Phần mở đầu 1
Chương I: Thực trạng TTCK Việt Nam 2
I. Sự ra đời TTCK Việt Nam 2
1. Nguyên nhân và thời gian ra đời 2
2. Các qui định của pháp luật liên quan đến sự ra đời TTCK Việt Nam 3
II. Quá trình tồn tại và phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian qua 5
1. TTCK Việt Nam hơn 3 tháng cuối năm 2000 5
2. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2001 8
3. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2002 17
Chương 2: Cơ hội và những thách đối với TTCKVN 23
I. Những cơ hội đối với TTCK Việt Nam 23
1. Nền kinh tế thị trường đang từng bước đi vào hoàn thiện 23
2. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và mở cửa 24
3. Căn bản xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường 25
4. Giành được sự quan tâm lớn của nhà nước. 25
5. Vấn đề về cải cách 26
6. Chế độ kế toán doanh nghiệp 26
7. Hệ thống thông tin phát triển khá tốt 27
8. Đối tượng tham gia TTCK 27
9. TTCK ra đời sau 27
II. Những thách thức đối với TTCK Việt Nam 28
1. Vấn đề hội nhập và mở cửa 28
2. Vấn đề hàng hoá cho thị trường 28
3. Kinh nghiệm, hiểu biết nhà đầu tư còn nhiều hạn chế 29
4. Nguy cơ đổ vỡ thị trường 30
47 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 987 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý thuyết kinh tế tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế vĩ mô chưa hoàn toàn thuận lợi, trước những thử thách của một thể chế tài chính mới lần đầu tiên xây dựng ở nước ta, nhưng với quyết tâm cao của Đảng và Chính phủ trong chỉ đạo xây dựng và phát triển thị trường, sự phối hợp của các bộ ngành và các địa phương, sự nỗ lực của cơ quan quản lý và vận hành thị trường chứng khoán , cùng các tổ chức trung gian và phụ trợ , các tổ chức niêm yết và công chúng đầu tư, TTCK Việt Nam đã được giữ vững, ổn định và từng bước phát triển. Một điều căn bản là, xã hội Viẹt Nam đã phàn nào làm quen được với sự tồn tại và hoạt động của TTCK.
Mỗi năm qua đi là một năm nhận thức rõ hơn về tổ chức và quản lý, điều hành hoạt động thị trường . Đây là dịp để chúng ta nhìn lại những nét căn bản nhất trong hoạt động của TTCK Việt Nam năm 2002:
3.1. Về hoạt động phát hành và niêm yết chứng khoán
Trong năm 2002, đã có 10 công ty cổ phần được cấp giấy phép phát hành, 1công ty tăng vốn, và đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 11 công ty, nâng tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên TTCK lên 999,633 tỷ đồng.
Cho đến thời điểm kết thúc năm 2002, các công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, và hoạt động kinh doanh của công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi. Thêm vào đó, các công ty niêm yết trên TTCK được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức cao đã rất hấp dẫn người đầu tư.
Thời gian đầu khi thị trường mới đi vào hoạt động, các công ty niêm yết đều đã cố gắng để đáp ứng các qui định do Uỷ ban Chứng khoánnhà nước đề ra.Tuy nhiên, do chưa có thói quen trong nôi trường hoạt động của thị trường chứng khoán, nên đa số các công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin; hầu hết các công ty niêm yết chỉ chú trọng vào thông tin định kì và thong tin phải cung cấp theo yêu cầu,chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan đến hoạt động của công ty.
Trong năm 2002, về thị trường trái phiếu, đã thực hiện thành công 23 đợt đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ đạt tổng giá trị 1.362 tỷ đồng . Đến nay đã có 41 loại trái phiếu niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó 39 loại trái phiếu chính phủ và 2 trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên TTCK đạt 4.276,338 tỷ đồng.
3.2. Về hoạt động của các công ty chứng khoán
Đến nay đã có 9 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường, trong đó có 3 công ty cổ phần và 6 công ty TNHH.Trong năm 2002 đã có 1 công ty cổ phần chứng khoán xin tăng vốn điều lệ.
