MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 2
1.1. Những khái niệm cơ bản về lý thuyết điều tra chọn mẫu 2
1.2. Đặc điểm của điều tra chọn mẫu 2
1.3. Các loại sai số trong điều tra chọn mẫu 4
1.4. Các phương pháp tổ chức chọn mẫu thường dùng 4
1.4.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản 4
1.4.2. Chọn mẫu máy móc (chọn hệ thống) 5
1.4.3. Chọn mẫu phân loại (phân tổ) 5
1.4.4. Chọn mẫu cả khối (mẫu chùm) 6
1.4.5. Chọn mẫu nhiều cấp 6
CHƯƠNG 2 7
2.1. Những vấn đề cơ bản về chọn mẫu kiểm toán 7
2.1.1. Vị trí của chọn mẫu kiểm toán trong kiểm toán 7
2.1.2. Những khái niệm cơ bản về chọn mẫu kiểm toán 8
2.1.3. Những khái niệm có liên quan đến chọn mẫu kiểm toán 9
2.1.4. Mẫu đại diện, rủi ro chọn mẫu và rủi ro không do chọn mẫu: 9
2.2. Các phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán 11
2.2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên 11
2.2.2. Chọn mẫu phi xác suất 15
2.2.3. Kỹ thuật phân tầng (phân tổ) trong chọn mẫu kiểm toán 17
2.2.4. Chọn mẫu thuộc tính 17
CHƯƠNG 3 23
3.1. Nhận xét về kỹ thuật chọn mẫu và việc áp dụng kỹ thuật chọn mẫu 23
3.1.1. Ưu điểm 23
3.1.2. Hạn chế 23
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện kỹ thuật chọn mẫu trong kiểm toán 25
KẾT LUẬN 26
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9846 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100 số đơn vị trong tổng thể để thu thập bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng riêng biệt của tổng thể. Bằng việc thực hiện các thử nghiệm trên các phần tử được chọn, kiểm toán viên có thể đưa ra kết luận về các số dư hay các nghiệp vụ cấu thành tổng thể."
Tuy mỗi định nghĩa được phát biểu có phần khác nhau nhưng xét về bản chất thì chúng đều nói lên rằng chọn mẫu kiểm toán là một kỹ thuật lấy ra một số các đơn vị mẫu từ tổng thể để áp dụng các thủ tục kiểm toán nhằm dự đoán những đặc trưng của toàn bộ tổng thể.
2.1.3. Những khái niệm có liên quan đến chọn mẫu kiểm toán
Để đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu và hiểu rõ hơn về chọn mẫu kiểm toán, trước hết ta cần nắm được một số thuật ngữ sau:
Tổng thể: Là toàn bộ dữ liệu mà từ đó kiểm toán viên lấy mẫu để có thể đi đến một kết luận.
Ví dụ: Tất cả các phần tử trong một số tài khoản hay một loại nghiệp vụ cấu thành một tổng thể. Một tổng thể có thể được chia thành các nhóm hoặc các tổng thể con và mỗi nhóm được kiểm tra riêng. Trong trường hợp này, thuật ngữ “tổng thể” bao hàm cả thuật ngữ “nhóm”.
Đơn vị tổng thể: Là mỗi phần tử trong tổng thể đó.
Đơn vị mẫu: Là một phần tử được các kiểm toán viên chọn ra khi tiến hành kỹ thuật chọn mẫu.
Mẫu: Là tất cả các đơn vị mẫu được chọn. Mẫu được chọn ra từ tổng thể, áp dụng các thủ tục kiểm toán để đánh giá trên mẫu rồi suy rộng và kết luận cho toàn bộ tổng thể là mẫu kiểm toán. Có 2 loại mẫu kiểm toán như sau:
Mẫu thống kê: Là mẫu chọn được do áp dụng các phương pháp toán học đặc biệt là phương pháp thống kê để tính toán và định lượng các yếu tố rủi ro cũng như phạm vi cần thiết để hạn chế rủi ro một cách hệ thống. Vì vậy, chọn mẫu thống kê cho phép kiểm toán viên tính toán các khả năng rủi ro và xác định kích cỡ mẫu phù hợp để hạn chế rủi ro ở mức cho phép.
Mẫu thống kê mang những đặc điểm cơ bản sau:
Các phần tử trong mẫu được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.
Mẫu thống kê là kết quả của việc sử dụng lý thuyết xác suất thống kê bao gồm cả đánh giá kết quả mẫu và định hướng lượng rủi ro.
