Đề tài Miền Nam Việt Nam anh dũng kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)

Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 – 24/3/1975), mật danh Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công mùa xuân năm 1975 do quân đội Nhân dân Việt Nam phát động tấn công. Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với chiến trường miền Nam, nhưng do địch nhận định sai về hướng tiến quân của ta nên đã tập trung lực lượng cho việc bảo vệ Sài Gòn và Huế -Đà Nẵng; ở Tây Nguyên, chúng chỉ chốt giữ bằng một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở.

doc18 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4401 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Miền Nam Việt Nam anh dũng kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng là thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến tranh Việt Nam trong thế kỷ XX, là một trong những tranh chói lọi trong lịch sử của nhân dân cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thời đại ngày nay. Các chiến lược chiến tranh “chống nổi dậy” với những âm mưu vô cùng thâm độc, hiểm ác mà chỉ có Mỹ mới nghĩ ra, kết hợp cùng những phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất, hiện đại nhất, vũ khí có khả năng hủy diệt nhất nhằm đè bẹp các lực lượng cách mạng ở Việt Nam. Nhưng với một quyết tâm sắt đá và khí thế cách mạng nóng bỏng: “ Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định  không chịu mất nước, nhất không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Để giành được thắng lợi, cả dân tộc ta đã phải trải qua những thử thách, gian truân có những lúc tưởng như khó vượt nổi, chịu những hy sinh, tổn thất lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc kháng chiến thần thánh đến toàn thắng. Đặc biệt là quân dân Miền Nam đã đem hết tinh thần và xương máu chiến đấu, hi sinh cao cả cho đến ngày giành chiến thắng. Đó là lí do chúng tôi chọn ’’Miền Nam Việt Nam anh dũng kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)’’ làm đề tài cho bài tiểu luận này. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu quá khứ hào hùng của dân tộc, ôn lại truyền thống đấu tranh giữ nước của ông cha ta, làm nổi bật được tầm quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập dân tộc và hơn thế nữa là sự hi sinh anh dũng và khát khao giành độc của quân dân Miền Nam trong đấu tranh chống Mỹ cứu nước. 3. Nội dung nghiên cứu Trong đề tài này chúng tôi sẽ chia làm 3 chương và nghiên cứu cụ thể về các vấn đề sau: Chương 1: Bối cảnh lịch sử 1. Tình hình Việt Nam sau tháng 7- 1954 1.1.Ở Miền Bắc 1.2.Ở Miền Nam 1.3.Nhiệm vụ cách mạng đặt ra cho hai miền Chương 2: Công cuộc đấu tranh chống mỹ của nhân dân Miền Nam 1. Đấu tranh chống Mỹ ở Miền Nam (1954 - 1960) 1.1 . Đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm (1954 – 1959). 1.1.1 Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ- Diệm sau hiệp định Giơ-ne vơ. 1.1.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Miền Nam trong những năm 1954 – 1956 1.2. Phong trào Đồng Khởi ( 1959 – 1960) 2. Giai đoạn 1961 – 1972 2.1. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mĩ ở miền Nam 2.1.1. Âm mưu chiến lược mới của Mĩ – “chiến tranh đặc biệt” 2.1.2. Mĩ – Ngụy triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” 2.2. Quân dân miền Nam chiến đấu chống “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965) 2.2.1. Hoàn chỉnh về tổ chức lãnh đạo cách mạng 2.2.2. Đánh bại kế hoạch Stalây – Taylor 1961 – 1963 2.2.3. Đánh bại kế hoạch Giôn xơn – Mác-na-ma-ra (1964 – 1965) 2.2 Quân dân miền nam chiến đấu chống lại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965 - 1968) 2.2.1. Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc 2.2.2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn 2.2.2.1. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ 2.2.2.2. Tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội 2.2.2.3. Chi viện cho miền Nam 2.3. Quân dân miền nam chiến đấu chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ (1969 - 1973) 2.3.1. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mĩ 2.3.2. Miền Nam chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ 2.3.2.1. Trên mặt trận chính trị - ngoại giao 2.3.2.2. Trên mặt trận quân sự 3. Giai đoạn 1973 – 1975. 3.1. Hiệp định Pari và âm mưu của Mĩ.  3.2. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 3.2.1. Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam 3.2.2. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 3.2.2.1. Chiến dịch Tây Nguyên 3.2.2.2. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng 3.2.2.3. Chiến dịch Hồ Chí Minh 3.2.3. Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ Chương 3: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử, kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1. Nguyên nhân thắng lợi. 2. Những kinh nghiệm lịch sử 3. Ý nghĩa lịch sử 4. Kết quả nghiên cứu Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra trang sử hào hùng của dân tộc, là cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc và đế quốc, đồng thời cũng là cuộc đọ sức giữa hai hệ thống xã hội đối lập nhau, cuộc chiến giữa các lực lượng hòa bình, dân chủ chống các thế lực đế quốc hiếu chiến, phản động. Là kết quả của hàng chục năm chiến đấu kiên cường của nhân dân hai miền Nam - Bắc, sự hi sinh cao cả của những anh hùng liệt sĩ đã xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. 5. Kết luận và đề xuất Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thắng lợi đó là của tinh thần, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được kết tinh trong đường lối chiến tranh nhân dân sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của hàng chục năm chiến đấu kiên cường của nhân dân hai miền Nam - Bắc, những thắng lợi ấy mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người. Vì vậy, tuổi trẻ ngày nay đặc biệt là sinh viên chúng ta cần phải học và hiểu lịch sử đầy vẻ vang của dân tộc, chung tay góp sức xây dựng xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn để không phụ lòng các chiến sĩ xưa hi sinh mình để bảo vệ độc lập cho Tổ quốc. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ Tình hình trong nước Miền bắc Năm 1972, sau khi thực hiện hàng loạt các cuộc chiến tranh xâm lược tại miền nam không thành công, Mỹ tiến hành mở rộng đánh phá ra miền bắc với mục đích cắt đứt nguồn chi viện của miền bắc cho miền nam, đồng thời ngăn chặn sự giúp đỡ của các nước bên ngoài cho cuộc đấu tranh của nhân dân hai miền. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần này, Mỹ đã huy động một lực lượng không quân hùng mạnh cho ném bom liên tục xuống các vị trí quan trọng của miền bắc. Phía ta bị thiệt hại rất nặng nề về người và của nhưng cuối cùng Mỹ vẫn thất bại. Quân và dân miền bắc đã bắn trả ngày đêm các đợt tấn công của chúng. Đến ngày 15/1/1973, chính phủ Mỹ phải tuyên bố chấm dứt mọi hoạt động bắn phá miền bắc. Ngày 27/2, Mỹ phải kí hiệp định Paris về Việt Nam. Miền bắc lại tiếp tục thực hiện công cuộc xây dựng đất nước mới và hoàn thành nhiệm vụ hậu phương vững mạnh cho miền nam chiến đấu. Miền nam Trải qua khoảng thời gian vây chống trả vất vả, gian nan với các đợt tấn công của Mỹ - Diệm, miền nam ngày càng trưởng thành về cách đánh và đường lối kháng chiến. Ý chí và lòng yêu nước trong mỗi con người đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giành chiến thắng mọi âm mưu của Mỹ. Với việc ký kết Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phải chấp nhận những thất bại hết sức nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với miền Nam nước ta. Ngay từ khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Mỹ - ngụy đã liên tiếp vi phạm, phá hoại trắng trợn các điều khoản chủ yếu của bản Hiệp định. Chúng đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên qui mô lớn bằng các kế hoạch cực kỳ tàn bạo. Tình hình thế giới Những năm trước 1975, thế giới có khá nhiều biến động. Nhiều quốc gia tuyên bố độc lập, đảo chính diễn ra ở một số nơi, nền chính trị các nước có sự thay đổi nội bộ như Harold Wilson làm thủ tướng Anh, Jacques Chirac làm thủ tướng Pháp… Ở Mỹ, vụ Watergate trên chính trường dẫn đến ngày 9/8/1974 tổng thống Nixon tuyên bố từ chức. Mặc dù vậy, Mỹ vẫn nuôi mưu đồ làm bá chủ thế giới, đẩy mạnh đánh chiếm thuộc địa. CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975 2.1. Chủ trương, kế hoạch của Đảng ta. Từ thất bại thê thảm trong cuộc ném bom bắn phá miền bắc, Mỹ đã kí Hiệp định Paris nhưng vẫn ngang nhiên chống phá hiệp định. Chúng tiếp tục tàn phá miền nam. Với Mỹ không bao giờ chấp nhận sự thất bại, vì thế chúng luôn luôn dựng lên những âm mưu thâm độc để có thể đạt được mục đích “cao cả” của mình. Cuối năm1974-1975, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đảng đã họp Hội nghị Bộ chính trị (30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (18/12/1974 đến 8/1/1975) bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam. Qua hai Hội nghị, Bộ chính trị đã đưa ra và hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Cụ thể là trong năm 1975, tranh thủ thời cơ bất ngờ ta tấn công địch trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho năm 1976 sẽ tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bên cạnh kế hoạch đó, Bộ chính trị còn nhận định rằng: “Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ: “nếu thời cơ xuất hiện vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đồng thời Bộ chính trị còn nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân… giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. 