Tính đến ngày 31/12/2002, số tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng được mở tại các công ty chứng khoán là trên 13.000, trong đó có tài khoản của 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đang triển khai mở rộng phạm vi hoạt động, mở chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh, thành phố là Hà Nội , Tp. Hồ Chí Minh ,Đồng Nai , Hải phòng, Đà Nẵng , Bình Dương, Long An.
Trong năm 2002 kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán đều có chiều hướng tốt, các chỉ tiêu báo cáo tài chính cho thấy các công ty chứng khoán có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đẩm bảo. Mặc dù năm 2002, các công ty chứng khoán có sự giảm sút về lợi nhuận, nhưng so với cùng kỳ năm trước tình hình sử dụng vốn của các công ty được cải thiện.Tài sản dưới dạng tiền giảm, tỷ lệ tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng lên. Kả năng thanh toán của các côngty được đảm bảo.
Hiện nay,cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể.Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các công ty chứng khoán, và tiếp đến là các nghiệp vụ như tự doanh, môi giới, thì đến hết năm 2002, doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể.
3.3. Hoạt động giao dịch chứng khoán
Tính đến ngày 31/12/2002, TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh đã thực hiện 236 phiên giao dịch, với tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là 35,645 triệu cổ phiếu và 1,321 triệu trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 1.082,55 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 88,5%. Bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong một phiên đạt 4,587 tỷ đồng. Hiện nay, đã có 20 loại cổ phiếu và 41 loại trái phiếu niêm yết giao dịch.
Việc lưu ký chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch chứng khoán tại thị trường giao dịch CK. Các thành viên lưu ký đều tuân thủ các qui định về lưu ký chứng khoán của UBCKNN và TTGDCK. Hiện nay, hoạt động của các thành viên lưu ký nước ngoài chưa đáng kể do người nước ngoài đầu tư còn ít vào TTCK Việt Nam.
Trong thời gian đầu, TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh chỉ giao dịch 3 phiên/một tuần ; từ 1/3/2002 nâng lên 5 phiên/ một tuần, đồng thời nghiên cứu cải tiến qui trình thanh toán, giảm thời gian thanh toán từ 4 xuống còn 3 ngày theo thông lệ quốc tế.
Biên độ giao động giá chứng khoán là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ổn định thị trường và bảo vệ các nhà đầu tư trong thời kỳ đầu hoạt động của thị trường chứng khoán, và điều đó được thể hiện qua việc điều chỉnh biên độ theo tình hình thực tế thị trường. Thời gian đầu, TTGDCK áp dụng biên độ giao động giá +- 2%, sau đó tăng lên +-7% và 3%, dự kiến năm 2003 sẽ áp dụng biên độ giao động giá là 5%.
3.4. Hoạt động giao dịch chứng khoán
Với đặc điểm thị trường qui mô nhỏ, hàng hoá còn ít, sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của đa số công chúng còn hạn chế, yếu tố tâm lý chi phối thị trường rất mạnh, vì vậy ngay sau khi bước vào năm 2002, để đảm bảo hoạt động ổn định và phát triển của thị trường , củng cố lòng tin của công chúng đầu tư , cơ quan quản lý và vận hành thị trường chứng khoán đã thực hiện một số biện pháp sau :
+ Tăng cường công tác quản lý giám sát, đảm bảo cho thị trường hoạt động công khai minh bạch,bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Thông qua hoạt động giám sát đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của các công ty chứng khoán, công ty niêm yết và của các nhà đầu tư.
+ Qua thực tế hoạt động của thị trường, đã rà soát được và lấy ý kiến của các đơn vị liên quan như TTGDCK, công ty chứng khoán,công ty niêm yết và điều chỉnh , bổ sung các qui chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn hoạt động của thị trường.
