MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU . 1
CHưƠNG I: TẬP ĐOÀN TEMASEK HOLDINGS CỦA SINGAPORE . 3
I. Tìm hiểu về Tập đoàn Temasek Holdings . 3
1.1. Đặc điểm tập đoàn Temasek Holdings . 3
1.2. Các hoạt động của Tập đoàn từ khi thành lập cho đến nay (1974-2007) . 6
II. Đánh giá hoạt động của Temasek Holdings . 9
2.1. Những mặt hiệu quả . 9
2.2. Những mặt chưa hiệu quả và cách giải quyết của Temasek Holdings . 10
III. Từ Temasek Holdings tới kinh nghiệm xây dựng một mô hình công ty đầu tư
vốn Nhà nước hiệu quả . 12
3.1. Độc lập hoá khỏi Nhà nước trong quá trình ra quyết định và cơ chế tự chịu
trách nhiệm . 12
3.2. Hoạt động theo kiểu tư nhân . 14
3.3. Ban lãnh đạo có năng lực và không bị ràng buộc quyền lợi với Chính phủ . 14
3.4. Nhận thức đúng đắn từ phía Chính phủ . 16
CHưƠNG II: TỔNG CÔNG TY SCIC CỦA VIỆT NAM . 17
I. Tìm hiểu về Tập đoàn SCIC . 17
1.1 Tổng quan về SCIC . 17
1.2. Đặc điểm của SCIC . 20
1.3. Các hoạt động của SCIC từ khi thành lập đến nay (2005-2007) . 23
II. Đánh giá hoạt động của SCIC . 26
2.1.Những đóng góp thiết thực cho nền kinh tế . 27
2.2 Những vấn đề tồn tại chưa được giải quyết . 31
CHưƠNG III: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TEMASEK HOLDINGS
NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CỦA SCIC TRONG THỜI GIAN TỚI . 35
I. Mối liên hệ giữa Temasek Holdings và SCIC . 35
1.1. Do sự tương đồng giữa SCIC với Temasek Holdings về mục tiêu, cách xây
dựng và quản lý . 36
1.2. Do hiệu quả của mô hình Temasek Holdings đã được chứng minh tại
Singapore và ở một số quốc gia như Trung Quốc, Indonexia. . 36
1.3. Do yêu cầu cấp thiết về một SCIC hiệu quả đối với nền kinh tế . 37
1.4. Một đặc điểm chung giữa Singapore và Việt Nam: Doanh nghiệp Nhà nước
đóng vai trò đáng kể trong nền kinh tế . 37
II. Từ Temasek Holdings tới những khuyến nghị đối với SCIC Việt Nam . 38
2.1. Phân định rõ chức năng Quản lý hành chính - kinh tế với chức năng Chủ sở
hữu vốn của Nhà nước . 38
2.2 Xây dựng cơ chế đầu tư hiệu quả, công khai minh bạch đối với các dự án đầu
tư . 40
2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng, tạo cơ
sở pháp lý phù hợp để công ty hoạt động . 41
2.4. Tổ chức được bộ máy quản lý hiệu quả . 45
KẾT LUẬN . 49
58 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2527 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn xây dựng tổng công ty SCIC Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ yếu
1. Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước đầu tư
2. Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước vào các ngành, lĩnh vực kinh tế trong nước và
nước ngoài dưới hình thức
3. Thực hiện việc đầu tư và quản lí vốn đầu tư của Tổng công ty vào các lĩnh vực,
ngành kinh tế quốc dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao
4. Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để bổ sung vốn kinh doanh
thông qua việc vay vốn, phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu công trình, lập quỹ
tín thác đầu tư theo qui định của pháp luật đối với công ty Nhà nước.
Vốn hoạt động
20
20
1 Vốn điều lệ ban đầu: 5000 tỷ đồng, bao gồm:
o Vốn ngân sách Nhà nước cấp: 1000 tỷ đồng
o Vốn tiếp nhận từ các công ty khi thực hiện việc tiếp nhận và đại diện
quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước tại thời điểm thành lập công ty .