2.2. Các trận đánh lịch sử. 2.2.1. Chiến dịch Tây Nguyên. Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 – 24/3/1975), mật danh Chiến dịch 275, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công mùa xuân năm 1975 do quân đội Nhân dân Việt Nam phát động tấn công. Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với chiến trường miền Nam, nhưng do địch nhận định sai về hướng tiến quân của ta nên đã tập trung lực lượng cho việc bảo vệ Sài Gòn và Huế -Đà Nẵng; ở Tây Nguyên, chúng chỉ chốt giữ bằng một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở. Phát hiện sơ hở đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10/1974 đã quyết định chọn Tây Nguyên đánh trận mở đầu và là hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Diễn biến chiến dịch: + Đợt 1: Từ 4-3 đến 9-3: Ngày 4-3, ta cắt đường số 19 đọan từ An Khê đến Nam Bình Khê và cắt đường số 21, tập kích bằng pháo binh và đặc công vào thị xã Kontum, PlâyKu tích cực hoạt động nghi binh để ghìm chặt địch ở Bắc Tây Nguyên. + Đợt 2: Từ ngày 10 đến 18-3: Rạng sáng 10-3, ta nổ súng tiến công bất ngờ vào các căn cứ quân sự của địch ở trong thị xã Buôn Ma Thuột. Sau 4 giờ chiến đấu, ta làm chủ sân bay Hòa Bình và khu kho Mai Hắc Đế. 11 giờ ngày 11-3, ta hòan toàn làm chủ thị xã + Đợt 3: Từ 17 đến 24-3-1975: Ta chặn đánh các lực lượng địch ở PlâyKu, Kontum rút chạy trên đường số 7 từ Cheo Reo đến Củng Sơn. Ngày 14-3, Tổng thống Thiệu họp với Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Nha Trang quyết định rút quân khỏi Công Tum – PlâyKu theo đường số 7 về giữ vùng đồng bằng ven biển. Ngày 16/3, nhận được thông báo địch đã rút chạy, Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra lệnh nhanh chóng truy kích địch. Chiều ngày 17/3, quân ta đã cắt đường số 7 hình thành thế bao vây quân địch từ phía sau. Cùng ngày pháo binh ta bắn vào thị xã Cheo Reo. 18 giờ ngày 18/3, quân ta chiếm thị xã Cheo Reo. Các ngày 21, 22, 23, quân ta tiếp tục truy kích địch trên đường số 7. Ngày 24/3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch ở đây. Một mũi quân khác cùng với lực lượng địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung (Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang). Phối hợp với hướng chính, từ ngày 17/3 đến 22/3, ta giải phóng Kontum, PlâyKu, An Khê, Gia Nghĩa, Kiến Đức. Tây Nguyên được hòan toàn giải phóng. Kết quả: Địch bị tiêu diệt 4.500 tên, bị bắt 16.822 tên, ra hàng và được phóng thích tại chỗ 7.190 tên. Ta bắn rơi 44 máy bay, phá hủy 110 chiếc, thu và phá hỏng 17.188 súng pháo các loại, 1.096 xe các loại, 767 máy thông tin, thu toàn bộ kho tàng, thiết bị chỉ huy, cơ sở chữa cháy của ngụy ở Tây Nguyên. Giải phóng 5 tỉnh Tây Nguyên: Kontum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bồn, Quảng Đức. Hơn 60 vạn nhân dân các dân tộc giành quyền làm chủ. Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển cả chiến trường niềm Nam, làm suy sụp ý chí và tinh thần chiến đấu của Ngụy quân, Ngụy quyền và đồng thời cho thấy, thời cơ thuận lợi để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. 2.2.2. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng Thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi. Bộ chính trị đã kịp thời đưa ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong năm 1975; trong đó, nhiệm vụ trước mắt là giải phóng Huế – Đà Nẵng. Ngày 19/3 quân ta đã tấn công vào Quảng Trị, địch bỏ Quảng Trị rút về Huế và Đà Nẵng; sau đó, chúng có dấu hiệu bỏ Huế rút vào cố thủ ở Đà Nẵng. Ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ của địch, đồng thời chặn đường rút chạy của chúng (Quốc lộ 1, Cửa Thuận An và cửa Tư Hiền). Ngày 25/3/1975, quân ta tiến thẳng vào cố đô Huế, ngày 26/3 thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. [xem phụ lục 2] Cùng với chiến thắng ở Huế, ngày 24/3/1975, ta giải phóng Tam Kì, ngày 25/3/1975, giải phóng Quảng Ngãi, ngày 26/3/1975, giải phóng Chu Lai. Như vậy, đến ngày 26/3/1975, Đà Nẵng bị rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ở đây trở nên hoảng loạn và mất hết khả năng chiến đấu. Sáng 29/3/1975, từ cả ba phía quân ta tiến vào Đà Nẵng và đến 3 giờ chiều thành phố Đà Nẵng được giải phóng hoàn toàn.