Đề tài Lý luận xuất khẩu tư bản và vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) ở Việt Nam hiện nay

Đối với bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài tập trùng vào 2 vấn đề lớn là thẩm định dự án và quản lý các dự án đựơc cấp giấy phép, các biện pháp cụ thể là:

 - Phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đối với các ngành liên quan , giảm bớt các đầu mối phê chuẩn cấp giấy phép đầu tư kinh doanh.

 Xây dựng quy trình thẩm định dự án bảo đảm chất lượng và thông lệ quốc tế

- Trển khai và hướng dẫn cách thức xây dựng dự án đầu tư và phát hành mẫu hồ sơ cho một ngành trọng trách.

Tăng cường kiểm tra theo dõi quá trình triển khai các dự án, các báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp liên doanh, xử lý các sai phạm sảy ra

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận xuất khẩu tư bản và vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m. Đối với đối tác Mỹ cũng tăng lên đáng kể từ khi có bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ và đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được kí kết, trong tương lai cùng với những đối tác khác góp phần lớn tăng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Theo đỏnh giỏ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc Mỹ thụng qua Hiệp định Thương mại giữa hai nước sẽ mở ra cơ hội tốt cho lĩnh vực thu hỳt ĐTNN tại Việt Nam.Cơ hội lớn nhất mà Hiệp định mang lại là thụng qua việc thực hiện cỏc cam kết trong Hiệp định, nước ta cú điều kiện tiếp tục hoàn thiện hệ thốngphỏp luật, chớnh sỏch nhằm tạo dựng một mụi trường đầu tư cú tớnh hấp dẫn và cạnh tranh cao so với cỏc nước trong khu vực.Hiệp định tạo cơ sở để Việt Nam phỏt triển một nền kinh tế lành mạnh cú cạnh tranh, do đũi hỏi của Hiệp định là xoỏ bỏ cỏc phõn biệt đối xử cú lợi cho kinh tế quốc doanh và tạo "sõn chơi" bỡnh đẳng giữa cỏc thành phần kinh tế. Việc cỏc doanh nghiệp Mỹ và cỏc nước khỏc đầu tư vào cỏc ngành kinh tế trong nước sẽ tạo cạnh tranh, giảm giỏ thành, cú lợi cho người tiờu dựng và giỳp Việt Nam cú cơ hội phỏt triển, nắm thụng tin, mở rộng thị trường ra nước ngoài. Nú cũng giỳp làm trong sạch thị trường tài chớnh, tớn dụng của Việt Nam, đồng thời buộc cỏc doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực đầu tư , nõng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tiếp thu cụng nghệ tiờn tiến, kỹ thuật hiện đại,đổi mới phương thức quản lý...Khi Hiệp định chớnh thức cú hiệu lực sẽ mở ra cho Việt Nam một thị trườngrộng lớn do thuế nhập khẩu hàng hoỏ Việt Nam vào Mỹ giảm xuống bằng mức của cỏc nước đang phỏt triển khỏc. Thuế nhập khẩu núi chung từ 40-60% xuống cũn3%. Ngay lập tức việc giảm thuế này cú lợi cho ngành sản xuất quần ỏo, giày dộp. ĐTNN vào Việt Nam trong những ngành này sẽ tăng đỏng kể trong thời gian tới, vỡ cỏc nước cú vốn muốn tận dụng lợi thế nhõn cụng rẻ ở Việt Nam để sản xuất hàng hoỏ xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Cơ hội là vậy, nhưng biến nú thành hiện thực khụng phải là điều đơn giản, bởi nước ta phải đối mặt với những thỏch thức to lớn. 2.4. Các hình thức đầu tư thực hiện Luật ĐTNN tại Việt Nam quy định 3 hình thức đầu tư chủ yếu là: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài, thì đến nay cả 3 hình thức đều được các nhà đầu tư chấp nhận và vận dụng. Tính từ 1988 đến năm 1996, xí nghiệp liên doanh chiếm 67,09% tổng số dự án với 79,68 số vốn đầu tư . Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 26.58% số dự án với 16,34% tổng số vốn đầu tư 2.4.1. Hình thức xí nghiệp liên doanh: Được áp dụng phổ biến nhất nhưng có xu hướng bớt dần về tỷ trọng. Hiện có khoảng 1300 xí nghiệp liên doanh được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 20.489,016 triệu USD. Sở dĩ các nhà đầu tư nước ngoài thích áp dụng hình thức liên doanh vì: - Họ thấy được ưu thế của hình thức xí nghiệp liên doanh so với xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là tranh thủ được sự hiểu biết và hỗ trợ của đối tác Việt Nam trong tất cả các khâu hình thành, thẩm định và thực hiện dự án, rộng hơn xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Phạm vi, lĩnh vực và địa bàn hoạt động của xí nghiệp liên doanh Tuy nhiên, hiện nay hình thức nào có xu hướng giảm đi là do nhữg nguyên nhân chủ yếu sau: - Sau một thời gian tiếp cận với thị trường Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư tại Việt Nam có những bất lợi cho họ. - Thực tiễn phát sinh nhiều tranh chấp việc quản lý điều hành xí nghiệp, một phần do sự yếu kém về trình độ của bên đối tác Việt Nam. Mặt khác, bên nước ngoài thường góp vốn nhiều nhưng lại không quyết định được vấn đề chủ chốt của xí nghiệp vì nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị. - Khả năng tham gia liên doanh của Việt Nam cơ bản là thiếu cán bộ quản lý, chuyên gia, thiếu vốn đóng góp (vốn đối ứng), phần vốn góp chủ yêú là đất (chiếm 90%) giá trị. - 98% đối tác Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh là các doanh nghiệp nhà nước, 2% còn lại thuộc các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh bao gồn các hợp tác xã, công ty cô phẩn, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, có nhiều trường hợp cơ quan quản lý nhà nước đã có tác động sẵn vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều thừa nhận quy định về xí nghiệp liên doanh của LĐTNN tại Việt Nam là rõ ràng và chấp nhận được. Tuy nhiên, một số đối tác nước ngoài cho rằng nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị là không phù hợp với hệ thống quốc tế, và trong thực tế có nhiều trường hợp bên Việt Nam có thể cố tình hoặc do thiếu hiểu biết đã vận dụng sai những nguyên tắc này, áp dụng những vấn đề không phải chủ chốt, gây lên khó khăn ách tắc đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.4.2. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đầu tư nhà nước theo theo hình thức này ngày càng tăng từ 6% về tổng số vốn đăng ký trog 4 năm từ 1988 đến 1991 lên 21,1% năm 1996. Tính từ năm 1988 đến năm 1966 đã có 500 dự án đầu tư với tổng số vốn là 4.234,431 triệu USD. Nguyên nhân giảm sút công nghiệp liên doanh cũng là nguyên nhân tăng tỷ trọng các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Uỷ ban nước ngoài và hợp tác đầu tư trước đây đã không cấp giấy phép cho nhiều dự án 100% vốn nước ngoaì rọng những ngành, lĩnh vực quan trọng hoặc có tính đặc thù như: Bưu chính, viễn thông, xây dựng kinh doanh khách sạn và phòng cho thuê, sản xuất xi măng, dịch vụ xuất nhập khẩu …. Nhưng trong những năm gần đây các địa phương phía Nam đặc biết là các tỉnh: Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa - Vũng Tầu đã ủng hộ mạnh các dự án 100% vốn nước ngoài vì họ cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có lợi thế nhiều hơn là việcc giao đất cho bên Việt Nam góp phần bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia liên doanh. Xu hướng xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên nói đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, thể hiện sự yên tâm của các nhà nước ngoài ki hoàn toàn bỏ vốn ra kinh doanh chứ không phải liên doanh hay ký kết hợp đồng hợp tác để vừa kinh doanh vừa thăm dò tình hình nước sở tại. 2.4.3. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Là hình thúc được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Hai lĩnh vực này chỉ chiếm 30% số dự án (nhưng trong đó có tới 90% tổng số vốn cam kết thực hiện). Phần còn lại chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp gia công chế biến và dịch vụ, tính từ 1988 đến hết năm 1996 chúng ta có tất cả 119 trường hợp hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng số vốn là 1.184.181 triệu USD. Qua thực hiện quản lý hợp đồng, hợp tác kinh doanh thường có phát sinh hai vấn đề phức tạp sau: - Một là, có sự nhầm lẫmn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các hợp đồng khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài như: Hợp đồng mua bán thiết bị trả chậm…Do vậy một số nhà đầu tư đã lợi dụng để đầu tư chui, trốn tránh sự quản lý của nhà nước về đầu tư. - Hai là, khi thực hiện các dự án lớn, các bên hợp doanh thường gặp khó khăn trong việc phân phối điều hành dự án. Một số hợp doanh đã đề xuất thành lập ban điều hành chung và đề bghị tổ chức ban điều hành đó như một pháp nhân và thực tế đã có hợp doanh tổ chức thành pháp nhân, có con dấu hoạt động tại Việt Nam. Về hình thức đầu tư và các phương thức tổ chức khác đến nay đã có 5 công ty liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng, khu chế xuất và hai công ty liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp được cấp giấy phép hoạt động. Hình thức hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) mới bắt đầu triển khai thực hiệ đã có một dự án. Xử lý và cug cấp nước sạch ở thành phố Hồ Chí Minh với tổng số vốn là 30 triệu USD, trong năm 1996 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) đã cấp thêm 3 giấy phép cho dự án BDT với tổng số vốn đầu tư là 673.000.000 USD. Nhìn chung theo đánh giá của các đối tác nước ngoài thì hệ thống luật pháp về B.O.T được xem là đầy đủ, hoàn chỉnh so với nhiều nước trong khu vực. II. Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam. Trong hơn 10 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thay đổi quan trọng do những tác động của đổi mới kinh tế, sự thay đổi cơ thể và các chính sách, đặc biết là sự mở của của nền kinh tế. Nên kinh tế đã và đang đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng; thực tế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam cho ta thấy rõ vai trò không thể thiếu của nó đối với quá trình phát triển kinh tế diễn ra ngày càng sôi động. Vai trò đó thể hiện trên các mặt: Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng xuất khẩu, tăng thêm việc làm và thu nhập nhanh chóng; tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, tăng thu nhập quốc dân, tăng thu ngân sách. 1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách. Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài trả cho một nước trong một thời kỳ nhất định. Cán cân thanh toán đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, tình trạng của nó ảnh hưởng quyêt định đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, tình trạng ngoại hối của đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trước 1986 phần lớn là với khối Comecon, đặc biệt là ngoại thương với Liên Xô (cũ) chiếm 44% tỉ trọng xuất khẩu và 67,1% nhập khẩu của Việt Nam. Cán cân thanh toán của Việt Nam trong một thời gian dài thường thâm hụt, năm 1976 thânm hụt 801,4 triệu rúp, nưm 1980là 975 triệu, năm 1985 là 1158,9 triệu và 1986 thâm hụt là 1332,1 triệu. Kể từ năm 1988 tình hình cán cân thanh toán có những cải thiện đáng kể, về doanh thu của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến ngày 30/9/1997 là 4.983 riệu USD (không kể dầu khí), trong đó kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/3. Còn nếu cộng cả dầu khí, tỉ trọng xuất khẩu của FDI khoảng 60 - 65%, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Về thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước năm 1988 - 1992 đạt 91 triệu USD, năm 1993 đạt 195 triệu USD (không kể dầu khí) và cho đến năm 1997 đạt trên 300 triệu USD. Đàu tư trực tiếp còn tác động tích cực tới đẩy mạnh sản xuất, tạo ra những năng lực sản phẩm mới, nâng cao chẩt lượng sản phẩm cao mặt hàng may mặc, dệt kim đồ dùng bằng da, thực phẩm, dầu thô… 2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Từ khi thực hiện LĐTNN tại Việt