+Đã bước đầu kịp thời xem xét, nghiên cứu, đề xuất và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cùng giải quyết các vấn đề vướng mắc như kiến nghị về chính sách thuế,phí, phương thức phát hành trái phiếu, quản lý ngoại hối đối với nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán như mở các lớp học miễn phí cho các đối tượng làm công tác tuyên truyền về hoạt động CK và TTCK.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của UBCKNN được tập trung chủ yếu vào vấn đề tuân thủ các qui định pháp luật của các tổ chức tham gia thị trường. Qua thanh tra , kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót của công ty niêm yết (chưa thực hiện đầy đủ cam kết trong bản cáo bạch; chưa thực hiện tốt việc công bố thông tin theo qui định của UBCKNN); công ty chứng khoán ( một số nhân viên kinh doanh chứng khoán chư có đủ giấy phép hành nghề; chưa thực hiện việc niêm yết giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán và tên nhân viên đại diện sàn ; thực hiện chế độ báo cáo chậm và không đầy đủ nội dung theo qui định ) và yêu cầu TTGDCK cần tăng cường giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán, kịp thời phát hiện những hành vi giao dịch không công bằng để có biện pháp xử lý thích hợp.
3.5. Đánh giá chung về hoạt động của TTCK năm 2002
Đến nay, về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn về hoạt động và quản lý thị trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho sự vận hành ban đầu của thị trường, cụ thể là đã tổ chức và vận hành dược một TTGDCK tập trung bán tự động với hơn 300 phiên giao dịch suôn sẻ. Hệ thống giao dịch của TTGDCK ban đầu cho phép đấu lệnh 300.000 lệnh/phiên với thời hạn thanh toán giao dịch (T+4), đến nay đã được nâng cấp với nhiều chức năng sử dụng hỗ trợ cho quản lý giao dịch, và hiện nay đã thực hiện giảm thời gian thanh toán xuống 3 ngày (T+3).
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như TTGDCK, công ty niêm yết , công ty chứng khoán , các nhà quản lý ,các nhà đầu tư đã trải qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực, hiệu quả .Thông qua hoạt động của thị trường, các công ty niêm yết chứng khoán, các công ty chứng khoán tận dụng được những lợi thế mà thị trường đem lại.Các công ty đã cải tiến phương thức hoạt động , công khai hoá thông tin , nâng cao vai trò quản trị công ty , nhờ vậy mà vị thế và uy tín của công ty được nâng lên.
So với thời gian đầu khá khiêm tốn, đến nay trên thị trường đã có 20 công ty niêm yết và 9 công ty chứng khoán. Số lượng nhà đàu tư, khối lượng giao dịch và tổng trị giá thị trường được tăng lên dần. Điều đáng chú ý là có một số công ty niêm yết đã hoặc đang có đề án phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua TTCK. Đặc biệt, hoạt động của thị trường chứng khoán đã góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Công tác đào tạo và tuyên truyền luôn được chú trọng và đóng góp đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng.
Những số liệu cụ thể dưới đây sẽ phần nào phản ánh thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam cuối năm 2002 và đầu năm 2003:
Tổng khối lượng và giá trị giao dịch toàn thị trường năm 2002
Mã CK; Hình thức GD; đối tượng
Tổng KLGD
Tỷ lệ
Tổng GTGD
Tỷ lệ
Mã CK
Cổ phiếu
35.706.139
96,77%
960.120.953.000
89,60%
Trái phiếu
1.192.710
3,23%
111.402.541.220
10,40%
Hình thức GD
Khớp lệnh
29.678.890
80,43%
787.855.323.000
73,53%
Thoả thuận
7.219.959
19,57%
283.668.171.220
26,47%
Đối tượng
Trong nước
31.991.840
86,70%
928.513.257.220
86,65%
Ngoài nước
4.907.009
13,30%
143.010.237.000
13,35%
Tổng cộng
36.898.849
100%
1.071.523.494.220
100%
Bảng CKVN Số 1 – tháng 1 năm 2003
Chương 2: Cơ hội và những thách đối với TTCKVN
I. Những cơ hội đối với TTCK Việt Nam
1. Nền kinh tế thị trường đang từng bước đi vào hoàn thiện
1.1. Sự tăng trưởng mạnh về kinh tế trong những năm gần đây
Nền kinh tế nước ta đang phát triển với tốc độ cao. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân hơn 6-7%/ năm. Trong nhiều năm qua và của 6 tháng đầu năm 2000 là 6,2% (cùng kỳ năm 1999 là 4,3%). Tốc độ tăng trưởng công nghiệp tăng 14,3% cao hơn so với cùng kỳ năm 1999. Ngoại thương phát triển khá mạnh với kim nghạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 1999. Bên cạnh đó là sự ra đời của trên 5000 doanh nghiệp với vốn đầu tư dăng kí trên 4.000 tỷ đồng, là dấu hiệu chuyển động của nền kinh tế được các nhà tài trợ đánh giá cao. Những con số trên còn tăng lên đáng kể trong năm 2001, 2002 và còn tiếp tục tăng lên trong năm 2003 và những năm sau đó, hiện tại tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã đứng thứ 2 Châu á sau Trung Quốc (dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP ăm 2003 khoảng từ 7- 7,5%). Đây là những tiền đề quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, tạo ra sức hút mạnh mẽ của TTCK. Cộng vào đó, thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện và gia tăng rõ rệt. Uy tín của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người chỉ huy mọi thắng lợi ngày càng được củng cố, nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước càng vững tin hơn.