2 Vốn Nhà nước bổ sung cho Tổng công ty để thực hiện việc đầu tư và vốn tiếp
nhận bổ sung từ các công ty
3 Vốn tự bổ sung từ lợi nhuận sau thuế, vốn huy động và các nguồn vốn hợp pháp
khác
Thẩm quyền quyết định đầu tư vốn
1 Tổng công ty có quyền:
o Quyết định lựa chọn dự án đầu tư, phương thức đầu tư, mức vốn, thời gian
đầu tư đối với từng dự án, từng doanh nghiệp trong phạm vi vốn do Tổng
công ty quản lý.
o Quyết định giảm bớt phần vốn của Tổng công ty tại doanh nghiệp khác
thông qua việc chuyển nhượng vốn và bán cổ phần.
2 Thủ tướng Chính phủ quyết định các trường hợp đầu tư sau:
o Mức đầu tư vượt thẩm quyền của Tổng công ty theo quy định của pháp
luật
o Đầu tư vào các dự án, các lĩnh vực, địa bàn có rủi ro cao
o Đầu tư vào các dự án thuộc các ngành, lĩnh vực không có khả năng sinh lời
cần có chính sách ưu đãi và sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước
Tài chính của Tổng công ty
Là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, thực hiện chế độ hạch toán
kế toán tập trung. Chế độ kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo thống kê
và thực hiện chế độ kiểm toán theo qui định. Tổng công ty có trách nhiệm thực hiện các
nghĩa vụ về tài chính và được hưởng các chính sách ưu đãi theo qui định của pháp luật
1.2. Đặc điểm của SCIC
1.2.1. Là một công ty đầu tư vốn Nhà nước
21
21
SCIC là một tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nước, thực hiện việc quản lí, đầu tư
và kinh doanh vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các lĩnh vực theo qui định của pháp
luật. SCIC ra đời là cả một quá trình nghiên cứu của Chính phủ trên cơ sở tham khảo
kinh nghiệm một số mô hình của các nước trong khu vực, trong đó có Temasek Holdings
của Singapore. Có thể nói, SCIC là một thử nghiệm cải cách trong phương thức quản lý
DNNN, tách biệt chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành
chính. Sự ra đời của SCIC được kỳ vọng là sẽ chấm dứt tình trạng không xác định rõ
ràng người đại diện sở hữu phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần, giúp phần vốn
này năng động và hiệu quả hơn. Tổng công ty sẽ đồng thời là: đại diện chủ sở hữu vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp - nhà đầu tư chiến lược của Chính phủ - tổ chức cung cấp
dịch vụ tư vấn tài chính cho khách hàng liên quan đến quản lí và sử dụng vốn.
1.2.2. Hoạt động vẫn phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ
Trong khoản 4 về quyền và nghĩa vụ của Tổng công ty có qui định: “Lựa chọn và
quyết định lĩnh vực đầu tư và kinh doanh vốn theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm hiệu
quả và khả năng sinh lời trong tương lai. Trường hợp thực hiện các nhiệm vụ do Thủ
tướng Chính phủ giao, nếu không có hiệu quả thì được thực hiện các chính sách ưu đãi
thích hợp và Nhà nước hỗ trợ về tài chính”. Vậy phạm vi những lĩnh vực đầu tư Thủ
tướng Chính phủ có thể chỉ định cho SCIC là gì? Nếu không có giới hạn cho các nhiệm
vụ này, thì khả năng đầu tư cũng như chỉ định đầu tư tràn lan là rất có thể xảy ra. Thực
chất, trong hoạt động của SCIC, không có một cơ sở rõ ràng nào cho việc phân định: liệu
khi nào thì Tổng công ty có thể toàn quyền sử dụng vốn theo nhận định của mình để
kinh doanh có lãi, khi nào thì sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ phi kinh tế của Nhà nước?
Chính sự lỏng lẻo trong việc phân định quyền và nghĩa vụ sử dụng vốn đã tạo nên dư
luận không hay về SCIC trong hành động đầu tư vào thị trường chứng khoán thời gian
qua: đó là việc đầu tư nắm lấy cơ hội kinh doanh khi thị trường đi xuống hay đơn thuần
là việc cứu thị trường theo mệnh lệnh hành chính? Nếu là việc cứu thị trường chứng
khoán (không thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư vốn), đây đơn thuần là một mệnh lệnh
hành chính, ai sẽ chịu trách nhiệm khi thị trường chứng khoán sụp đổ kéo phần vốn Nhà
nước chìm theo? Mọi người vẫn còn rất e dè khi đánh giá mục đích trong mỗi thương vụ
22
22
kinh doanh của SCIC một phần là vì lí do này. Cơ sở phân định vẫn còn rất mơ hồ, tạo
nên kẽ hở cho sự nhập nhằng trong việc sử dụng vốn.