Với những đặc điểm trên mà mẫu thống kê được sử dụng trong trường hợp số lượng đơn vị trong tổng thể lớn và thường được hỗ trợ bởi các phần mềm chọn mẫu có chứa các phép toán thống kê.
Mẫu phi thống kê: Là kết quả của quá trình chọn mẫu trong đó hoàn toàn không sử dụng phương pháp toán học mà áp dụng xét đoán của kiểm toán viên. Do đó, các kiểm toán viên không thể định lượng được rủi ro của việc chọn mẫu mà việc đánh giá kết quả hoàn toàn dựa trên phán đoán của kiểm toán viên.
2.1.4. Mẫu đại diện, rủi ro chọn mẫu và rủi ro không do chọn mẫu:
Mẫu đại diện: Là mẫu mang những đặc trưng của tổng thể mà mẫu được chọn ra.
Bất cứ khi nào kiểm toán viên chọn một mẫu từ tổng thể, mục tiêu cũng là để có một mẫu đại diện. Nhưng có một vấn đề đặt ra là trên thực tế các kiểm toán viên lại không thể biết mẫu có tính đại diện hay không, dù sau đó tất cả quá trình khảo sát được hoàn tất. Tuy vậy, kiểm toán viên có thể tăng khả năng đại diện của mẫu bằng cách thận trọng khi thiết kế, lựa chọn và đánh giá nó.
Hai vấn đề có thể khiến cho một mẫu không có tính đại diện là do sai số không chọn mẫu và sai số chọn mẫu. Rủi ro của sự phát sinh này được gọi là rủi ro không chọn mẫu và rủi ro chọn mẫu và cả hai đều có thể kiểm soát được.
Rủi ro chọn mẫu
Bất cứ khi nào chọn mẫu, rủi ro chọn mẫu cũng phát sinh. Rủi ro chọn mẫu là khả năng mà kết luận của kiểm toán viên dựa trên mẫu sai lệch so với kết luận mà kiểm toán viên cũng dùng thử nghiệm tương tự áp dụng đối với toàn bộ tổng thể. Hay nói cách khác thì rủi ro chọn mẫu là sự sai khác giữa kết quả mẫu chọn với kết quả thực tế.
Ví dụ: Khi kiểm tra chọn mẫu các phiếu xuất kho để kiểm tra về thủ tục kiểm soát, cụ thể là các phiếu xuất kho có được đi kèm với các lệnh xuất kho hay không? Sau khi kiểm tra, kiểm toán viên xác nhận rằng có 10% số phiếu xuất kho không có lệnh xuất kho đi kèm nhưng trên thực tế nếu kiểm tra toàn bộ thì có đến 15% số phiếu xuất kho bị thiếu lệnh xuất. Như vậy. sai lệch giữa tỷ lệ thực tế (15%) với tỷ lệ theo kiểm tra chọn mẫu (10%) chính là sai số chọn mẫu (5%).
Rủi ro chọn mẫu sẽ được giảm đi nếu ta tăng kích cỡ của mẫu chọn. Ta cứ tăng dần kích cỡ mẫu chọn để kiểm tra cho tới khi bằng toàn bộ tổng thể thì rủi ro chọn mẫu khi đó sẽ bằng không. Nhưng nếu xét về khía cạnh kinh tế thì khi kích cỡ mẫu tăng lên sẽ kéo theo chi phí cho cuộc kiểm toán cũng tăng lên. Do đó, muốn chọn mẫu kiểm toán một cách hiệu quả thì các kiểm toán viên cần phải cân đối giữa rủi ro chọn mẫu với chi phí do chọn mẫu có kích cỡ lớn.
Rủi ro không do chọn mẫu
Bên cạnh rủi ro chọn mẫu, các kiểm toán viên cũng có thể đưa ra những kết luận sai lầm không phải do lỗi chọn mẫu mà do các yếu tố không liên quan trực tiếp đến việc chọn mẫu. Rủi ro này được gọi là rủi ro không do chọn mẫu. Rủi ro không do chọn mẫu xảy ra khi các khảo sát kiểm toán không phát hiện ra các ngoại lệ có tồn tại trong mẫu; kiểm toán viên có thể sử dụng thủ tục kiểm toán không phù hợp với mục tiêu kiểm toán hoặc sử dụng đúng thủ tục nhưng không phát hiện ra sai phạm trong mẫu đã chọn do thiếu thận trọng.