1.2. Môi trường kinh tế thuận lợi
Xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp tiến lên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và đang từng bước đi vào hoàn thiện thì việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam là việc rất lên làm. Vốn dĩ TTCK là sản phẩm tất yếu, không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trước khi ra đời TTCKVN đã được chuẩn bị chu đáo để phù hợp với những điều kiện cụ thể ở Việt Nam, làm sao để TTCK trở thành một thể chế tài chính vững mạnh trong việc hỗ trợ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước.
2. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và mở cửa
Trong quá trình hội nhập và mở cửa các doanh nghiệp Việt Nam lại có thêm rất nhiều những cơ hội lớn, tạo điều kiện phát triển cho TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. Một trong những cơ hội đó là:
+ Hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi thuế từ các quốc gia khác, và cùng với việc mở rộng thị trường ra bên ngoài, quá trình hội nhập cũng làm cho thị trường trong nước có nhiều thay đổi tạo nhu cầu mới rất to lớn. Chính điều này sẽ giúp cho TTCK có thể vươn xa hơn chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, cũng đồng nghĩa với việc qui mô của TTCK ngày càng được mở rộng với số lượng nhà đầu tư lớn và phong phú.
+ Tranh thủ được nguồn lực bên ngoài:
Đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam đã có những bước đột phá trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối tháng 12 năm 2002, tổng số cổ phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua, bán trên thị trường dạt trên 4,5 triệu cổ phiếu, trong đó gần 3,7 triệu cổ phiếu được mua với tổng giá trị trên 106 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 10% tổng khối lượng giao dịch của toàn thị trường.
Xét về điều kiện khách quan, sự ảm đạm của nhiều thị trường tài chính lớn trên thế giới như Nhật, Mỹ, châu Âu khiến một lượng vốn lớn bị rút ra khỏi thị trường này, theo các chuyên gia thì đây sẽ là cơ hội cho những thị trường “mới nổi”, trong đó có TTCK Việt Nam .
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, hiện có một lượng tiền lớn của Việt kiều đang chuyển về cho thân nhân của họ ở Việt Nam để đầu tư chứng khoán.
3. Căn bản xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
Sự đồng bộ của thể chế kinh tế thị trường thể hiện rõ ở việc chúng ta phải xây dựng được một TTCK phát triển theo đúng nghĩa của nó. Chính vì vậy mà ngay từ khi mới ra đời, TTCK đã dược tạo một môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định trong hoạt động của mình.Đồng thời với sự giám sát quản lý chặt chẽ của nhà nước mà thị trường chứng khoán Việt Nam có thể đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư nhưng vẫn không làm mất đi tính khách quan của nó.
4. Giành được sự quan tâm lớn của nhà nước.
TTCK hiện là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam nên đựơc sự quan tâm rất lớn của nhà nước và công chúng đầu tư trong việc:
+ Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống giao dịch bán tự động khá hoàn chỉnh và hiện đại đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Tại đây nhà đầu tư có thể nhận được thông tin hoàn hảo, đầy đủ để có thể mua bán chứng khoán một cách hiệu quả đáp ứng nhu cầu đầu tư của mình.
+ Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cho TTCK : về cơ bản hệ thống hệ thống văn bản pháp qui đó là tương đối hoàn chỉnh, thích hợp với đời sống kinh tế đất nước, thể hiện đúng đắn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển thị trường và đã đảm bảo cho quá trình giao dịch, vận hành và quản lý TTCK thông suốt, an toàn công bằng, công khai và có hiệu quả. Nổi bật nhất là chính phủ đã ký quyết định số 75/CP ngày 28.11.1996 về việc thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước và ban hành nghị định 48/1998NĐ-CP ngày 11.7.1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đây là hạt nhân và cơ sở pháp lý cơ bản, quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển TTCK ở nước ta. Lần đầu tiên trong đời sống kinh tế- xã hội đất nước, chúng ta xây dựng và phát triển TTCK trong khi chưa có mô hình định sẵn, chưa có thực tiễn. Vì thế, chúng ta phải tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện, và do đó chưa đủ điều kiện để xây dựng thành Luật Chứng khoán và TTCK, mà phải thực hiện việc điều chỉnh và quản lý TTCK bằng văn bản pháp qui: Nghị định, Thông tư từng bước sẽ hoàn chỉnh trên cơ sở thực tiễn đất nước và sẽ nâng thành pháp luật.
+ Tương lai không xa sẽ xây dựng TTCK bảng II tại Hà Nội nhằm phân bổ đồng đều qui mô TTCK trên cả nước, góp phần hoàn thiện TTCK, biến nó trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế.
+Sự quan tâm của công chúng đến loại hình đầu tư chứng khoán ngày càng đông đảo (hơn 5410 tài khoản kinh doanh chứng khoán, trong đó có 6 tài khoản nước ngoài) thể hiện trong hầu hết các phiên giao dịch, người mua và khối lượng chứng khoán đặt mua cao hơn nhiều lần người bán và khối lượng chứng khoán đặt bán, là dấu hiệu tốt về một hình thức đầu tư mới - đầu tư tài chính- có khả năng thu hút vốn đầu tư chứng khoán, hứa hẹn khả năng phát triển thị trường chứng khoán trong tương lai ( có nước đã thất bại trong thời kỳ thành lập TTCK là công chúng không hưởng ứng, ít người mua). Văn hoá chứng khoán và những hiểu biết về đầu tư chứng khoán của công chúng được nâng cao thêm, tạo cơ sở vững chắc cho TTCK sau này.
5. Vấn đề về cải cách
Quá trình cải cách thời gian qua đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, cơ quan bảo hiểm, các định chế tài chính khác. Từ đây đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các định chế tài chính, làm cho hiệu quả kinh doanh trong khu vực này ngày càng cao, lãi suất cho vay ngày một giảm. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng trong sự phát triển thị trường tài chính nói chung và tiền đề quan trọng để tiến hành và phát triển TTCK nói riêng.
6. Chế độ kế toán doanh nghiệp
Chế độ này mới được sửa đổi, ban hành thực hiện gần gũi hơn vớu chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán kể cả kiểm toán nhà nước và phi nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng chính là một trong những mắt xích và đầu mối quan trọng không thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở nước ta.
7. Hệ thống thông tin phát triển khá tốt
Chiến lược tăng tốc của ngành bưu điện đang thu được những kết quả khá lạc quan và là điệu kiện hỗ trợ rất tốt để hình thành và phát triển TTCK. Hệ thống tin học của Việt Nam cũng phát triển rất nhanh, theo nhiều chuyên môn thì hệ thống này đã có đầy đủ khả năng để xâm nhập ngay vào TTCK và có thể đốt cháy giai đoạn – bỏ qua giao dịch thủ công, tiến thẳng lên điện tử hoá.