[xem phụ lục 3] Cùng lúc với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, sau khi giải phóng Tây Nguyên, lực lượng của ta đã tiến xuống giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung: Quy Nhơn, Phú Yên, Khánh Hòa … Như vậy, đến đầu tháng 4 năm 1975, ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liên tục từ Quảng Trị đến Khánh Hòa. 2.2.3. Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi thất bại ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, địch lùi về lập tuyến phòng thủ từ xa (Phan Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh) để bảo về Sài Gòn. Trước tình hình đó, ngày 25/3/1975, Bộ chính trị đã họp và nhận định: “Thời cơ cách mạng đã đến,… phải tập trung lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa mưa” và quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.[9. tr.85 ]. Ngày 08/4/1975, Bộ chỉ huy “Chiến dịch Hồ Chí Minh” đã được thành lập, với 5 quân đoàn và chuẩn bị ra quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng”, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Ngày 09/4/1975, quân ta tấn công vào Xuân Lộc – hệ thống phòng thủ quan trọng nhất bảo vệ Sài Gòn của địch. Ngày 16/4/1975, quân ta phá tan tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang, tiếp đó là Bình Thuận, Bình Tuy. Ngày 18/4/1975, Tổng thống Mĩ đã ra lệnh di tản toàn bộ người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4/1975, Xuân Lộc thất thủ, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc đã tháo chạy, quân ta từ các hướng nhanh chóng áp sát Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức. 17 giờ ngày 26/4, pháo binh tầm xa của Quân đội nhân dân Việt Nam bố trí tại Hiếu Liêm, Tân Phước Khánh, Tân Phước Trung, Mỹ Hạnh, Việt Cần, Nhơn Trạch đã bắn vào các mục tiêu: Căn cứ quân sự Đồng Dù, Căn cứ quân sự Bến Lức, Căn cứ quân sự Long Thành, trận địa pháo binh QLVNCH ở Thành Tuy Hạ, Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH... trong hơn một giờ. Bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam có xe tăng-thiết giáp yểm hộ đồng loạt tiến quân trên hướng Đông và Đông Bắc Sài Gòn. Đến ngày 27/4 tất cả các lực lượng ở các hướng còn lại cũng phát động tiến công. Trên hướng Đông, hồi 16 giờ cùng ngày, căn cứ Nước Trong và chi khu quân sự Long Thành nằm trên đường số 15 thất thủ sau một ngày chống cự. Đến trưa ngày 28/4, số quân còn lại của Sư đoàn 18 QLVNCH mặc dù có trong tay 26 khẩu pháo và một tiểu đoàn xe tăng mới được tăng phái nhưng dưới sức ép tấn công như gió lốc của QĐNDVN đã phải bỏ chi khu quân sự Trảng Bom, rút về Hố Nai. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH định lập tuyến trì hoãn chiến Long Bình - Long Thành nhưng không thể thực hiện được vì đã mất Long Thành từ chiều hôm trước. Bộ tư lệnh Quân đoàn III - QLVNCH phải di tản khẩn cấp về Gò Vấp. Sân bay Biên Hòa cũng bị bỏ ngỏ từ chiều 28/4, một số máy bay của sân bay này được đưa về Tân Sơn Nhất, số bị bỏ lại lên đến hàng trăm chiếc. Cũng trong ngày 28/4, sư đoàn 325 và các đơn vị địa phương Quân khu 7 của QĐNDVN chiếm lĩnh toàn bộ tỉnh Phước Tuy và thành phố Vũng Tàu. Chiều ngày 28/4, ngay khi nhậm chức và tiếp tục kêu gọi đàm phán, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi. Để không gây các rắc rối với Hoa Kỳ, tránh động chạm đến tự ái dân tộc của họ, Quân đội Nhân dân Việt Nam dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết. Trong các ngày 28, 29/4, từ các tàu sân bay ngoài biển, lính thủy đánh bộ Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác sâu sắc với họ. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn, có rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Tại các điểm đỗ của trực thăng, người ta chen chúc nhau đến mức hỗn loạn để kiếm được một chỗ trên máy bay. Tại các điểm di tản này, lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ dùng báng súng để cản những người Việt Nam tuyệt vọng gây tắc nghẽn đường thoát và lính Việt Nam Cộng hòa nổ súng vào đám người Mỹ ra đi, tạo nên một hình ảnh bi đát có ý nghĩa như một cột mốc đánh dấu chấm hết cho sự dính líu kéo dài 21 năm của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Sài Gòn trở thành một vùng lãnh thổ cô độc của Việt Nam Cộng Hòa, nằm cách đối phương không quá 30 km và thực sự đang ở trong tình thế chờ đợi đối phương "bấm nút". Và như để khẳng định điều đó, 5 giờ 15 phút chiều 28/4, 5 chiếc máy bay cường kích A-37 của Không lực Việt Nam Cộng hòa do những phi công của Không quân Nhân dân Việt Nam cùng một phi công Sài Gòn đầu hàng điều khiển đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Đêm ngày 28 rạng sáng ngày 29/4, quân ta tấn công vào trung tâm thành phố, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch. 8 giờ sáng ngày 30/4, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến nhanh vào Sài Gòn và hầu như không gặp phải sức kháng cự lớn và có tổ chức nào.