Có 3 trường hợp chủ yếu dẫn đến rủi ro không do chọn mẫu:
Đánh giá rủi ro tiềm tàng không đúng
Kiểm toán viên có thể đã có những đánh giá sai lầm về rủi ro tiềm tàng trong đối tượng kiểm toán. Có thể kiểm toán viên vì mệt mỏi, chán nản hoặc thiếu hiểu biết về cái phải tìm nên đã cho rằng có ít sai phạm trọng yếu tồn tại trong đối tượng kiểm toán hay không thể nhận biết được các ngoại lệ nên họ có xu hướng giảm quy mô công việc cần thực hiện nên không phát hiện được cái sai.
Đánh giá không dúng về rủi ro kiểm toán
Kiểm toán viên có thể quá lạc quan tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp trong việc ngăn chặn, phát hiện và sửa chữa kịp thời các sai phạm nên họ có thể đã giảm khối lượng công việc cần thiết nên khó lòng phát hiện hết các sai phạm.
Lựa chọn các thủ tục kiểm toán không thích hợp và thực hiện công việc kiểm toán không hợp lý
Tức là các kiểm toán viên có thể chọn các thử nghiệm kiểm toán không phù hợp với mục tiêu kiểm toán hay đã chọn được các thủ tục thích hợp nhưng lại mắc phải những sai sót khi triển khai những thủ tục đó. Ví dụ như một thủ tục kiểm toán hiệu quả của các điều ngoại lệ đang nghi vấn có thể phải kiểm tra một mẫu gồm các chứng từ vận chuyển và xác định xem mỗi chứng từ có đính kèm vào một bản sao hóa đơn vận tải hay không, thay vì kiểm tra một mẫu các bản sao hóa đơn bán hàng.
Tuy nhiên, rủi ro không do chọn mẫu này hoàn toàn có thể kiểm soát được và các kiểm toán viên cũng có thể làm giảm rủi ro loại này tới mức có thể chấp nhận được nếu thiết kế một cách thận trọng các thủ tục kiểm toán, giám sát đúng đắn và có hướng dẫn trong việc chọn mẫu và tiến hành kiểm tra mẫu chọn.
2.2. Các phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán
2.2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên
Chọn mẫu ngẫu nhiên chỉ là môt phương pháp chọn các phần tử vào mẫu với nguyên tắc chọn mẫu là mỗi phân tử trong tổng thể đều có cơ hội như nhau được chọn vào mẫu. Mẫu ngẫu nhiên là mẫu mà trong đó mọi sự kết hợp khả dĩ của các phần tử trong tổng thể đều có cơ hội tạo thành mẫu như nhau. Cách duy nhất mà kiểm toán viên có thể tin rằng có một mẫu ngẫu nhiên đã được thành lập là chấp nhận một phương pháp luận mang tính hệ thống được thiết kế để thực hiện điều này. Trong chọn mẫu ngẫu nhiên, 3 phương pháp được đề cập, đó là: Chọn mẫu dựa vào bảng số ngẫu nhiên, Chọn mẫu theo chương trình máy vi tính và Chọn mẫu hệ thống.
2.2.1.1. Chọn mẫu dựa vào Bảng số ngẫu nhiên
Bảng số ngẫu nhiên là một bảng liệt kê ngẫu nhiên các chữ số độc lập, được sắp xếp một cách thuận lợi dưới dạng bảng biểu để làm dễ dàng cho việc chọn các số ngẫu nhiên có nhiều chữ số. Công dụng đích thực của bảng số ngẫu nhiên là rất quan trọng nhằm đảm bảo cho quá trình chọn lựa một mẫu vô tư.