8. Đối tượng tham gia TTCK
Nhiều chuyên gia cho rằng dân Việt Nam rất chịu chơi, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, rủi ro, nhìn vào thị trường vé số và làn sóng chơi đề thì thấy rõ. Dân ta vốn có đức tính cần cù, chịu khó thông minh, nhanh nhạy ham học hỏi và tiết kiệm, nhiều người có ý chí làm giàu. Thói quen và nếp nghĩ về việc sử dụng vốn tích luỹ của mình cũng có nhiều thay đổi theo sự phát triển của kinh tế thị trường. Nếu có sự quan tâm đúng mức, khuyến khích thích hợp và có kế hoạch đào tạo cụ thể thì chỉ trong một thời gian tương đối ngắn chúng ta có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ tương đối tốt, có đủ khả năng để hoạt động hữu hiệu lĩnh vực chứng khoán ngang tàmm với các nước khác trên toàn thế giới và đạt chuẩn mực quốc tế ngay từ bước đầu bắt tay vào vận hành TTCK.
9. TTCK ra đời sau
Nước ta là nước phát triển sau nên có thể tận hưởng các kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những thành quả rất đáng phấn khởi. Cộng vào đó là sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế hết sức nhiệt tình và có hiệu quả. Yếu tố này tác động tốt tới việc ra đời và phát triển TTCK ở nước ta.
II. Những thách thức đối với TTCK Việt Nam
1. Vấn đề hội nhập và mở cửa
Thứ nhất, Việt Nam còn là một nước nghèo vấn đề hội nhập còn gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do nền kinh tế vẫn chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng tốt và đầy đủ các yêu cầu do vấn đề hội nhập đặt ra.
Thứ hai, quá trình cắt giảm thuế suất hàng nhập khẩu xuống từ 0- 5% theo lịch trình của chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) mà chính phủ Việt Nam đã cam kết với các nước ASEAN nhằm thiết lập khu vực mậu dịch chung ASEAN (AFTA) từ nay đến năm 2006; thực hiện các cam kết của hiệp định thương mại Việt- Mỹ; chuẩn bị các điều kiện tham gia WTO.Điều đó có nghĩa là sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với các hàng hoá của các nước khác, và cũng đồng nghĩa với việc phải đầu tư đổi mới công nghệ, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, duy trì mở rộng thị trường, hay có thể nói ngắn gọn hơn là nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường- điểm được coi là yếu nhất của ác doanh nghiệp Việt Nam. Những thách thức đối với doanh nghiệp cũng chính là thách thức lớn nhất đối với TTCK Việt Nam.
Thứ ba, quy mô thị trường còn nhỏ, tính ổn định kém luật lệ chưa đầy đủ là các cản trở khiến nhà đầu tư nước ngoài, vốn là những người thiếu thông tin về thị trường Việt Nam, ngại rót tiền vào đầu tư. Hơn nữa trong cuộc đua thu hút vốn ,TTCK Việt Nam sẽ gặp phải sự cạnh tranh của những thị trường đã phát triển trong khu vực như các TTCK ở Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore
2. Vấn đề hàng hoá cho thị trường
Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó. Song hàng hoá của TTCK Việt Nam còn rất nghèo nàn cả về số lượng và chủng loại, chứng khoán phổ biến là ký danh có tính thanh toán kém. Đã có không ít các chuyên gia quốc tế cho rằng trong thời kỳ đầu của TTCK, vấn đề cơ bản là phải đưa được càng nhiều hàng hoá ra thị trường càng tốt, yếu tố chất lượng có thể không nhất thiết được quan tâm nhiều và đây thuộc trách nhiệm của từng nhà đầu tư khi đưa ra quyết định mua hay bán chứng khoán. Về một khía cạnh nào đó, quan điểm này không phải hoàn toàn không chính xác. Tuy nhiên, điều này lại không phù hợp với định hướng xây dựng một TTCK an toàn của đảng và nhà nước.Bởi vì, nếu tính đến cả yếu tố chất lượng khi đưa hàng hoá ra thị trường, so sánh với nhu cầu huy động vốn của 6000 doanh nghiệp nhà nước, gần 900 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hơn 40000 doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, hàng nghìn doanh nghiệp có vốn đang hoạt động và nhu cầu huy động vốn của nhà nước cho cân đối thu chi và đầu tư phát triển, thì lượng hàng hoá hiện tại trên thị trường vẫn còn rất nhỏ so với tiềm năng.