Nam năm 1988 chúng ta đã khắc phục được phần nào tỷ lệ thất nghiệp trước đó, bước đầu tạo thêm việc làm cho người lao động, theo số liệu của Tổng cục thống kê cho biết: từ năm 1998 đến nay tổng số lao động Việt Nam làm cho các xí nghiệp đầu tư vốn nước ngoài là 166.984 người. Ngoài ra FDI còn gián tiếp tạo ra việc làm và thu nhập cho hàng trục vạn lao động bao gồm công nhân xây dựng, lao động các dịch vụ khác cũng như đi lao động ở nước ngoài. Nhiều cán bộ đã phát huy được nămg lực vươn lên đảm đương được những vị trí quan trọng, có uy tín với đối tác nước ngoài. Làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động Việt Nam có mức thu nhập khá cao. Kết quả khảo xát nhiều xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh và ở Hà Nội vào cuối năm 1994 của Bộ Lao động thươn binh và xã hội cho thấy mức lương cán bộ cấp phòng vào khoảng 200 - 300 USD/ tháng, 80 - 100 USD/ tháng cho viên chức sự nghiệp, 60 - 80 USD/ tháng cho công nhân làm tại phân xưởng. Đối với khối văn phòng đại diện, mức lương tạp vụ thống nhất là 80 USD/tháng, nhân viên thừa hành 200 - 300 USD/ tháng. Ngoài lương công nhân các xí nghiệp liên doanh còn hưởng các khoản phụ cấp trách nhiệm, tiền ăn trưa, tiền thưởng… Những con số nêu trên chưa lớn và cách đây đã mấy năm trời như kết quả ban đầu đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với việc giải quyết công ăn trong thời gian vừa qua. Tuy vậy, vấn đề cần giải quyết là bố trí được giữa đầu tư xây dựng mới và đầu tư chiều sâu, giữa các ngành có trình độ kỹ thuật cao và phải kết hợp hài hoà cả hai lợi ích; giải quết việc làm cho người lao động và nâng cao trình độ kỹ thuật trong nước, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 3. Chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi và nhanh chóng. Đổi mới thiết bị công nghệ là nhu cầu tất yếu của bất kỳ nễn sản xuất nào, vì đó là nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất thông qua nâng cao năng suất, chất lượng lao động xã hội, mở rộng chủng loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người. Về mặt lý thuyết, thông qua trực tiếp công nghệ được chuỷen giao dưới nhiều hình thức: máy móc thiết bị, kinh nghiệm quản lý, thiết bị kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, đào tạo cán bộ hoạt động nghiên cứu và triển khai. Nhu cầu về thiết bị và công nghệ của Việt Nam xuất phát từ thực trạng của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Sau nhiều năm xây dựng, chúng ta có nhiều cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải quan trọng nhưng nói chung đang được vận hành trong điều kiện thiết bịo kinh tế lạc hậu rất nhiều so với các nước trên thế giới. Dù dưới hình thức nào thì việc triển khai công nghệ không qua đàu tư trực tiếp cũng có nhiều ưu điểm. Do lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài nên họ thường chú trọng đưa vào công nghệ tiên tiến nâng cao sản xuất, chất lượng lao động để cạnh tranh và thu lợi nhuận cao. Nhưng cũng nhờ đó mà nước sở tại cũg thu được nhiều thiết bị công nghệ hiện đại, hơn nữa sự xuất hiện của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với những kỹ thuật công nghệ ưu việt đã tạo ra một áp lực cạnh tranh buộc các xí nghiệp trong nước phải cải tiến kỹ thuật, công nghệ. Chính điều này đã góp phần nâng cao trình độ chung của nền kinh tế quốc dân. Tại Việt Nam, trong nhiều lĩnh vực kết quả cuyển giao công nghệ được đánh giá cao như các dự án về thăm dò và khai thác dầu khí, lắp ráp và sản xuất Ôtô, xe may, công nghễ thép, đặc biệt là công nghệ Bưu chính viễn thông, sản xuất các linh kiện và trang thiết bị điện tử. 4. Tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Nội dung của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời gian tới là đưa nhanh tién bộ khoa học công nghệ, các phương pháp công nghệ hiện đại; các