Mặt khác, phụ thuộc vào Chính phủ ở đây có nghĩa là họ không được độc lập trong
quá trình ra quyết định cho các hoạt động kinh doanh của mình. Trong khoản 3 điều lệ
qui định về chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Tổng công ty có phát biểu: “Thực hiện
việc đầu tư và quản lí vốn đầu tư của Tổng công ty vào các lĩnh vực, ngành kinh tế quốc
dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao”. Chúng ta có thể thấy rất rõ trong văn bản quy định
và các điều luật còn sơ sài về SCIC cái bóng của Chính phủ vẫn còn quá lớn. Nói cách
khác, Chính phủ vẫn can thiệp vào hoạt động của Tổng công ty cho dù đã cho phép
doanh nghiệp này tự thu, tự chi và tự chịu trách nhiệm trong quá trình kinh doanh. Nó
không những trói buộc doanh nghiệp vào những lề thói và tư duy trì trệ của cơ chế cũ mà
còn tạo ra tâm lí ỷ lại trông chờ vào bầu sữa Nhà nước. Phải chăng Chính phủ không
thực hiện nghiêm túc cam kết này bởi SCIC không đáng tin cậy, hay thực ra việc thành
lập SCIC không phải phục vụ mục đích giải quyết bài toán hiệu quả cho các công ty Nhà
nước mà chủ yếu phục vụ cho các chính sách vĩ mô của Chính phủ khi họ không đủ năng
lực kiểm soát thị trường?
1.2.3. Không đặt lợi nhuận làm mục tiêu đầu tiên
Trong bốn mục tiêu hoạt động của SCIC, mục tiêu đầu tiên là “Tăng trưởng đạt
giá trị bền vững. Đạt tỷ suất lợi nhuận lớn hơn chi phí vốn”. Điều này cũng được Phó
Tổng giám đốc Lê Song Lai khẳng định rất nhiều lần trong các bài phát biểu trước báo
giới. Mục đích ban đầu khi thành lập Tổng công ty là cải cách lại cách làm ăn của các
doanh nghiệp nói chung và chỉ dừng lại ở việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của
Nhà nước. Nếu Temasek Holdings luôn có khát khao tạo ra lợi nhuận nhiều nhất thì
SCIC chỉ dừng lại ở mức lợi nhuận lớn hơn chi phí bỏ ra.
Đã là một công ty tham gia vào thị trường, lợi nhuận phải là mục tiêu lớn nhất và
đó cũng là một tiêu chí để đánh giá tình hình kinh doanh của công ty. Vậy tại sao SCIC
lại không đặt mục tiêu lợi nhuận lên đầu mà chỉ muốn dừng lại ở trên điểm hoà vốn? Nó
nguy hiểm ở chỗ, suy nghĩ chỉ cần đạt tỉ suất lợi nhuận lớn hơn chi phí dễ dàng làm nảy
sinh tâm lí thoả mãn và không tận dụng hết các nguồn lực của công ty, trong khi SCIC
23
23
được xây dựng như một mô hình đầu tàu để kéo các doanh nghiệp, đặc biệt là các
DNNN đi lên. Đồng thời, điều đó cũng có khả năng làm chệch hướng trong việc ra quyết
định, cụ thể là công ty sẽ không đầu tư vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà sẵn sàng
phục vụ cho các mục đích phi kinh tế khác (miễn là SCIC nhận định rằng việc kinh
doanh đó chỉ cần trên điểm hoà vốn là đủ). Có lẽ SCIC cần phải xác định lại tiêu chí cho
mình, đó là lấy hiệu quả kinh doanh trên vốn làm trọng tâm, chứ không đơn thuần chỉ là
bảo toàn vốn.
