Đề tài Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà HC

 

 

Mục lục

Phần 1: lời nói đầu.

Phần 2: nội dung:.

Chương I. Giới thiệu chung về Tòa Hành chính - TANDHN.

1. Quá trình hình thành và phát triển của Tòa Hành chính.

2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa Hành chính.

 a.Chức năng, nhiệm vụ

 b.Quyền hạn

 + thẩm quyền chung

 + thẩm quyền cụ thể

3. Kết quả hoạt động của Tòa Hành chính (Tòa Hà Nội).

a. Tích cực.

b. Hạn chế.

c. Nguyên nhân.

Chương II: Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Tòa Hành chính.

1. Mô hình tổ chức của Tòa Hành chính.

a. Cơ cấu tổ chức bộ máy.

b. Cơ cấu nhân sự.

2. Phương thức hoạt động của Tòa Hành chính.

a. Điều kiện khởi kiện.

b. Đối tượng xét xử của Tòa Hành chính.

c. Công tác xác minh, thu thập chứng cứ.

d. Hoạt động xét xử của Tòa Hành chính.

3. Thuận lợi - khó khăn.

4. Nhận xét đánh giá.

Chương III: Phương hướng hoàn thiện, một số kiến nghị và giải pháp.

1. Phương hướng đổi mới.

2. Kiến nghị.

a. Về thẩm quyền và đối tượng xét.

b. Về quyền hạn của tòa án trong quá trình xét xử vụ án.

c. Về trình tự thủ tục tố tụng.

d. Về tổ chức cơ quan xét xử Hành chính.

e. Về thẩm phán hành chính.

3. Giải pháp.

Phần 3: kết luận.