Khi sử dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn mẫu, có thể có những phần tử xuất hiện nhiều hơn một lần. Nếu kiểm toán vien không chấp nhận lần xuất hiện thứ 2 trở đi thì cách chọn đó được gọi là chọn mẫu không lặp lại (chọn mẫu không thay thế). Ngược lại, chọn mẫu lặp lại (hay chọn mẫu thay thế) là cách chọn mà một số phần tử trong tổng thể có thể được chọn vào mẫu nhiều hơn một lần. Trong phần lớn các trường hợp thì kiểm toán viên thường loại bỏ những phần tử trùng lặp, tức là thường sử dụng chọn mẫu không thay thế bởi độ tin cậy của mẫu chọn trong chọn mẫu thay thế không cao do số lượng phàn tử mẫu thực tế khảo sát giảm đi nên chọn mẫu thay thế ít được sử dụng hơn. Có 4 bước được dùng khi sử dụng bảng này:
Xây dựng một hệ thống đánh số cho tổng thể
Trước khi một tập hợp các số ngẫu nhiên có thể được chọn từ bảng, mỗi phần tử trong tổng thể phải được nhận diện qua một con số riêng. Điều này thường không phải là một vấn đề vì rất nhiều tổng thể mà kiểm toán viên muốn một mẫu ngẫu nhiên gồm các chứng từ được đánh số trước. Khi tài liệu đánh số trước không được sử dụng thì phải triển khai một số hệ thống đánh số. Rất hiếm trường hợp cần đánh số lại toàn bộ tổng thể nhưng thường chỉ cần xây dựng một cách làm đơn giản là đã thỏa mãn mục tiêu này.
Ví dụ: Quá trình chọn mẫu ngẫu nhiên gồm các khoản phải thu của quá trình xác nhận từ một bảng cân đối thử gồm 45 trang và mỗi trang chỉ lấy 70 dòng. Mỗi phần tử là một dòng trên bảng liệt kê với số dư còn hiệu lực. Sự kết hợp của số của trang và các số dòng cung cấp một số nhận diện duy nhất cho từng phần tử trong tổng thể đó.
Xây dựng quan hệ giữa bảng số ngẫu nhiên với tổng thể
Một khi hệ thống đánh số đã được xây dựng cho tổng thể, mối quan hệ được thành lập bằng việc quyết định số các chữ số phải sử dụng trong bảng số ngẫu nhiên và sự liên kết của chúng với hệ thống đánh số tổng thể.Có 3 trường hợp có thể xảy ra:
Trường hợp 1: Các con số định lượng của đối tượng kiểm toán cũng gồm 5 chữ số như các con số ngẫu nhiên trong Bảng số ngẫu nhiên. Khi đó có quan hệ tương quan 1-1 giữa định lượng đối tượng kiểm toán với các số ngẫu nhiên trong bảng tự nó đã được xác lập.
Trường hợp 2: Các con số định lượng của đối tượng kiểm toán gồm số lượng chữ số ít hơn 5 chữ số.
Ví dụ: Kiểm toán viên cần chọn ra một 150 hóa đơn trong tổng số 2000 hóa đơn bán hàng được đánh số từ 0001 đến 2000, như vậy các số này chỉ gồm 4 chữ số.
Trong trường hợp này, kiểm toán viên có thể xây dựng mối quan hệ với Bảng ngẫu nhiên bằng cách lấy 4 chữ số đầu hoặc cuối của số ngẫu nhiên trong bảng. Nếu trường hợp số định lượng còn ít chữ số hơn nữa thì có thể lấy chữ số giữa trong số ngẫu nhiên.
Trường hợp 3: Các số định lượng của đối tượng kiểm toán có số chữ số lớn hơn 5 chữ số. Khi đó đòi hỏi kiểm toán viên phải xác định lấy cột nào trong Bảng làm cột chủ và chọn thêm những hàng số ở các cột phụ của bảng.
Xây dựng một hướng sử dụng bảng
Đây là bước lập hành trình sử dụng Bảng tức là hướng đường đi của các chữ số kiểm toán viên sẽ sử dụng trong một bảng. Hướng đi có thể là dọc (theo cột) hay ngang (theo hàng), có thể là xuôi (từ trên xuống) hay ngược (từ dưới lên). Việc xác định hướng sử dụng này thuộc quyền quyết định của kiểm toán viên nhưng phải được xây dựng từ trước và phải được tuân theo một cách nhất quán trong toàn bộ quá trình chọn mẫu. Đồng thời, lộ trình chọn mẫu này phải được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ kiểm toán để khi một kiểm toán viên khác có kiểm tra lại việc chọn mẫu thì cũng sẽ chọn được mẫu tương tự.
Chọn điểm bắt đầu
Việc chọn ngẫu nhiên điểm bắt đầu trên bảng chỉ cần để loại trừ khả năng có thể đoán trước mẫu. Nếu một nhân viên của công ty khách hàng có một bản sao bảng số ngẫu nhiên được dùng để chọn các số ngẫu nhiên và biết điểm bắt đầu của quá trình lựa chọn mẫu thì người nhân viên đó hoàn toàn có khả năng để xác định được những phần tử mà kiểm toán viên sẽ khảo sát. Chọn một điểm bắt đầu chỉ bằng cách dùng bút chì chấm đại một điểm lên bảng cũng được chấp nhận. Số mà được đánh dấu chính là phần tử đầu tiên được đưa vào mẫu và là chỗ mà từ đó hướng làm được bắt đầu.