1.3. Các hoạt động của SCIC từ khi thành lập đến nay (2005-2007)
Một số doanh nghiệp tiêu biểu có vốn đầu tư của SCIC bao gồm: Công ty cổ phần
Đầu tư phát triển công nghệ (FPT), Công ty cổ phần Hàng không Châu Á Thái Bình
Dương (Pacific Airlines), Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tổng công ty Bảo
Minh, Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex)…
Bảng 4: Số lƣợng doanh nghiệp thành viên của SCIC tính đến ngày 31/12/2007
Dịch vụ tài chính Số lƣợng
Bảo hiểm 2
Bất động sản 3
Các ngân hàng thương mại 1
Quản lý và phát triển bất động sản 2
Tài chính tiêu dùng 2
Nguyên vật liệu
Bao bì và đóng gói bao bì giấy 9
Giấy và lâm sản 9
Hóa chất 42
Kim loại và khai khoáng 20
Vật liệu xây dựng 23
Y tế và Chăm sóc sức khỏe
Công nghệ sinh học 8
Dược phẩm 39
24
24
Dịch vụ y tế 2
Hàng tiêu dùng thiết yếu
Đồ ăn 58
Đồ uống 2
Thực phẩm và nguyên liệu thực phẩm 2
Công nghiệp
Công ty Thương mại và Nhà phân phối 42
Dịch vụ thương mại và cung ứng vật tư 36
Đường bộ và đường sắt 47
Hạ tầng giao thông vận tải 25
Hàng hải 6
Hàng không 1
Máy móc 15
Sản phẩm xây dựng 44
Tập đoàn công nghiệp 1
Thiết bị điện 4
Vận tải đường không và dịch vụ hậu cần 2
Xây dựng và Công trình 119
Hàng tiêu dùng
Bán lẻ nhiều loại mặt hàng 20
Dịch vụ truyền thông 43
Đồ gia dụng lâu bền 1
Khách sạn, nhà hàng, giải trí 43
Vải, quần áo & hàng hóa xa xỉ 17
Dịch vụ viễn thông
Dịch vụ viễn thông được đa dạng hóa 1
Dịch vụ viễn thông không dây
Nguồn: Website: www. scic.vn
1.3.1. Tình hình hoạt động từ 2006 đến 2007
25
25
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2006, tính đến ngày 31/12/2007, SCIC
quản lý danh mục đầu tư gồm 829 doanh nghiệp với tổng giá trị sổ sách 7.710 tỷ đồng,
tổng giá trị thị trường ước tính 40.129 tỷ đồng. Các doanh nghiệp thành viên và doanh
nghiệp liên kết của SCIC hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế như
dịch vụ tài chính, năng lượng, công nghiệp, viễn thông, xây dựng, vận tải, hàng tiêu
dùng, y tế, công nghệ thông tin…. Song song với việc đẩy mạnh tốc độ tiếp nhận nguồn
vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, Tổng công ty đang tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức,
tiến hành phân tích đánh giá các doanh nghiệp và tìm kiếm cơ hội đầu tư mới.
SCIC ngay từ khi mới thành lập đã gây xôn xao dư luận, hi vọng thì nhiều nhưng lo ngại
cũng không ít. Đến thời điểm hiện tại đã được hơn 3 năm tuổi. Những cam kết, dự định
đã và đang triển khai. Có những thành công nhất định. Tuy nhiên dường như “tội nhiều
hơn công” và cho đến nay những sai lầm của SCIC vẫn là điều gây nhiều tranh cãi.
Trong khi số doanh nghiệp được SCIC đưa ra cổ phần hoá vẫn còn khá khiêm tốn, thì đã
có những thông tin về việc SCIC không thực hiện hiệu quả nhiệm vụ sử dụng vốn của
mình. Nhưng phải chờ đến sự kiện nổi bật của Tổng công ty từ khi chính thức đi vào
hoạt động là mua cổ phiếu ở một thời điểm "nhạy cảm" đã làm dấy lên tâm lí nghi ngờ
liệu SCIC có quá bất cẩn với nguồn vốn Nhà nước hay không? Lí do về việc mới thành
lập, kinh nghiệm còn ít và chưa có tiền lệ về mô hình kinh tế này ở Việt Nam trước đây
không thể biện hộ cho sai lầm mang tính cơ bản của Tổng công ty này trong thời gian
vừa qua.