Phần 4: lời cảm ơn và danh mục tài liệu tham khảo

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà HC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính cũng có rất nhiều cấp độ khác nhau. Nếu cho phép mọi tranh chấp hành chính đều có thể kiện trước Tòa án thì sẽ có một khối lượng rất lớn các vụ việc, Tòa án không thể giải quyết được. Vì vậy, pháp luật lựa chọn những loại việc thường xảy ra nhiều vi phạm, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân để xác định là đối tượng xét xử của tòa án hành chính. Theo quy định của Điều 11- "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính". Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án Hành chính sau đây: *. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hiện nay hầu hết các lĩnh vực quản lý Nhà nước đều có quy định về xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể như các lĩnh vực: giao thông, văn hóa, thương mại, hải quan, thuế, quốc phòng, bảo vệ môi trường, lâm nghiệp, đất đai, khoáng sản, xây dựng, bưu chính viễn thông, lao động, thủy sản, y tế, an ninh trật tự…). *. Khiếu kiện quy định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác; *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. *. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống; *. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Quản lý đất đai gồm các nội dung sau đây( theo luật đất đai hiện hành): + điều tra, khảo sát, đo dạc,đánh giá ,phân hạng đất và lập bản đồ địa chính + Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất; + Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó. + Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất. + Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý sử dụng đất. + Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai. *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản sản xuất, kinh doanh. *. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản. *. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC trong việc thu thuế, truy thu thuế. Theo quy định của Pháp luật hiện nay có các loại thuế sau: + Thuế thu nhập + Thuế xuất nhập khẩu + Thuế sử dụng đất nông nghiệp + Thuế tiêu thụ đặc biệt + Thuế chính quyền sử dụng đất + Thuế nhà đất + Thuế tài nguyên + Thuế môn bài + Thuế thu nhập doanh nghiệp + Thuế giá trị gia tăng *. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thu phí, lệ phí. *. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, Pháp lệnh đã liệt kê ra 9 loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, điều đó tạo điều kiện cho công dân có thể xác định những việc nào mình có thể khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra để có thể đáp ứng kịp thời được tình hình khi xét thấy có một số loại việc cần thiết phải cho phép khởi kiện ra tòa án, khoản 10 Điều 11 pháp lệnh quy định: Tòa án có toàn quyền xét xử "các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật" . Điều đó tạo ra một "quy định mở" cho việc bổ sung sau này các việc khác thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính. 2.Thẩm quyền cụ thể: Tại Khoản 2 Điều 30-Pháp lệnh đã qui định: "Tòa hình sự, Tòa dân sự và Tòa án hành chính, Tòa án nhân dân, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: *. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng. *. Phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng". Cụ thể, Tòa án hành chính thuộc Tòa án Nhân dân Hà Nội là một phân tòa thuộc Tòa án Nhân dân cấp tỉnh. Do đó, Tòa hành chính Hà Nội có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện hành chính qui định tại khoản 2 Điều 12- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. "Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố, trực thuộc Trung ương (gọi chung là tòa án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây: *. Những khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. *. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan chức năng thuộc một trong cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 điều này và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. *. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó. *. Những khiếu kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm 6 khoản 2 điều này. *. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đối với khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC của UBND, Chủ tịch UB ND cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của tòa án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi". Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Qua tìm hiểu thực tế tại Tòa án Hành chính TAND Hà Nội (với phương pháp hỏi ý kiến trực tiếp cán bộ trong Tòa hành chính). Tôi tìm hiểu được rõ hơn về quyền hạn thẩm quyền của Tòa hành chính với nội dung: Việc phân định thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính giữa các cấp tòa án căn cứ vào đối tượng bị kiện. Thông thường Tòa án Nhân dân cấp có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Cấp nào có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Tuy nhiên pháp luật quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan cấp bộ, cơ quan thuộc Chính phủ vì những lý do sau đây: 1. Các bộ và cơ quan thuộc Chính phủ là những cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp Trung ương chịu trách nhiệm quản lý ngành và một lĩnh vực nào đó trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, các cơ quan này có thể có các Quyết định HC hoặc Hành vi HC tác động đến quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức ở bất cứ địa phương nào. Nếu quy định bắt buộc mọi khiếu kiện đối với Quyết định HC, Hành vi HC của các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương (Tòa án Nhân dân tối cao) thì trong nhiều trường hợp, các đương sự sẽ gặp khó khăn khi tiến hành khởi kiện nhất là các đương sự ở vùng sâu vùng xa. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho người khởi kiện, pháp luật quy định việc khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý cấp Trung ương được tiến hành tại ngay Tòa án Nhân dân cấp tỉnh, nơi mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc trên trụ sở. 2. Nếu quyết định mọi khởi kiện đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương thì sẽ dẫn đến tình trạng TAND Tối cao sẽ phải giải quyết rất nhiều vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Đây là điều mà chúng ta đang cố gắng hạn chế trong quá trình cải cách tư pháp và xu hướng trên thế giới cũng đang loại trừ dần thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm kháng cáo của các tương sự qua 2 cấp xét xử. (ý kiến của phó chánh tòa hành chính-TAND Hà nội:Bà. Nguyễn Túy Hoa…) 3. Thành tựu của Toà hành chính (Tòa HC-tAND Hà nội) a. Tích cực Kể từ khi Nhà nước quyết định thiết lập cơ chế tài phán hành chính đến nay đã gần 10 năm. Đây thực sự là nét mới trong đời sống pháp luật của xã hội nước ta, mang đậm tính chất dân chủ và pháp quyền. Nó vừa tạo điều kiện để công dân có thêm cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình vừa tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền Nhà nước, trước hết là các cơ quan hành chính Nhà nước, những cơ quan có quan hệ trực tiếp và hàng ngày đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Qua gần 10 năm hoạt động,xét xử HC đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân và góp phần vào việc kiểm tra tính hợp pháp của các Quyết định HC và Hành vi HC của cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu đi vào hoạt động, Tòa án nhân dân các cấp trong đó có Tòa án Nhân dân Hà Nội với phân tòa hành chính, đã thụ lý và giải quyết được một số vụ việc, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan , tổ chức. Tòa án đã tạo điều kiện để các bên thoả thuận và cơ quan HCcó quyết định bị khiếu kiện tự kiểm tra, thu hồi hoặc sửa đổi Quyết định HC của mình cho phù hợp và chấm dứt khiếu kiện trước khi tòa án mở phiên tòa xét xử. Ví dụ: 1. Bản án số 05/HCST (27.8.2004) Thụ lý số: 05/HCST (22.6.2004) Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Minh (Thẩm phán) Hội thẩm nhân dân: Bà Đỗ Thị Minh Chi Ông Vũ Mạnh Đam Đại diện VKSNDTP Hà nội: Ông Trần Hưng Bình (Kiểm sát viên) Thư ký phiên tòa: Bà. Trần Thị Minh Thu (cán bộ Tòa án). Người khởi kiện: Công ty TNHH Nippon Paint Việt Nam Trụ sở: Lô 33 khu công nghiệp Biên Hòa II - Đồng Nai. Người bị kiện: Cục Sở hữu trí tuệ Trụ sở: 384, 386 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. 