3. Kinh nghiệm, hiểu biết nhà đầu tư còn nhiều hạn chế
Việc khai trương TTCK đầu tiên trong một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi hàm nghĩa tình trạng non yếu của chính thể chế kinh tế này trong giai đoạn khởi đầu của nó. Sự non yếu trước hết thể hiện ở sự non kém trình độ của các cán bộ tác nghiệp và quản lý thị trường, ở tính chưa hoàn thiện của cấu trúc bộ máy, của cơ chế vận hành và của khung pháp lý bảo đảm sự hoạt động lành mạnh và an toàn của TTGDCK. Ngắn hạn và trực tiếp hơn, điểm yếu này bộc lộ rõ nhất sự thiếu kinh nghiệm tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch trên thị trường.Là một thị trường có độ nhạy cảm cao và tốc độ phản ứng rất nhanh, lại chứa khả năng bị tác động mạnh bởi hoạt động đầu cơ, lại vận động trong một môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động, tình trạng thiếu kinh nghiệm là một điểm yếu cốt tử của TTGDCK khi vận hành trong giai đoạn đầu.
Ngoài ra, TTCKVN có những nét khác biệt so với TTCK các nước trên thế giới, lại thiếu đội ngũ cán bộ giảng dạy về lĩnh vực này. Cho nên để có thể hiểu được hết các vấn đề về TTCK là điều hết sức khó khăn đồng thời việc đưa hàng hoá ồ ạt vào thị trường mà không quan tâm đến chất lượngsẽ rất dễ gây ra những ảnh hưởng trái với mong đợi, và TTCK có thể sẽ đi chệch mục tiêu dự kiến là trở thành một định chế, trong đó quyền lợi của các nhà đầu tư được bảo đảm một cách tốt nhất.
4. Nguy cơ đổ vỡ thị trường
Do mới tiếp cận với TTCK, nên các chuẩn mực về báo cáo và công khai thông tin chưa được thực hiện tốt; nhà đầu tư thiếu thông tin, nên mua bán chứng khoán nhiều lúc theo trào lưu tạo ra những cơn sốt giá cổ phiếu bất thường gây nguy cơ tiềm ẩn sụt gía lớn dẫn đến đổ vỡ thị trường. Ngoài một số công ty mạnh dạn niêm yết cổ phiếu, các công ty khác còn ngần ngại về công bố thông tin và chế độ kiểm toán, lo sợ lộ bí mật cạnh tranh với các đối thủ cùng ngành nghề, và có những bỡ ngỡ trong bước đầu hoạt động, vì vậy còn chần chừ, do dự hoặc không muốn tham gia vào TTCK, mà chờ các đối thủ khác đi tiên phong để nghe ngóng, theo dõi, từ đó làm hạn chế khả năng cung cấp hàng hoá chứng khoán trên thị trường.
5. Vấn đề về chủ thể trên TTCK
Các chủ thể tham gia TTCK, nhất là TTGDCK, các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, về cơ bản, đã quản lý và nắm bắt kịp thời các thông tin của các chứng khoán niêm yết, thông tin thị trường, thực hiện đầy đủ các quy chế, quy tắc, quy trình niêm yết chứng khoán, giao dịch,và kinh doanh chứng khoán, lưu ký và thanh toán chứng khoán, công bố thông tin, giám sát và thanh tra thị trường, do đó đã tạo ra sự thành công của mô hình và thiết chế TTCK trong thời gian thử nghiệm, một cơ sở quan trọng tạo đà cho giai đoạn phát triển mới trong thời gian tiếp theo. Tuy nhiên, phải nhận thức đúng đắn rằng: cái mới không thể hoàn chỉnh ngay,và khiếm khuyết là không thể tránh khỏi. Điều quan trọng là phải đánh giá đúng và nghiêm túc khắc phục giải quyết. Đến nay, TTCK mới chỉ là nơi giao dịch, chuyển sở hữu vốn từ người này sang người khác- tức là chu chuyển vốn trên thị trường- tạo tính thanh quản của chứng khoán; chưa phải là nơi mà các công ty niêm yết thu hút vốn để trực tiếp mở rộng đầu tư sản xuất- kinh doanh thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV161.doc