Ngày 5/3/2007 VN-Index xuống mức thấp kỷ lục 583 điểm. Đối mặt với tình hình
này, Uỷ ban Chứng khoán, các công ty chứng khoán trong một phiên họp khẩn đã kiến
nghị Chính phủ cần có biện pháp cứu thị trường. Đáp ứng yêu cầu đó, Chính phủ đã uỷ
quyền cho SCIC thực hiện các nghiệp vụ cần thiết để giải quyết tình trạng này. Chỉ vài
ngày sau khi Uỷ ban Chứng khoán có yêu cầu, SCIC đã nhanh chóng ra tay, giúp chỉ số
VN-Index vượt lên ngưỡng 611 điểm vào ngày 6/3. Cho dù đã bỏ ra một số tiền rất lớn
để đầu tư và cam kết sẽ “cứu” được thị trường chứng khoán, nhưng thực tế cho đến hiện
nay thị trường này vẫn chưa có dấu hiệu gì khả quan cho các nhà đầu tư khi liên tục sụt
giảm. Khi đó trách nhiệm đã không được SCIC thừa nhận về mình mà họ cho rằng đó là
26
26
sự ảnh hưởng tất yếu của thị trường chứng khoán thế giới và một số nhân tố khách quan
khác. Đây là điều không thể phủ nhận, nhưng vấn đề cần được xem xét là hành động này
của SCIC liệu có đúng với vai trò và bổn phận của nó hay không. Trong lịch sử thị
trường chứng khoán thế giới, việc một công ty ra tay cứu chứng khoán là rất hi hữu,
thậm chí là chưa từng xảy ra. Lí do một phần bởi lo ngại những tác động tới tâm lí đám
đông có thể gây ra phản ứng tiêu cực hay phục hồi giả, khiến thị trường không cân bằng
ở giá trị thực của nó. Mặt khác, chứng khoán là một lĩnh vực rất rộng, vận động phức
tạp, mức độ biến động khá mạnh, lại phụ thuộc nhiều vào tâm lí người trong cuộc, do
vậy, khả năng một công ty có thể hoàn toàn kiểm soát hay tác động để bình ổn cả thị
trường là điều không tưởng. Thực tế đã chứng minh sự tham gia của SCIC không thể đảo
ngược chứng khoán trong xu hướng trở về giá trị thực của nó sau một thời gian bị đẩy
lên quá cao. Rõ ràng, đây là hành động bóp méo thị trường; thất vọng hơn, nó đã gây
thêm ngoại ứng tiêu cực, khi mà các thông điệp SCIC đưa ra giờ đây sẽ khó có thể
thuyết phục được công chúng với sức mạnh như trước. Và một câu hỏi đặt ra cho SCIC
là liệu họ có phải chỉ là một công ty đầu tư vốn Nhà nước đơn thuần hay kiêm nhiệm
thêm vai trò là cánh tay vươn dài của Chính phủ trong các can thiệp thô bạo đối với thị
trường?
1.3.2. Mục tiêu đến năm 2010
Mục tiêu SCIC đặt ra là vào năm 2010 trở thành một Tập đoàn tài chính Nhà nước
chuyên nghiệp. Trong đó, SCIC trở thành cổ đông năng động của doanh nghiệp, nhà đầu
tư chiến lược của Chính phủ; đồng thời tập trung đầu tư nắm giữ từ 100-150 doanh
nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt có ý nghĩa chiến lược với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. SCIC chủ trương giữ vai trò là cổ đông lớn chi
phối và phấn đấu đưa ít nhất 80% doanh nghiệp này ra niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Rõ ràng, với việc nắm giữ và quản lí những DNNN - vốn được xác định là xương
sống của nền kinh tế trong một thời gian dài nữa, thì trọng trách này quả là không nhỏ,
đòi hỏi SCIC phải rất thận trọng và cân nhắc khi đưa ra những quyết định, sách lược của
mình.
II. Đánh giá hoạt động của SCIC
27
27
2.1.Những đóng góp thiết thực cho nền kinh tế
2.1.1. Tập trung góp vốn phát triển nền kinh tế, giúp Nhà nước đầu tư hiệu quả
Các DNNN và doanh nghiệp cổ phần hoá bị chi phối bởi nhiều cơ quan chủ quản,
gây khó khăn cho việc phối hợp và điều hành, mà hệ quả của tình trạng chồng chéo này
là hoạt động kém hiệu năng. Sự ra đời của SCIC nhằm mục đích chấn chỉnh tình trạng
trên. Trước đây vốn Nhà nước có quá nhiều “ông chủ” là các cơ quan chủ quản thuộc
nhiều cấp, nhiều ngành, mỗi nơi lại sử dụng một phương pháp quản lý thống kê khác
nhau. Độ trung thực, chính xác của các báo cáo do đó cũng khác nhau và không có
chuẩn mực kê khai hay cơ chế giám sát hữu hiệu... Khi tất cả những khoản vốn đó được
tập trung thống kê tại SCIC, Nhà nước đã biết chính xác mình có bao nhiêu tiền, tiền
đang nằm ở những đâu, được quản lý, kinh doanh theo phương pháp nào và cơ hội sinh
lời cũng như nguy cơ rủi ro ra sao. Từ đó mới có thể tính đến giải pháp kinh doanh cho
hiệu quả. Một trong các hình thức hoạt động của SCIC là thoái vốn. Tức là tại những
ngành nghề, doanh nghiệp nhất định, đồng vốn khó quản lý, khó sinh lời hay không phù
hợp với qui mô lớn thì sẽ rút vốn ra. Như vậy Nhà nước không chỉ có thêm cơ hội tăng
lợi nhuận mà còn giảm thiểu nguy cơ thiệt hại vốn.