2.2.1.2. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo chương trình máy tính
Ngày nay hầu hết các công ty kiểm toán đều thuê mướn hoặc có sự giúp đỡ của các thiết bị máy tính được lập trình sẵn các chương trình để chọn lựa các số ngẫu nhiên. Ưu điểm của phương pháp này so với phương pháp chọn mẫu dựa trên các bảng số ngẫu nhiên là ở chỗ nó tiết kiệm thời gian hơn, làm giảm khả năng sai sót của kiểm toán viên khi lựa chọn các con số và tài liệu chứng minh tự động.
Khi sử dụng máy tính, mỗi phần tử của tổng thể cần phải có một số hiệu riêng và mối quan hệ phải được xây dựng giữa các con số của tổng thể với các con số ngẫu nhiên được tạo thành từ máy. Không nhất thiết phải quan tâm đến các số loại khi xây dựng mối quan hệ này vì máy tính có thể loại trừ các loại số loại.
Đối với một chương trình máy tính điển hình, các kiểm toán viên cần phải đưa vào máy các con số lớn nhất và nhỏ nhất trong chuỗi tổng thể., số lượng các con số ngẫu nhiên mong muốn và trong một số trường hợp cần đưa vào một con số ngẫu nhiên để bắt đầu chương trình. Ngoài ra, kiểm toán viên cũng có quyền lựa chọn hay lấy danh sách các con số ngẫu nhiên trong một lệnh lựa chọn,hay trong một chuỗi các con số tăng dần hoặc cả hai. Khi đó đầu ra của chương trình chọn mẫu qua máy tính là các bảng kê số ngẫu nhiên. Phương pháp này cũng rất hữu ích bởi nó có thể loại bỏ các số không thích hợp, tự động loại bỏ những phần tử bị trùng lặp và tự động phản ánh kết quả vào giấy tờ làm việc.
2.2.1.3. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo hệ thống
Chọn mẫu hệ thống là cách chọn để sao cho chọn được các phần tử trong tổng thể có khoảng cách đều nhau (khoảng cách mẫu). Trong quá trình chọn mẫu có hệ thống, kiểm toán viên tính một khoảng cách rồi sau đó chọn lựa tuần tự các phần tử của mẫu dựa trên độ lớn của khoảng cách đó. Khoảng cách này được xác định bằng cách chia dung lượng của tổng thể đó cho số lượng phần tử mong muốn trong mẫu. Đơn vị mẫu đầu tiên được chọn ngẫu nhiên nên mỗi đơn vị tổng thể ban đầu có cơ hội được chọn ngang nhau. Tuy nhiên, sau khi đơn vị mẫu đầu tiên được chọn, mỗi đơn vị về sau lại không có cơ hội ngang nhau để được chọn vào mẫu .
Ví dụ: Nếu một tổng thể gồm các hóa đơn bán hàng được đánh số từ 221 đến 1604 và dung lượng mẫu mong muốn là 211 thì khoảng cách sẽ là (1604-221)/211= 7. Khi đó kiểm toán viên phải chọn một số ngẫu nhiên giữa 0 và 6 để xác định điểm bắt đầu của mẫu. Giả sử kiểm toán viên chọn số 6 thì phần tử đầu tiên của mẫu là hóa đơn số 227 (=221+6), tiếp theo là hóa đơn số 233 (=227+6)...và cứ thế tiếp tục cho đến phần tử cuối cùng.
Ưu điểm của việc chọn mẫu theo hệ thống là rất đơn giản, dễ làm và dễ sử dụng. Trong hầu hết các tổng thể, mẫu được chọn một cách hệ thống có thể được thực hiện nhanh chóng và cách làm này tự động chọn các con số theo một thứ tự liên tục, do đó việc chứng minh bằng chứng từ được dễ dàng.