2. Bản án số: 08/HCST (23, 24/12/04). Thụ lý số: 08/HCST (5/10/2004)… (Xem bảng thống kê số liệu…). b. Hạn chế: Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc xét xử hành chính còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Theo kết quả khảo sát của các cơ quan có trách nhiệm thì kể từ khi đi vào hoạt động cho đến cuối năm 1998 TAND các cấp đã nhận được không dưới 2.000 đơn kiện hành chính nhưng hầu hết là không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định của pháp luật. Từ ngày 01/07/96 đến hết 1997 mới thụ lý 150 vụ và đưa ra xét xử 97 vụ. Năm 1997 chỉ có 24/61 Tòa án cấp tỉnh và 16 Tòa án huyện có xét xử vụ hành chính. Năm 1998 theo thống kê sơ bộ, TAND các cấp mới xử hơn 200 vụ án hành chính. Năm 1999 tòa án giải quyết được 319 vụ trong số 408 vụ án hành chính đã thụ lý. Năm 2000, Tòa án giải quyết được 419 vụ trong tổng số 503 vụ đã thụ lý. Năm 2001 giải quyết được 513 vụ trong số 688 vụ đã thụ lý. Nhìn chung cho đến nay, tình hình xét xử hành chính vẫn chưa có chuyển biến lớn mặc dù tình hình khiếu kiện hành chính nói chung vẫn diễn ra ngày một phức tạp và gay gắt. Theo thống kê của Tòa án hành chính TAND Hà Nội (xem bảng số liệu sau). c. Nguyên nhân. Như vậy có thể thấy số lượng vụ mà tòa án đưa ra xét xử còn ít so với số vụ việc khiếu nại mà các cơ quan hành chính tiếp nhận và quản lý. Có thể nêu khái quát một số nguyên nhân của tình hình trên như sau: Một là, xét xử hành chính là một công việc hoàn toàn mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm, tổ chức bộ máy còn chưa hoàn thiện. Một số địa phương có khó khăn về cơ sở vật chất, đặc biệt là về nhân sự, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, gây tâm lý làm việc tạm, thiếu tập trung của một số cán bộ, thẩm phán. Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng chưa được chú trọng đúng mức và chưa thực hiện tốt trong cả nước. Nhiều người không biết rõ phạm vi thẩm quyền của TA trong việc xét xử hành chính nên đã khởi kiện những vụ việc không thuộc thẩm quyền của tòa án , có vụ việc để quá thời gian khởi kiện. Bên cạnh đó, có bộ phận không nhỏ nhân dân không biết đến sự ra đời của cơ chế xét xử hành chính nên khi quyền và lợi ích của mình bị vi phạm đã không biết khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết. Ba là, về mặt tâm lý xã hội, hoạt động xét xử hành chính còn là điều khá lạ lẫm với nhiều người. Nhiều trường hợp, vụ việc đã có đủ điều kiện để có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng người dân e ngại va chạm với chính quyền nên đã không khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước có tâm lý sợ mất uy tín nếu ra tòa nên đã ủy nhiệm cho cán bộ không đủ thẩm quyền để thay mặt mình tham gia phiên tòa hành chính, gây khó khăn cho tòa án trong quá trình xét xử vụ việc. Việc phải nộp một khoản án phí cho vụ kiện hành chính cũng là một trong những nguyên nhân khiến người dân không muốn khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính (không phải mất chi phí cho việc khiếu nại của mình). Bốn là, đội ngũ thẩm phán chuyên trách có nhiệm vụ xét xử hành chính vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về năng lực chuyên môn. Trong khi đó, yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán hành chính lại khá cao không những phải nắm vững pháp luật mà còn cần có sự hiểu biết khá toàn diện về quản lý hành chính nhà nước trong nhiều lĩnh vực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho hoạt động xét xử hành chính của các Tòa án kém hiệu quả chưa tạo được sự tin tưởng của nhân dân. Số lượng thẩm phán và cán bộ của tòa án hành chính còn hạn chế. Năm là, hiện nay pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử đối với một số vụ án hành chính nhất định. Vì vậy, có rất nhiều vụ việc người dân bị thiệt thòi về quyền lợi nhưng cũng chỉ có thể khiếu nại tại các cơ quan hành chính nhà nước vì pháp luật không quy định Tòa án có thẩm quyền đối với những vụ việc đó. (Theo ý kiến đóng góp của cán bộ Tòa hành chính Hà Nội). Chương 2 Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Tòa hành chính 1. Mô hình của tòa hành chính. a. Cơ cấu tổ chức: ở nước ta hiện nay Tòa hành chính không được tổ chức thành hệ thống độc lập mà thành các tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân . Điều 1- Luật Tổ chức TAND quy định: "TAND Tối cao, các TAND địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước CHXH CNVN. Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, việc giải quyết các khiếu kiện hành chính cơ bản thuộc thẩm quyền TAND các cấp. Theo Khoản 2 Điều 18 và Khoản 1 Điều 27 của Luật tổ chức TAND cơ quan xét xử hành chính tổ chức như sau. Khoản 2. Điều 18: Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao gồm có *. Hội đồng thẩm pháp tòa án nhân dân tối cao. *. Tòa án quân sự trung ương, tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính và các tòa phúc thẩm TANDTC, trong trường hợp cần thiết, UB thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND TC. *. Bộ máy giúp việc. Khoản 1 Điều 27: "cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc TW gồm có; *. Uỷ ban thẩm phán. *. Tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính; trong trường hợp cần thiết UBTV Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. *. Bộ máy giúp việc. Tóm lại, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan chuyên trách xét xử hành chính ở nước ta gồm có các tòa hành chính thuộc cơ cấu tòa án nhân dân tối cao và tòa án nhân dân cấp tỉnh , ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử hành chính. Do đó, Toà hành chính của TAND Hà nội là một toà chuyên trách của TAND TP Hà nội. b.cơ cấu nhân sự: Tại khoản 1 điều 30 Pháp lệnh quy định: các tòa chuyên trách của TAND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có chánh tòa, phó chánh tòa, thẩm phán, thư ký tòa án. Theo tìm hiểu tại Tòa hành chính- TAND Hà Nội chúng tôi được biết cơ cấu nhân sự gồm có: Phó chánh tòa: thẩm phán - Nguyễn Thị Túy Hoa. Hai thẩm phán: Ông Lại Vĩnh Trung. Bà Trần Thị Phương Nga Bốn thư ký: Bà Đặng Thu Phương. Ông Nguyễn Hồng Bách. Bà Trần Thị Thu Minh Bà Bùi Thị Thu. Hiện nay, do chánh tòa hành chính ở đây vừa về hưu, nên phó chánh tòa kiêm chánh tòa quản lý tòa hành chính. 2. Phương thức hoạt động của Tòa hành chính. a. Điều kiện khởi kiện: tại khoản 1 điều 2 Pháp lệnh quy định về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính như sau: "cá nhân, cơ quan nhà nước, mọi tất cả các cơ quan khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định HC, Hành vi HC trong các trường hợp sau đây: *. Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các Điều từ 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại tố cáo, nhưng hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 36 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. *. Đã khiếu nại với người có thẩm quyền khiếu nại lần đầu theo quy định tại các Điều từ Điều 19 đến Điều 25 của luật khiếu nại. Tố cáo nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết khiếu nại tiếp theo". b. Đối tượng xét xử của Tòa án: Đối tượng xét xử của tòa án là Quyết địnhHC và Hành vi HC. Theo quy định tại khoản 1,2 điều 4 Pháp lệnh thì: " Quyết định HC là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước và của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hành động quản lý hành chính". " Hành vi HC là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, cộng vụ theo quy định của pháp luật. c.xác minh thu thập chứng cứ: Tại điều 38-Pháp lệnh quy định: *. Yêu cầu các đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết. *. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Nếu như trong các loại vụ án khác (hình sự, dân sự, kinh tế…) những yêu cầu nói trên của Tòa án có thể được tiến hành một cách thuận lợi thì trong các vụ án hành chính vấn đề không hoàn toàn đơn giản. Bởi vì, người bị kiện ở đây là cơ quan nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Vụ kiện hành chính có thể bị ách tắc nếu cơ quan hành chính tỏ thái độ "bất hợp tác" với tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, như có thể trì hoãn hoặc thậm chí không đáp ứng những nhu cầu của Tòa án. d. Hoạt động xét xử của Tòa án hành chính: tòa án hành chính thuộc TAND cấp tỉnh (Tòa HC TAND Hà nội) có thẩm quyền xét xử án sơ thẩm và án phúc thẩm. Phiên tòa hành chính sơ thẩm cũng như các phiên tòa khác, đều được tiến hành theo những thủ tục chung và có thể chia thành các giai đoạn: - Bắt đầu phiên tòa: là giai đoạn tiến hành những thủ tục cần thiết nhằm ổn định về tổ chức trong phiên tòa, tạo cơ sở cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi, đúng pháp luật. - Xét hỏi tại phiên tòa: là giai đoạn những người do pháp luật quy định nêu câu hỏi về tất cả những vấn đề, tình tiết có liên quan đến vụ án hành chính và người bị hỏi trả lời những câu hỏi đó trong khuôn khổ pháp luật quy định. - Tranh luận tại phiên tòa: là giai đoạn những người do pháp luật quy định đưa ra ý kiến của mình về việc phân tích, xem xét các chứng cứ, với mục đích làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. - Nghị án, là giai đoạn Hội đồng xét xử căn cứ vào mọi tình tiết có liên quan để đưa ra các phán quyết về vụ án. - Tuyên án là giai đoạn cuối cùng của phiên tòa, chủ tọa tuyên bố những phán quyết của Hội đồng xét xử về vụ án trước toàn bộ những người có mặt tại phiên tòa. 3. Thuận lợi, khó khăn. Việc thành lập cơ quan tài chính cũng như thực tiễn hành động, một mặt đã dần khẳng định những nét ưu việt của cơ chế xét xử hành chính nhưng mặt khác, cũng đã