Cái lợi nữa là khi mệnh lệnh hành chính, những chỉ thị, tờ trình, đơn xin... được
tách khỏi hoạt động kinh doanh thì cũng là một bước tiến dài trong cải cách thủ tục hành
chính - hẳn nhiên sẽ tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động của các doanh nghiệp, bởi
trước nay hành chính vốn bị coi là một trong những trở lực lớn trong công việc kinh
doanh ở nước ta. SCIC không có quyền ra lệnh đối với các DNNN, mà chỉ chi phối các
doanh nghiệp này thông qua phần vốn chủ sở hữu mà nó đại diện. Phân tách rạch ròi
quản lý Nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh là ý nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất
trong việc thành lập SCIC. Điều này khác biệt với việc trước đây các Bộ, UBND chỉ đạo
các DNNN theo cơ chế hành chính mệnh lệnh khi mà Bộ chủ quản, cơ quan chủ quản,
vừa đá bóng (kinh doanh), vừa thổi còi (quản lý Nhà nước). Nhà nước lúc này giống như
một cổ đông bình đẳng và minh bạch với tất cả “đối tác” khác trong kinh doanh. Doanh
nghiệp lúc này đã được trả lại quyền tự chủ và được tăng thêm tiềm lực. Nhà nước quản
lý được vốn và tăng nguồn lợi từ đây.
28
28
Sự đóng góp thiết thực cho nền kinh tế được thể hiện qua các mặt sau:
Vốn
Trước đây, tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, Nhà nước, thực chất là cơ quan chủ
quản, cử đại diện của mình xuống doanh nghiệp trong vai các ủy viên Hội đồng quản trị.
Các đại diện này thường là cán bộ kiêm nhiệm, kỹ năng quản trị, kinh doanh yếu. Mặt
khác họ không bị ràng buộc trách nhiệm về đồng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Các
ủy viên này dù năng lực có kém đi chăng nữa thì vẫn mặc nhiên tồn tại vì nhiệm vụ của
họ, chủ yếu là thay mặt cơ quan chủ quản ra lệnh và nhận cổ tức cũng như những khoản
đóng góp khác của doanh nghiệp. Do vậy, đồng vốn dưới bàn tay thờ ơ của những cán
bộ với trách nhiệm nửa vời không những không sinh lời hiệu quả, lại có nguy cơ lãng phí
và chảy vào túi một bộ phận cá nhân.
Đó là chưa kể việc định giá tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa do thiếu phương
pháp tổ chức và công cụ giám sát nên Nhà nước và người lao động (cổ đông) đã mất mát
rất nhiều tài sản. Không quá khó hiểu khi có những nhận định rằng nếu việc cổ phần hoá
không được chỉnh đốn và tiến hành nghiêm túc thì tài sản Nhà nước hoàn toàn có khả
năng rơi vào tay một số bộ phận cơ hội với cái giá rẻ mạt giống như kịch bản nước Nga
hồi những năm đầu cải cách. Nhưng nay Nhà nước hiện diện trong vai người đại diện
SCIC, với hi vọng một cơ quan chuyên quản lí vốn sẽ giảm thiểu tình trạng chắp vá lộn
xộn, đồng thời tập trung được phần vốn phân tán rải rác trước đây. Đại diện này hoàn
toàn tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty. Tổng công ty bị ràng buộc
trách nhiệm với đồng vốn của Nhà nước như chính đồng tiền của họ bỏ ra. Việc thất
thoát vốn, lãi của Nhà nước trong doanh nghiệp sẽ không thể diễn ra như trước đây.