Vấn đề chính đặt ra cho việc áp dụng quá trình chọn mẫu hệ thống là khả năng xảy ra sự thiên vị. Ta có thể trong cách mà mẫu được chọn, một khi mà phần tử đầu tiên của mẫu được chọn thì tất cả các phần tử khác sẽ được chọn theo một cách tự động. Điều này sẽ hoàn toàn bình thường nếu những đặc điểm mà chúng ta quan tâm được phân bố ngẫu nhiên trong toàn bộ tổng thể, tuy nhiên trong nhiều trường hợp thì điều này là không xảy ra. Chẳng hạn, ta lấy một ví dụ cụ thể như sau: Giả sử chúng ta đang muốn tìm hiều về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nhưng ta lại tiến hành khảo sát vào những thời điểm nhất định như một ngày nào đó trong tháng với một số loại chứng từ nhất định thì mẫu mà ta đã chọn theo hệ thống đó có nhiều khả năng không mang tính đại diện. Chính vì nhược điểm này mà có một số công ty kiểm toán không áp dụng phương pháp chọn mẫu hệ thống, còn những công ty còn lại thì yêu cầu một sự xem xét kỹ lưỡng cách tổng thể được liệt kê để đánh giá khả năng sai sót có hệ thống. Và cũng chính vì nhược điểm này mà một số tác giả của nhiều cuốn sách về kiểm toán đã cho rằng việc sử dụng cách chọn mẫu có hệ thống là không hợp lý trừ phi hai phương pháp trên không thực hiện được.
Để hạn chế nhược điểm trên, các kiểm toán viên đã sắp xếp tổng thể theo một thứ tự ngẫu nhiên để tăng tính đại diện cho mẫu và đồng thời cũng dùng nhiều điểm xuất phát hơn. Kinh nghiệm của các kiểm toán viên đã chỉ ra rằng khi ứng dụng phương pháp chọn mẫu hệ thống thì cần phải sử dụng ít nhất 5 điểm xuất phát. Khi sử dụng nhiều điểm xuất phát thì khoảng cách mẫu phải được điều chỉnh bằng cách lấy khoảng cách mẫu hiện tại nhân với số điểm xuất phát ngẫu nhiên cần thiết.
2.2.2. Chọn mẫu phi xác suất
Phương pháp chọn mẫu phi xác suất là phương pháp mà trong đó không sử dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá kết quả mẫu hay đánh giá rủi ro lấy mẫu.Với phương pháp này, các phần tử không có cơ hội như nhau để có mặt trong mẫu và phương pháp này chỉ được áp dụng trong chọn mẫu phi thống kê và không dùng được trong chọn mẫu thống kê. Kinh nghiệm thực tế của nhiều kiểm toán viên cho thấy không phải trong bất kỳ trường hợp nào thì sai sót trọng yếu cũng phân tán đều trong tổng thể mà có thể lại tập trung thành nhiều khối thì lúc đó việc áp dụng chọn mẫu xác suất sẽ không phát huy được tác dụng. Vì vậy, bằng khả năng nghề nghiệp và óc xét đoán của mình trong những trường hợp cụ thể, kiểm toán viên sẽ áp dụng chọn mẫu phi thống kê có thể mang lại hiệu quả hơn.
Ba kỹ thuật chọn mẫu không xác suất phổ biến là Phương pháp chọn mẫu theo lô, Chọn mẫu bất kỳ và Chọn mẫu xét đoán.
2.2.2.1. Chọn mẫu theo lô
Chọn mẫu theo lô là việc chọn một tập hợp các đơn vị kế tiếp nhau trong một tổng thể. Một khi phần tử đầu tiên của lô đã được chọn thì phần còn lại của lô sẽ tự động được chọn.
Ví dụ: Chọn một chuỗi liên tiếp gồm 100 nghiệp vụ tiêu thụ từ sổ nhật ký của tuần lễ thứ nhất của tháng 11.
Việc chọn mẫu theo lô đối với các cuộc khảo sát nghiệp vụ chỉ được chấp nhận nếu số lượng lô là hợp lý. Nếu quá ít lô thì khả năng có một mẫu không có tính đại diện rất lớn, có xét đến khả năng những của những việc như sự thay đồi của hệ thống kế toán và bản chất thời vụ của rất nhiều ngành kinh doanh. Số lượng chính xác không được định cụ thể theo nghề nghiệp nhưng con số hợp lý của hầu hết tình huống có lẽ ít nhất là 9 lô lấy từ 9 tháng khác nhau. Đặc biệt là trong việc thực hiện kiểm toán các nghiệp vụ, tài sản hay các khoản mục...thì việc chọn mẫu theo lô chỉ được thực hiện khi kiểm toán viên đã nắm chắc tình hình của đơn vị được kiểm toán. Phương pháp này phù hợp trong điều kiện tình hình doanh nghiệp trong năm ổn định và không có biến động lớn.