Đến 10 giờ 45 phút ngày 30/4, quân ta tiến thẳng vào dinh Độc lập, Tổng thống Dương Văn Minh hạ lệnh đơn phương ngừng chiến, sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. 11 giờ 45 phút 30/4 các sĩ quan Quân đội giải phóng đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Mính kết thúc hoàn toàn thắng lợi.[xem phụ lục 5, 6] Cùng với cuộc tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Ðịnh, ta nhanh chóng tiến công địch, giải phóng các đảo ven biển miền trung và quần đảo Trường Sa. Ngày 1/5 quân và dân ta tiếp tục giải phóng các tỉnh: Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Kiến Tường, Sa Ðéc, Châu Ðốc, Côn Ðảo. Như vậy, đến ngày 1/5/1975, toàn bộ các tỉnh, thành phố trên đất liền, các đảo và quần đảo ở Biển Ðông trên toàn miền nam được hoàn toàn giải phóng. Đến ngày 02/5/1975, miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng. Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ. CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM 3.1. Nguyên nhân thắng lợi 3.1.1. Chủ quan - Trước hết là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng đã đề ra đường lối chính trị, quân sự sáng tạo chủ động trên nguyên tắc độc lập và chủ quyền. Với đường lối đó, cách mạng nước ta đã kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến với tiềm lực của hậu phương, động viên cao nhất lực lượng toàn dân vào cuộc chiến cứu nước. Đó là phương pháp chính trị quán triệt đường lối thể hiện nghệ thuật quân sự tài tình. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất. - Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đảng tinh thần ấy được phát huy cao độ. - Có hậu phương miền bắc vững chắc, được cung3 cố và phát triển về tiềm lực kinh tế quốc phòng để chi viện cho miền nam sức người và của. 3.1.2, Khách quan - Tình đoàn kết chiến đấu của 3 nước Đông Dương. - Sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của các nước XHCN và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trê toàn thế giới. 3.2. Ý nghĩa lịch sử - Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, bảo vệ toàn bộ lãnh thổ miền bắc, giải phóng miền nam thống nhất đất nước, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh cuả nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước góp phần cổ vũ các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ. - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã nêu bật một chân lý: trong thời đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mácxít – lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực. Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nói nó “như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".[2. tr.471] 3.3. Bài học kinh nghiệm Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm đã để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị lịch sử và thực tiễn sâu sắc. Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Bước vào giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, đứng trước âm mưu xâm lược miền Nam và chia cắt đất nước ta của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, Đảng ta đã đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, Đảng đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Đó là phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm: lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân, từ khởi nghĩa từng phần ở nông thôn đã phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị… Ba là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ chức chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam và chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Trung ương Đảng ta luôn luôn theo dõi âm mưu của địch, đánh giá đúng so sánh lực lượng, đề ra những chủ trương chỉ đạo chính xác, sắc bén, linh hoạt, kịp thời, nhằm đánh bại từng bước âm mưu và hành động của địch. Một trong những bài học về chỉ đạo chiến lược mà Đảng ta rút ra được là “trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi rồi thực tiễn sẽ cho phép ta hiểu rõ sự vật hơn nữa" .[7. tr.590] Bốn là, Đảng ta hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước. Xây dựng khối liên minh công - nông lớn mạnh, là đội quân chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, hai lực lượng cơ bản hùng hậu trong chiến tranh cách mạng, là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc’Miền Nam Việt Nam anh dũng kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975).doc