Với mục đích mang lợi nhuận về cho Nhà nước, SCIC chủ trương xác định giá trị
thật của doanh nghiệp. Để tính được phần vốn của Nhà nước ở đây, SCIC áp dụng
những công cụ định giá theo khoa học quản trị thông dụng quốc tế, có độ chính xác và
tiệm cận nhất với giá thị trường. Cơ quan chủ quản cũ, đại diện ngành tài chính và doanh
nghiệp cùng tham gia công việc này. SCIC thống kê toàn bộ tài sản và phân loại doanh
nghiệp làm ba nhóm lớn A, B, C tùy theo qui mô, tỉ trọng vốn Nhà nước và ngành nghề
để có phương án đầu tư quản lí vốn thích hợp với từng nhóm.
29
29
Cơ chế người đại diện
Toàn bộ những người đại diện phần vốn Nhà nước cũ được rà soát lại, ai phù hợp với
cơ chế mới thì trưng dụng, tách chức năng quản lý của Nhà nước ra khỏi chức năng kinh
doanh. Trước đây các Bộ, các UBND, các cơ quan công quyền quản lý nguồn vốn thì
nay giao cho một đơn vị độc lập, ứng dụng được các chuẩn mực mới về quản trị doanh
nghiệp vào các doanh nghiệp thành viên, qua đó nâng cao được hiệu quả của nguồn vốn
Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Từ cuối năm 2006 khi SCIC đi vào hoạt động ổn
định, cơ chế bộ chủ quản cấp tỉnh coi như không còn nữa. Thay vào đó, cơ chế người đại
diện được kì vọng là sẽ chấm dứt tình trạng “bình mới rượu cũ” trong đa số các doanh
nghiệp có phần vốn Nhà nước đã cổ phần hoá (bộ máy nhân sự cũ vẫn tiếp tục giữ vai
trò điều hành, người đại diện phần vốn Nhà nước là các giám đốc doanh nghiệp – cũng
đồng thời là chủ tịch Hội đồng quản trị, tất yếu dẫn đến tư duy điều hành không có gì
khác trước). Quan trọng nhất hiện nay là nâng cao được hiệu quả nguồn vốn đầu tư của
Nhà nước và xác định rõ được trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đó, mà tiền đề là phải
phân định trách nhiệm rõ ràng, hạn chế sử dụng cán bộ kiêm nhiệm.
Theo quy chế của SCIC, "người đại diện" là người được cấp có thẩm quyền cử, uỷ
quyền hoặc thuê làm đại diện phần vốn góp của Tổng công ty tại các doanh nghiệp.
Người đại diện thay mặt Tổng công ty quản lí phần vốn đầu tư tại những doanh nghiệp
này. Tuỳ theo qui mô vốn, đặc điểm, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp, năng lực
của cán bộ mà Tổng công ty cử người đại diện theo những nguyên tắc sau:
- Cử trực tiếp nhân viên thuộc Tổng công ty;
- Uỷ quyền cho cán bộ hoặc lãnh đạo đang làm việc tại doanh nghiệp;
- Thuê người đại diện;
- Uỷ quyền cho lãnh đạo doanh nghiệp thay mặt Tổng công ty thực hiện một số
nhiệm vụ;
Có thể thấy, trong trường hợp cần thiết, SCIC sẵn sàng thuê người đại diện mới, hoặc
cử cán bộ xuống chuyên trách. Qui chế người đại diện được soạn thảo tỉ mỉ, khoa học,
(với các điều khoản về chế độ báo cáo của người đại diện lên Tổng công ty, đánh giá
người đại diện, thay thế người đại diện nếu năng lực không đáp ứng yêu cầu…), phần
30
30
nào giúp minh bạch hoá giữa chức năng quản lí và chức năng hành chính, khiến các
doanh nghiệp có vốn Nhà nước bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, tránh sự
cẩu thả tuỳ tiện trong các quyết định kinh doanh. Tùy từng loại hình doanh nghiệp,
người đại diện sẽ có thẩm quyền khác nhau trong việc thay mặt SCIC thực hiện tái cơ
cấu, xây dựng chiến lược hoạt động rõ ràng. Quan hệ giữa Tổng công ty và người đại
diện cũng linh hoạt thay đổi, tuỳ theo đó là Công ty TNHH một thành viên, hai thành
viên, hay Công ty cổ phần.