2.2.2.2. Chọn mẫu bất kỳ
Khi kiểm toán viên nghiên cứu một tổng thể và chọn lựa các phần tử của mẫu mà không xét đến quy mô, nguồn gốc hay các đặc điểm phân biệt khác của chúng thì kiểm toán viên đang cố gắng chọn lựa một cách vô tư. Sự lựa chọn này được gọi là chọn mẫu bất kỳ. Đây là phương pháp chọn mẫu hoàn toàn vô tư và tất cả các phần tử không kể bản chất, quy mô, thời điểm đều có cơ hội được chọn.
Nhược điểm nghiêm trọng nhất của chọn mẫu bất kỳ là rất khó để hoàn toàn vô tư khi chọn lựa các phần tử mẫu. Đối với các kiểm toán viên, sẽ có một số phần tử nhất định trong một tổng thể có nhiều khả năng hơn để được chọn vào mẫu so với các phần tử khác, chẳng hạn như: đối với một số kiểm toán viên, doanh thu của một số khách hàng nhất định nào đó và các bút toán trên đầu trang ở sổ nhật ký bán hàng có nhiều khả năng để được chọn vào mẫu hơn là doanh thu của các khách hàng không quen thuộc và các bút toán được ghi chép ở giữa trang...và cũng với một số kiểm toán khác thì họ lại chú ý hơn đến các bút toán ở giữa trang hay những bút toán có số tiền lớn. Bởi vậy, để tiến hành được phương pháp này thì các kiểm toán viên phải hoàn toàn khách quan và không để cho thói quen của mình làm ảnh hưởng đến sự khách quan đó.
2.2.2.3. Chọn mẫu xét đoán
Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi có kích cỡ mẫu nhỏ hay có các yếu tố bất thường thì rất nhiều kiểm toán viên tin rằng nên sử dụng óc phán xét nghề nghiệp khi chọn lựa các phần tử của mẫu trong các cuộc khảo sát nghiệp vụ. Để cải thiện khả năng tính đại diện của phương pháp chọn mẫu xét đoán cảu cuộc khảo sát nghiệp vụ, kiểm toán viên phải luôn ghi nhớ những điều sau đây:
Khi chọn phần tử để kiểm tra thì mỗi loại nghiệp vụ chủ yếu trong chu kỳ phải được chọn.
Khi có nhiều người khác nhau có trách nhiệm xử lý các nghiệp vụ trong kỳ kế toán thì phải khảo sát nghiệp vụ người thực hiện bởi nếu có một sự thay đổi về nhân sự trong năm hay các nghiệp vụ ở các vị trí khác nhau lại được quản lý khác nhau thì khả năng mẫu không có tính đại diện là rất cao.
Khi kiểm toán viên khảo sát các sai số trong số tiền thì các phần tử của tổng thể có số dư lớn sẽ được khảo sát kỹ hơn những phần tử có số dư nhỏ. Trong các cuộc khảo sát kiểm soát, kiểm toán viên quan tâm đến tính đầy đủ của các quá trình kiểm soát nhưng đối với những cuộc khảo sát chính thức thì trọng tâm lại là khảo sát các số dư bằng tiền lớn hơn vì chúng thường có khả năng chứa chấp sai số trọng yếu nhiều hơn.
2.2.3. Kỹ thuật phân tầng (phân tổ) trong chọn mẫu kiểm toán
Trong một tổng thể lớn luôn bao gồm rất nhiều các phần tử có sự khác biệt về đặc điểm này và đặc điểm khác. Tổng thể càng lớn, số lượng phần tử càng nhiều thì sự khác biệt giữa các phần tử càng lớn. Do đó, kiểm toán viên phải sử dụng kỹ thuật phân tầng để giảm bớt sự khác biệt nhằm giúp cho quá trình chọn mẫu được chính xác hơn, tức là kiểm toán viên sẽ phân tổng thể thành các tầng trước khi xác định quy mô mẫu cũng như thực hiện chọn mẫu.
Phân tầng (phân tổ) là kỹ thuật phân chia một tổng thể thành nhiều nhóm nhỏ hơn (gọi là tầng hay tổ) mà các đơn vị trong cùng một nhóm có những đặc tính khá tương đồng nhau. Vì vậy, các tổng thể con có tính ổn định và đồng nhất hơn so với tổng thể lớn và khi áp dụng chọn mẫu kiểm toán có thể áp dụng trên các tổng thể con đó để giảm bớt kích cỡ mẫu đồng thời giảm rủi ro chọn mẫu xuống mức có thể chấp nhận được.