phương pháp tổ chức sản xuất, kinh doanh và quản lý tiên tiến vào các ngành, các lĩnh vực của nề kinh tế quốc dân. Muốn như vậy cần phải phát triển cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, và sinh học hoá trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế quốc dân. ưu tiên cho các ngành , lĩnh vực các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ, các doanh nghiệp trọng điểm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đang được tiến hành ngày càng hợp lý, và có hiệu quả hơn. Thực tế, vốn FDI đã tác động không ít (cả trực tiếp lẫn gián tiếp) đến các bộ phận của nền kinh tế quốc dân theo những định hướng do Chính phủ điều hành (trực tiếp hoặc gián tiếp). Điều này đã một phần đã được chứng minh qua các số liệu ở mục I chương II và hãy so sánh 2 bảng sau: Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành chủ yếu (Đơn vị:%) Hạng mục 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 GDP 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.75 6.84 1. Công nghiệp 13.39 13.6 14.46 12.62 8.33 7.68 10.07 10.36 2. Nông nghiệp 3.37 4.8 4.40 4.33 3.53 5.23 4.04 2.75 4. Dịch vụ 9.56 9.83 8.8 7.14 5.08 2.25 5.57 6.13 Bảng 4: Cơ cấu kinh tế giữa các ngành (Đơn vị: %) Hạng mục 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 1. Công nghiệp 28.87 28.76 29.73 32.08 32.49 34.49 36.61 37.75 2. Nông nghiệp 27.43 27.18 27.76 25.77 25.78 25.43 24.3 23.3 4. Dịch vụ 43.7 44.06 42.51 42.15 41.73 40.08 39.09 38.95 III. Một số tồn tại của hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam. 1. Những vấn đề hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hệ thống pháp luật kinh tế chưa đồng bộ, chưa đầy đủ và tính pháp lý của nhiều văn bản pháp luật chưa cao.Nhiều các vấn đề trong LĐTNN còn chưa cụ thể như: Lao động tiền lương xuất nhập khẩu, thuế đát đai trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, một số lĩnh vực liên quan tuy có luật điều chỉnh nhưng không có văn bản hướng dẫn kịp thời, nên không thực hiện được, thậm chí vẫn còn tình trạng các văn bản có sự mâu thuẫn nhau nên không thể hướng dẫn thực hiện được. Trong khi đó, các cá biệt có những điều khoản chưa phù hợp với thông lệ quốc tế gây khó khăn cho quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, phải đề cập đến mặt thứ 2 của vấn đề này là thực trạng chấp hành luật xử lý vi phạm luật. Do ở quá lâu trong cơ chế cũ nên ý thức tôn trọng pháp luật ở Việt Nam còn rất thấp, thể hiện ở cả hai phía. Người quản lý và người chấp hành. Về phía người quảnt lý thì có nhiều quyết định quản lý đưa ra không phù hợp với các quy định của luật, thậm chí mâu thuẫn trái ngược với luật. Về phía người chấp hành thì hầu như chưa có thói quen hành động trong khuôn khổ pháp luật nên ít người biết tới luật, trừ khi họ vi phạm bị phát hiện xử lý. ở đây việc tuyên truyền, phổ biến luật đã có những thiếu sót, khe hở của pháp luật nói chung và LĐTNN nên nhiều các cá nhân, tổ chức đã lợi dụng để hoạt động. 2. Bộ máy quản lý. Hiện nay, Việt Nam đã và đang song vẫn chưa thoát gỡ được những thủ tục quá rắc rối, thủ tục hành chính trong quá trình ký kết còn kéo dài, cách làm việc thiếu khẩn chương, không giữ đúng thời gian quy định. Từ việc xin VISA vào Việt Nam thăm dò đầu tư; chọn đối tác, lập dự án cho đến việc mở văn phòng, đăng ký con dấu, thuê mướn lao động các nhà đầu tư phải mất 6 tháng đến 1 năm, khoảng thời gian đó có thể mất 1/2 cơ hội. Cùng cách làm ăn còn quan liêu, chưa phù hợp. Một vấn đề nữa là thiếu cán bộ năng lực phù hợp để đối tác với nước ngoài và cán bộ quản lý. Thường khi đàm phán phía nước ngoài hỏi rất nhiều và do sự hạn chế về trình độ của cán bộ ta mà dẫn đến nhiều dự án phá sản. Thiếu sót nghiêm trọng là việc hiểu biết và nắm vững luật pháp còn yếu. Mặt khác do nôn nóng muốn có vốn đầu tư nước ngoài mà vội vàng "đầu tư với bất