó chính là tăng khối lượng giá trị thặng dư. Mà tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. Trong đó tăng tốc độ chu chuyển của TBCĐ, giúp cho nhà TB tránh được thiệt hại hao mòn vô hình và qua đó còn có thể tăng cường sử dụng qũy khấu hao vào mở rộng sản xuất. Còn dịch vụ TB lưu động tăng tốc độ chu chuyển đem lại tác dụng rất lớn. Đối với bộ phận TB bất biến lưu động nếu chu chuyển mạnh sẽ tiết kiệm được TB ứng trước. Đối với TB khả biến lưu động tác dụng của tăng tốc độ chu chuyển của TB là nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm dẫn đến tăng thêm giá trị thặng dư cho nhà TB. Giả sử có 2 TB, mỗi TB có 25.000 TB khả biến, tỉ suất giá trị thặng dư là 100% nhưng TB thứ nhất một năm chu chuyển 1 lần, TB thứ hai chu chuyển 2 lần. Kết quả là TB thứ nhất thu được 25000 x 100% = 25000 giá trị thặng dư còn TB thứ 2 thu được 25000. 2.100% = 50000 giá trị thặng dư. Như vậy tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm của TB1 là : Còn của TB thứ hai là : Sở dĩ hiện tượng này là vì tuy hai TB khả biến ứng trước như nhau nhưng do chu chuyển khác nhau nên tư bản khả biến thực tế sử dụng lại khác nhau và do đó tuy tỷ suất giá trị thặng dư thực tế như nhau lại dẫn đến tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau. Hiện tượng này làm cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư không phải chỉ phụ thuộc vào trình độ bóc lột sức lao động do TB khả biến àm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích được do qúa trình lưu thông để ra. Do đó, nhà TB rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của TB. Phương pháp rút ngắn thời gian sản xuất được thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hợp tác cải tiến tổ chức và quản lý lao động, kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động… tất cả các cách đó đều nhằm việc rút ngắn thời gian lao động, rút ngắn qúa trình chịu ảnh hưởng thu nhập của việc sản xuất cũng như rút ngắn thời gian lao động rút ngắn qúa trình chịu ảnh hưởng thu nhập của việc sản xuất cũng như rút ngắn và giảm bớt được dự trữ sản xuất. Song các phương pháp đó lại buộc các nhà TB phải tăng thêm TB ứng trước, kỹ thuật công phu thì TB cố định càng lớn mà TBCĐ thì chu chuyển chậm do đó ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ TB. Và đặc biệt là khi nhà TB sử dụng phương pháp này phải tăng thêm sức bóc lột cho nên lại làm phát triển thêm môi trường trong nền sản xuất TBCN. Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông được thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng cho đang dạng hấp dẫn hơn, cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải… Nhưng trong qúa trình thực hiện việc rút ngắn thời gian lưu thông của TB lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển phạm vi thị trường cần mở rộng thì càng làm tăng thêm tính chất cạnh tranh về chi phí trong xã hội khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng và quảng cáo phô trương hình thức gây ra, hay sự bố trí sản xuất không hợp lý làm cho nguyên vật liệu và hàng hoá vận tải loanh quanh tốn thời gian. Mặt khác đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm nên sức mua ngày càng giảm sút - sự tiêu thụ hàng hoá gặp khó khăn hàng hoá biến dạng. Đó là những mâu thuẫn đối kháng của bản thân CNTB, việc rút ngắn thời gián sản xuất và thời gian lưu thông của TB, do đó đẻ ra cả việc tăng tốc độ chu chuyển của TB đã vấp phải rất nhiều khó khăn trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc cùng mức độ cạnh tranh giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác định rõ điều này. Tăng tốc độ chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của mọi nền sản xuất. Vì vậy nền kinh tế XHCN càng yêu cầu và có đầy đủ kinh nghiệm để thực hiện tốt vấn đề đó. Trong nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông thì việc sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực và tài lực càng được hợp lý có lợi cho toàn xã hội. Do đó để quản lý tốt nền kinh tế, phát huy tối đa đồng vốn các doanh nghiệp đòi hỏi nước ta phải biết vận dụng những nguyên lý về chu chuyển TB