Thiết lập quan hệ kinh doanh với nhiều đối tác quốc tế
Các lớp bồi dưỡng, tập huấn về quản trị, kinh doanh được tổ chức rộng khắp cho lãnh
đạo doanh nghiệp. Với vị thế là Tổng công ty quản lí và đầu tư vốn của Nhà nước, SCIC
thiết lập quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước; hợp tác với các tổ chức tài chính
lớn như WB, ADB, Tập đoàn đầu tư Temasek (Singapore), Tập đoàn Merrill Lynch
(Mỹ), Công ty Đầu tư và chứng khoán Hàn Quốc... để thụ hưởng những mô hình quản trị
tiên tiến của quốc tế, trong đó có những công ty tương tự về mô hình - một lợi thế mà
những công ty qui mô nhỏ không thể có được. Hơn 20 tổ chức tài chính, quĩ đầu tư đã ký
biên bản ghi nhớ với SCIC, mở ra nhiều cơ hội mới để phát triển đồng vốn Nhà nước.
2.1.2. Hỗ trợ Nhà nước kiểm soát tốt hơn nền kinh tế
Với ưu thế nổi bật là số vốn lớn, có thể hi vọng SCIC sẽ dùng nguồn vốn này để
đầu tư vào một số lĩnh vực trọng yếu cần nhiều vốn hoặc trước mắt chưa có lãi, mục đích
là để thu hút các thành phần kinh tế khác cùng tham gia. SCIC đã tập trung các DNNN
lại để giải quyết tình trạng trì trệ trong hoạt động của các công ty này đồng thời tập trung
vốn đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang tràn
vào Việt Nam ngày càng nhiều. Chẳng hạn, theo dự kiến SCIC sẽ thu xếp để cùng Tổng
công ty Điện lực Việt Nam thành lập một công ty cổ phần mới xây dựng nhà máy điện
thay vì phải đi vay vốn nước ngoài để làm như hiện nay. Cách làm tương tự sẽ được áp
dụng đối với các ngành khác như xi măng, xây dựng cảng biển...dựa trên tiêu chí hiệu
quả, trong tình trạng hiện tại có nhiều dự án lớn mà ngay cả việc kéo các nhà đầu tư tư
nhân vào cũng không dễ dàng. Tuy nhiên cách làm này cũng sẽ tạo ra một loạt các công
ty cổ phần mà cổ đông chỉ gồm các DNNN, giống như Pacific Airlines hay Pjico. Cần
31
31
phải cẩn trọng bởi gianh giới giữa việc giúp Nhà nước kiểm soát DNNN và việc trở
thành công cụ để can thiệp sâu vào thị trường đôi khi rất mong manh, như chúng tôi đã
phân tích ở trên.
2.2 Những vấn đề tồn tại chƣa đƣợc giải quyết
2.2.1. Chưa có những đóng góp tương xứng so với vai trò trong nền kinh tế
2.2.1.1.Trở ngại lớn nhất của SCIC hiện nay là phần vốn Nhà nước trong các doanh
nghiệp đang được đầu tư quá dàn trải trong một thời gian dài. Nguyên nhân của việc bố
trí vốn dàn trải là do nhu cầu đầu tư phát triển của các bộ, ngành và địa phương là rất lớn
trong khi khả năng tăng đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển lại có
hạn, chỉ đáp ứng được từ 40 - 50% nhu cầu dẫn đến tình trạng các địa phương đều muốn
kéo vốn về ngành mình, địa phương mình, thậm chí ngay cả khi chưa có dự án. Ngoài ra,
trong bố trí kế hoạch vốn đầu tư, còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn bổ sung của
ngân sách Trung ương. Đây là một mâu thuẫn thường gặp ở các nước đang phát triển,
song đối với nước ta, nó lại càng trở nên gay gắt, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính vì vậy, để sử dụng và quản lý nguồn vốn này hiệu quả hơn, trước mắt cũng
như lâu dài, cần bán bớt hoặc bán hết phần vốn Nhà nước đầu tư ở các công ty, theo tinh
thần chỉ đạo của Thủ tướng. Số tiền thu được sẽ dùng để đầu tư vào các dự án có hiệu
quả.
2.2.1.2. Có một điều không rõ ràng là SCIC đã cố gắng thâm nhập được đến đâu
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà nó đã tham gia đầu tư, và liệu nó
có cho phép ban lãnh đạo một khoảng thời gian đủ để thực hiện trách nhiệm của mình,
hoặc liệu nó đã cố gắng thực thi có hiệu quả quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước của mình
hay chưa. Đã ba năm kể từ khi thà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam.pdf