cứ giá nào" đã dẫn đến chọn nhầm đối tác. Trong việc đánh giá chất lượng và đánh giá tài sản cố định thiết bị mà hai bên đóng góp vào liên doanh có hiện tượng thiếu trung thực, do ta không nắm được chất lượng và giá cả của thiết bị nên có trường hợp phải nhận thiêt bị cũ, lạc hậu, giá bị đẩy lên cao. 3. Kết cấu hạ tầng. Hạ tầng của ta còn chậm phát triển so với yêu cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, rất nhiều hệ thống công trình bị hư hỏng và cần được sửa chữa. Hệ thống cảng của ta hiệ nay chỉ đủ sức bốc rỡ một khối lượng hàng hoá khoảng gần 20 triệu tấn mỗi năm và hầu hết các cảng còn quá đông đối với tầu lớn. Mạng lưới truyền tải điện còn chắp vá, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống cấp thoát nước ở nhiều nơi (Trung tâm kinh tế đô thị, thành phố…) cũng chưa đảm bảo được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống Bưu chính viễn thông tuy có phát triển phần nào đáp ứng được yêu cầu và một yéu tố nữa có tác động tiêu cực rất lớn tới việc thu hút FDI là giá cước phí của ta có thể nói là gần như cao nhất trong khu vực như gía điện ,nước, điện thoại ,giá thuê đất … 4.Trình độ ngưòi lao động Đội ngũ lao động của Việt Nam tuy cần cù nhưng không được đào tạo có bài bản ,khả năng thích ứng khi tiếp cận với những công nghệ mới hiện đại còn thấp .Những cán bộ được đề cử giữ chức trong các liên doanh còn thiếu kinh nghiệm quản lí ,bị hạn chế về ngoại ngữ và vốn hiểu biết . 5. Những hạn chế của quá trình thực hiện. 5.1. Về quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư. Nhìn chung trong thời gian qua lượng vốn đầu tư vào nước ta còn ít, tốc độ luân chuyển nước ta còn chậm chạp kém hiệu quả, quy mô bình quân mỗi dự án còn nhỏ. Trong nửa cuối năm 1977 và đầu năm 1998 trở lại đây tốc độ đầu tư trực tiếp có xu hướng "chựng lại" so với các năm trước. Có nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, nhưng chủ yếu có 3 nguyên nhân cơ bản sau: - Thứ nhất, trên phạm vi cả nước chúng ta đã cấp giấy phép đầu tư nước ngoài với số vốn gần 30 tỉ USD, trong đó có khoảng 2/3 số vố theo giấy phép chưa được triển khai đi vào hoạt động. Vì vậy thị trường đầu tư tại Việt Nam cuối năm 1997 và những năm sau không còn mang tính chất củamột thị trường sơ khai, từ đó đòi hỏi các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán kỹ lưỡng để tìm cơ hội đầu tư. - Thứ hai, do ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á và đang lan truyền khắp toàn cầu. Nó ảnh hưởng tới tỉ giá hối đoái, giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả không ổn định tâm lý các nhà đầu tư và người tiêu dùng thiếu vốn đầu tư … Là những yếu tố gây cản trở rất lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. -Thứ ba, trong chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của chúng ta có sự định hướng đầu tư nghiêm ngặt hơn theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá, lĩnh vực chúng ta cần đầu tư thì không hấp dẫn và ngược lại. Chúng ta muốn nhà đầu tư nước ngoài tận dụng lợi thế so sánh về các yếu tố sản xuất của Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, chứ không phải để cạnh tranh bất lợi đối với các doanh nghiệp trong nước trên chính thị trường của mình. -Thứ tư, chúng ta định hướng chính sách từ chỗ tiếp nhận "cái họ có" sang chỗ tiếp nhận "cái mình cần", trong khi đó chưa có một hệ thống tốt các định chế yểm trợ đông bộ, bao gồm về chính sách, cơ chế vận hành, môi trường đầu tư dịch vụ hành chính thuận lợi… 5.2 Về cơ chế đầu tư Tuy những tiến bộ đạt được và có sự chuyển biến tích cực so với những năm đầu thực hiện LĐTNN, song qua phân tích kỹ cơ cấu từng ngành, từng vùng ta vẫn thấy chưa hợp lý. Các dự án chủ yếu tập chung vào các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp ráp… Còn các ngành kinh tế then chốt, các vùng kinh tế trọng điểm đặc