một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với thực tế đất nước. B. Vận dụng lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản vào nước ta trong việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong doanh nghiệp Nhà nước. Thực trạng sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn qua là hồi chuông báo hiệu cho các nhà quản lý kinh tế về một nguy cơ trí tuệ của nền kinh tế. Trước nguy cơ tốc độ tăng trưởng và quy mô sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước có thể giảm sút vì thiếu vốn và sử dụng không có hiệu quả thì vấn đề xử lý vốn là yêu cầu đặt ra là rất cần thiết. Trong tình hình này việc vận dụng lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển TB có ý nghĩa thực tiễn là vô cùng to lơns trong việc quản lý vốn của doanh nghiệp, nó chỉ ra cho các doanh nghiệp biết phải sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả trong từng giai đoạn của qúa trình sản xuất. I. Quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước gồm vốn cố định và vốn lưu động. Vốn luôn là một bài toán hóc búa đối với mọi doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Và phải nói riêng trong nội dung hoạt động của doanh nghiệp thì quản lý sử dụng vốn là khâu quan trọng nhất, có tính quyết định tới mức độ điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị là tiền. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó chính là nguyên lý đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị thực của 1 doanh nghiệp không phải chỉ là phép cộng giản đơn các loại . Vốn cố định và vốn lưu động hiện có, mà còn tính đến giá trị của những tài sản khác có khả năng sinh lời của doanh nghiệp như vị trí địa lý, mức độ uy tín của nhãn hiệu sản phẩm, bí quyết quản lý và trình độ tay nghề công nhân…Đó gọi là TS vô hình và nó có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp, đặc biệt đó là DNNN. Những nhận thức trên về vốn không chỉ giúp cho việc xác định giá trị thực của một doanh nghiệp mà nó còn giúp cho công tác quản lý vốn có tầm nhìn rộng để khai thác, sử dụng những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp phục vụ cho đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đối với DNNN, bất cứ doanh nghiệp nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc vốn theo điều lệ phải lớn hơn vốn pháp định mà Nhà nước đã quy định cho các ngành nghề. Vì thế ngay khi có quyết định thành lập, doanh nghiệp Nhà nước phải được Nhà nước cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập của DNNN ( không trễ hơn 30 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập). Vốn cấp có thể bằng tiền, bằng quyền sử dụng đất, bằng tài sản hữu hình, vô hình khác được thánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho DNNN có thể sản xuất kinh doanh bình thường, thậm chí có thể cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên ngoài số vốn ban đầu của Nhà nước, trong quá trình lao động doanh nghiệp nếu thiếu vốn có thể huy động vốn từ những nguồn khác nhau bằng nhiều hình thức để bổ sung thêm vốn. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu kinh doanh trong cơ chế H bởi việc huy động vốn của DNNN có thể làm thay đổi cơ cấu tài chính của doanh nghiệp nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp, Nhà nước vẫn là người quyết định những vấn đề quan trọng nhất của doanh nghiệp để hướng doanh nghiệp vào thực tiễn những mục tiêu và nhiệm vụ mà Nhà nước đặt ra. Trong đoạn đầu của quá trình CNH - HĐH đất nước hiện nay nhu cầu về vấn đề đổi mới công nghệ và phát triển sản xuất của DNNN là rất lớn. Tốc độ tăng trưởng và quy mô sản xuất DNNN có thể đứng trước nguy cơ giảm sút vì thiếu vốn. Trước vốn lưu động đặt ra như vậy thì chính phủ tạo cơ chế hợp lý cho DNNN sử dụng các tiềm lực TC đang tồn đọng tại doanh nghiệp, hỗ trợ theo nguyên tắc ưu tiên xử lý khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp đang làm ăn hiệu quả (nới lỏng cơ chế quản lý tín dụng, bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp). Ngoài ra Chính phủ ban hành đồng bộ và đầy đủ cơ chế chính sách, tạo hành lang hợp lý để doanh nghiệp thực hiện huy động vốn. Tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn bao gồm nhiều khâu như xác định nhu cầu vốn, khai thác tạo lập vốn, đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn… Vậy trước tiên ta đi nghiên cứu vốn là gì ? Nó có những đặc trưng gì trong quá trình vận động của nó. Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà nó còn có ý nghĩa trong việc, định ra những phương pháp xử lý vốn có hiệu quả. 1. Vốn và những đặc trưng của vốn DNNN Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn, doanh nghiệp dùng vốn đó để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Dưới sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải bù đắp được các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra lao đọng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tư bản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền. ở đây cần phải có sự phân biệt. Tiền được gọi là vốn phải có các điều kiện là : Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định đủ để đầu tư cho 1 dự án kinh doanh. Và khi đã đủ về số lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh tiền vận động theo phương thức :  SLĐ T - H ……SX…H’ - T’ TLSX Khi vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và cụ thể là nhà nước khuyến khích DNNN tạo nguồn thông qua việc sử dụng nguồn khấu hao cơ bản hàng năm, P lợi tức sau thuế dành cho đầu tư phát triển, thông qua các hình thức huy động vốn như vay từ quỹ bảo hiểm XH, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thu từ cổ phần hoá, vay NH Thương mại trung và dài hạn…Khuyến khích doanh nghiệp tăng quy mô vốn trên cơ sở phát hành thêm cổ phiếu, huy động vốn từ các chủ sở hữu khác. Sau khi được giao vốn DNNN có nghĩa vụ phải tổ chức quản lý và sử dụng vốn này ngày càng có hiệu quả cao, phải bảo toàn và phát triển số vốn được giao. 2. Xử lý và quản lý tốt nguồn vốn trong DNNN. Căn cứ vào công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của DNNN được chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Các loại vốn này có đặc điểm chu chuyển khác nhau. Chính sự khác nhau về đặc điểm chu chuyển đó đã chi phối đến phương thức quản lý, phương thức bù đắp và bảo toàn vốn cũng khác nhau. a. Vốn cố định Vốn cố định của biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động. * TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành 2 loại : - Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải..trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của DNNN. - Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả. * TSCĐ có những đặc điểm riêng của nó là trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không thay đổi hình thái hiện vật nhưng năng lực sản xuất và kèm theo đó là giá trị của chúng bị giảm dần. Đó là do chúng bị hao mòn. Có 2 loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của TSCĐ. Còn hao mòn vô hình lại có liên quan đến việc mất giá của TSCĐ. Việc mất giá này có nhiều nguyên nhân : TSCĐ cũ có thể bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra với giá như cũ nhưng có năng lực sản xuất cao hơn hoặc do TSCĐ mới có công suất bằng tài sản cũ nhưng giá lại rẻ hơn hay do TSCĐ cũ bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. * Đối với TSCĐ hữu hình thì thường bị cả hao mòn hữu hình và vô hình còn TSCĐ vô hình thì chỉ bị hao mòn vô hình. * Từ đặc điểm vận động của TSCĐ đã quyết định đến đặc điểm vận động của vốn cố định : Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm và chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm tương ứng với phần hao mòn tài sản cố định. + Vốn cố định được thu hồi dần từng phần hao mòn của tài sản cố định đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được thu hồi về đủ thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Đối với các DNNN, việc nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cố định có ý nghĩa to lớn về kinh tế tài chính : Giúp cho doanh nghiệp tăng được khối lượng sản phẩm sản xuất ra, tiết kiệm chi phí đầu tư giảm hoặc tránh được hao mòn vô hình, hạ giá thành sản phẩm, từ đó tăng doanh lợi. Trong thực tế để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau : Hiệu