Kỹ thuật phân tầng sẽ giúp nâng cao tính đại diện cho mẫu được chọn , làm giảm sự khác biệt trong cùng một tầng (tổ) và giúp kiểm toán viên tập trung vào những bộ phận chứa đựng nhiều khả năng sai phạm làm tăng hiệu quả chọn mẫu vì giảm được quy mô mẫu chọn.
2.2.4. Chọn mẫu thuộc tính
Chọn mẫu thuộc tính là một phương pháp chọn mẫu thống kê được dùng để ước tính tỷ lệ của các phần tử trong một tổng thể có chứa một đặc điểm hoặc một thuộc tính được quan tâm. Tỷ lệ này được gọi là tần số xuất hiện và là tỷ số của các phần tử có chứa thuộc tính đặc thù so với tổng số phần tử trong tổng thể. Tần số xuất hiện thường được biểu diễn bằng số tỷ lệ. Kiểm toán viên thường quan tâm đến sự xuất hiện của các ngoại lệ các tổng thể và xem tần số xuất hiện là tần số lệch lạc hay tần số sai số. Một ngoại lệ trong việc chọn mẫu thuộc tính có thể là cuộc khảo sát sự lệch lạc của quá trình kiểm soát hay sai số về tiền tệ, tùy thuộc vào đó là một cuộc khảo sát kiểm soát hay một cuộc khảo sát chính thức nghiệp vụ.
Chọn mẫu thuộc tính được sử dụng rộng rãi đối với thử nghiệm kiểm soát khi mà kiểm toán viên muốn ước lượng tỷ lệ sai lệch của các hoạt động kiểm soát so với thiết kế nhằm xác định mức đánh giá thích hợp của rủi ro kiểm soát. Thử nghiệm kiểm soát được thiết kế và thực hiện nhằm giúp kiểm toán viên bảo đảm rằng tỷ lệ sai lệch không vượt quá mức độ cho phép. Do vậy kiểm toán viên chỉ quan tam tới tỷ lệ sai lệch trên đối với ước đoán từ mẫu. Trong thử nghiệm kiểm soát, tỷ lệ sai lệch trên được gọi là tỷ lệ sai lệch cho phép. Ngoài ra, chọn mẫu thuộc tính cũng được các kiểm toán viên sử dụng cho các khảo sát chính thức nghiệp vụ, nhất là khi các cuộc khảo sát kiểm soát và khảo sát chính thức nghiệp vụ được thực hiện đồng thời.
Trong thực hiện chọn mẫu thuộc tính cho kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên thường thực hiện theo trình tự 10 bước công việc sau đây:
Xác định mục tiêu của thử nghiệm
Mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát là nhằm thu thập các bằng chứng về sự thiết kế và hoạt động hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Chẳng hạn, trong cuộc khảo sát chu kỳ bán hàng và thu tiền thì mục tiêu chung thường là khảo sát tính hiệu quả của các quá trình kiểm soát nội bộ của doanh số hoặc các khoản thu tiền mặt. Kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để khẳng định mức rủi ro kiểm soát đã được họ đánh giá trong khâu lập kế hoạch. Vì vậy, mục tiêu của lấy mẫu thuộc tính khi áp dụng cho kiểm tra hệ thống kiểm soát là để đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ được quy định, đây là cơ sở mà kiểm toán viên có thể dựa vào để giảm rủi ro kiểm soát xuống dưới mức tối đa nên kiểm toán viên vẫn luôn cố gắng đánh giá tỷ lệ sai lệch tồn tại cho mỗi hoạt động kiểm soát được lựa chọn cho kiểm tra. Như vây, việc chọn mẫu thuộc tính để kiểm tra sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những bằng chứng rằng một hoạt động kiểm soát cụ thể đang hoạt động hữu hiệu và thích đáng nhằm khẳng định mức rủi ro kiểm soát đã được đánh giá sơ bộ trong khâu lập kế hoạch. Lẫy mẫu kiểm tóan cho kiểm tra hệ thống kiểm soát thường được sử dụng trong những trường hợp hoạt động kiểm soát không có các bằng chứng tài liệu.
Xác định các thuộc tính và điều kiện sai lệch
Đối với việc kiểm tra hệ thống kiểm s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27.doc