biết là các ngành quan trọng nhưng lợi nhuận ít, thời gian hoạt động dài, thu hồi vốn chậm…Còn có số dự án và tỉ lệ thấp. Tất cả những vấn đề trên- những khó khan tồn đọng cần phải được sửa đổi, chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc, tốt hơn về sau này. Bên cạnh những vấn đề đó cần phải đề cập tới một số những thuận lợi sau: * Tình hình chính trị ổn định. Đây là một trong những điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng. Việt Nam được coi là một nước rất ổn định về chính trị, dưới con mắt của các nhà đầu tư, ổn định chính trị luôn là vấn đề họ quan tâm xem xét đầu tiên khi quyết định đầu tư vào bất cứ nước nào. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam đối với tât cả các nước trên thế giới ngày càng tốt hơn. * Môi trường pháp lý thuận lợi: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam áp dụng rộng rãi cho các tổ chức cá nhân đầu tư vào Việt Nam, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội ở các nước đó. Nguyên tắc cơ bản là tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam tuân thủ pháp luật của Việt Nam trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Khi tính toán về lợi ích luật đầu tư nước ngoài, ta cho nhà đầu tư những điều kiện tương đối rộng rãi về lợi nhuận cũng như đảm bảo an toàn cho các quyền sở hữu chính đág của họ. * Những nguồn lực và lợi thế của Việt Nam. Đó là vị trí địa lý quan trọng ở Đông á, nằm trên con đường chiến lược từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam hơn nữa Việt Nam lại nằm trên con đường độc nhất lối liền Đông á và Đông Nam á. Trong khí đó tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú (về dầu khí, than, sắt ….) và nhiều loại khoáng sản quý hiếm khác. Đó là những tiềm năng rất lớn phát triển đồng thời cũng là yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. * Tiềm năng lao động. Nguồn lao động Việt Nam rất dồi dào trong đó phần lớn là lao động trẻ. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 36.000.000 nguời đang ở độ tuổi lao động, trong đó có hàng triệu người tốt nghiệp Đại học và trên Đại học, hàng triệu công nhân kỹ thuật. Đặc biệt là lưu lượng lao động của Việt Nam chưa đòi hỏi phải có thu nhập cao, giá trả công nhân lao động ở Việt Nam còn thấp (thấp hơn 5 đến 10 lần so với các nước trong khu vực). Đây là một yếu tố giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận siêu ngạch. Chương Iv Phương hướng và một số kiến nghị để thực hiện việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn tới I. Phương hướng và mục tiêu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới . 1. Phương hướng. Phương hướng chung cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là: - Hướng đầu tư nước ngoài vào những mục tiêu: Tậo ra năng lực sản xuất mới, hoàn thiện đổi mới các cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá nền kinh tế, ưu tiên sử dụng vốn vay ưu đãi nước ngoài để xây dựng hạ tầng kinh tế, trong đó dành một phần số vốn lớn cho các dự án có kả năng thu hồi vốn vay. - Cải thiện môi trường đầu tư bằng mọi hệ thống các chính sách và biện pháp khuyến khích đồng bộ, chánh xu hướng nặng nề về các biện pháp ưu đãi về tài chính. Phải hoàn thiện luật pháp về đầu tư theo hướng bổ xung những quy định cần thiết, chỉnh lý những quy định chưa roc hoặch mâu thuẫn với nhau, khắc phục các hiện tượng phân tán cục bộ trong quản lý nhà nước và đầu tư nước ngoài. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Đối với FDI được cụ thể như sau: 1.1. Thu hút đầu tư theo ngành và vùng kinh tế. Ưu tiên cho các dự án trog lĩnh vực nông nghiệp, trồng rừng xây dựng các vùng nguyên liệu, chế biến lương thực - thực phẩm và các dự án đầu tư vào các tỉnh trung du, miền núi, tây nguyên, Duyên Hải miền tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0196.doc
Tài liệu liên quan