suất vốn cố định = Doanh thu trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ ý nghĩa của chỉ tiêu này : Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bv đồng doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = Lợi nhuận trươcs thuế Số vốn cố định bình quân trong kỳ ý nghĩa của chỉ tiêu này : Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bn đồng lợi nhuận. Hệ số hao mòn TSCĐ = Số tiền khấu hao luỹ kế Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá ý nghĩa chỉ tiêu này : Phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số trang bị TSCĐ = NG TSCĐ bình quân trong kỳ Số lượng của công nhân trực tiếp sản xuất ý nghĩa của chỉ tiêu : Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất. Khi nhìn nhận về vốn cố định các DNNN đã vận dụng nó vào trong quá trình sản xuất kinh doanh như thế nào ? Nhìn một cách tổng thể tài sản cố định của DNNN của tư quá lạc hậu về kỹ thuật, manh mún, không đồng bộ. Theo báocáo của Bộ khoa học CN và môi trường thì máy móc của ta phần lớn nhập từ các nước khác nhau như Liên Xô cũ, các nước Đông Âu, ASEAN, công nghệ lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm. Mức độ hao mòn hữu hình từ 30 - 50% hiệu suất sử dụng thấp chỉ 25 - 30%. Một thực trạng đáng buồn hiện nay là bên cạnh một số ngành đầu tư đúng hướng, thích đáng cho máy móc thiết bị công nghệ bưu chính viễn thông, dầu, điện, một số nhà máy của Tổng Công ty xi măng) thì không có gì phải bàn luận. Song vấn đề ở chỗ vì nhiều lý do khác nhau không ít doanh nghiệp lại lựa chọn công nghệ lạc hậu, thiết bị máy móc cũ không phù hợp khiến hậu quả tất yếu là mức tiêu hao nhiên liệu cho đơn vị sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không ổn định, mẫu mã đơn điệu mấy khả năng cạnh tranh. Cũng chính từ chỗ hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp dẫn tới thời gian khấu hao TSCĐ bình quân kéo dài 10 - 12 năm trong khi trên thế giới chỉ 7 - 8 năm lại đưa đến vòng luẩn quẩn làm cho mức độ đầu tư đổi mới TSCĐ chậm. Nói tóm lại ta có thể khẳng định rằng vốn cố định trong các DNNN ở nước ta hiện nay sử dụng chưa có hiệu quả. Trước thực trạng như vậy, đặt ra yêu cầu bức thiết buộc chúng ta phải nhìn lại thực tế để đưa ra biện pháp nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn cố định. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cô định trước hết phải quản lý tốt vốn cố định gồm quản lý về mặt giá trị và về mặt hiện vật của nó. Quản lý mặt giá trị của vốn cố định là quản lý quỹ khấu hao. Vì vốn cố định được thu hồi lại bằng biện pháp khấu hao, tức tính lại phần giá trị hao mòn của tài sản cố định. Tiền trích lại đó hình thành nên quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để duy trì năng lực sản xuất bình thường của TSCĐ và dùng để tái sản xuất toàn bộ TSCĐ. Để quản lý tốt quỹ khấu hao cần phải đánh giá và đánh giá lại TSCĐ một cách thường xuyên và chính xác tạo cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn. Mặt khác cần phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để bảo đảm thu lời vốn nhanh và bảo toàn được vốn quản lý về mặt hiện vật của vốn cố định là quản lý TSCĐ. Để quản lý tốt cần phân loại TSCĐ theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo hình thái biểu hiện, theo mục đích sử dụng, theo công dụng kinh tế, theo hình thái sử dụng) để từ đó xác định trọng tâm của công tác quản lý. - Do đặc điểm tài sản cố định và vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu còn giá trị lại chuyển dần vào sản phẩm nên nội dung bảo toàn vốn cố định bao gồm 2 mặt giá trị và hiện vật. Trong đó bảo toàn về hiện vật là tiền đề để bảo toàn vốn cố định về giá trị bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ là giữ nguyên hiện thái vật chất mà duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp nhà nước phải quản lý chặt chẽ không làm mất tài sản cộng đồng, thực hiện đúng qui chế sử dụng, bảo dưỡng nhằm duy trì và nâng cao năng lực lao động của tài sản cố định , không để tài sản cố định hư hỏng trước thời hạn qui định. Bảo toàn vốn cố đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34565.doc
Tài liệu liên quan