bộc lộ nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả hoạt động cũng như ý nghĩa của việc thiết lập cơ quan tài phán hành chính. Hệ thống các văn bản về tố tụng hành chính không chỉ quá ít mà còn có nhiều điểm mâu thuẫn chồng chéo. Trong khi những vướng mắc trong xét xử hành chính thì nhiều nhưng không có sự hướng dẫn kịp thời một cách chính thức mà chủ yếu thông qua các đợt tập huấn, luân huấn, trao đổi nghiệp vụ của ngành Tòa án. Bên cạnh đó, số lượng thẩm phán hành chính còn thiếu và phần lớn lại chưa được đào tạo bồi dưỡng thêm về những kiến thức quản lý, một yêu cầu quan trọng của một người có quyền phán xét các hoạt động quản lý của cơ quan hành chính công. Mặt khác trình tự, thủ tục tố tụng còn đơn giản và sao chép từ quy định của tố tụng dân sự, kinh tế, chưa căn cứ vào những nét đặc thù của xét xử hành chính để tiên liệu những khó khăn và phương cách giải quyết trong những vụ án hành chính, đặc biệt là những khó khăn xuất phát từ phía người bị khởi kiện là cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra điều kiện khởi kiện còn quy định quá rườm rà và chưa tạo thuận lợi cho công dân có thể kêu kiện khi cho rằng quyền, lợi ích của mình bị xâm hại. Hơn thế nữa, quyền hạn của tòa án trong xét xử hành chính còn chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân chưa được chú trọng nên chưa tạo ra được một cơ chế nhịp nhàng và hiệu quả. 4. Nhận xét đánh giá : Tựu chung lại, cơ chế tài phán hành chính ở nước ta còn nhiều bất cập đòi hỏi phải tiếp tục được hoàn thiện trong thời gian tới. Chính vì vậy, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 35/1998/CT-TTg ngày 9/10/1998 đề nghị Chánh án TAND Tối cao chỉ đạo các Tòa hành chính tổng kết việc giải quyết các vụ án hành chính kể từ khi có pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đến nay, trong đó có sự phối hợp với tổng thanh tra nhà nước trong việc giải quyết các khởi kiện hành chính. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết, yêu cầu Bộ tư pháp phối hợp nghiên cứu đề xuất chủ trương, biện pháp mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án. Kiện toàn tổ chức, cán bộ đi đôi với bổ sung pháp luật, thể chế làm cơ sở cho việc xét xử hành chính nhằm từng bước chuyển các khiếu kiện của công dân đối với cơ quan, công chức hành chính sang phương thức tranh tụng, xét xử tại tòa án theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là :"khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của tòa án hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính". Chương 3 Phương hướng đổi mới, một số kiến nghị và giải pháp 1. Phương hướng đổi mới. Định hướng nâng cao vai trò của tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính mà đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu lên một lần nữa đã khẳng định việc thiết lập cơ chế tài pháp hành chính ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của quá trình dân chủ hóa, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi của người dân kể từ khi được thiết lập cho đến nay. Cơ chế tài phán hành chính và thực tiễn xét xử hành chính đã cho phép chúng ta rút ra được những kinh nghiệm bước đầu để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Kết quả xét xử hành chính những năm qua còn khiêm tốn và tương đối ít ỏi nhưng có thể coi đó là giai đoạn "thử nghiệm" một phương thức mới trong việc giải quyết khiếu kiện của người dân hiện nay. Chúng tôi đã được về thực tập tại Tòa hành chính, đã có dịp khảo sát thực tiễn xét xử hành chính và rút ra được những nhận xét bước đầu đối với hoạt động này. Những khó khăn, thuận lợi những ưu điểm, nhược điểm bất cập trong các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Đó là những điều kiện để tiến hành đổi mới cơ bản hoạt động tài phán hành chính và coi đây là phương thức căn bản để giải quyết các khiếu kiện của công dân. Sự đổi mới này liên quan đến nhiều mặt của cơ chế:. Xác định lại thẩm quyền xét xử hành chính, điều chỉnh quy định của pháp luật về tố tụng hành chính cho phù hợp với đặc điểm của việc giải quyết một vụ kiện hành chính ;và kể cả việc đổi mới tổ chức cơ quan tài phán HC,cũng như vấn đề về thẩm phán HC nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Gồm có các phương hướng đổi mới cơ bản như sau: 1. Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính phải gắn bó chặt chẽ và nằm trong tiến trình chung của cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính phải được tiến hành từng bước cùng với quá trình cải cách hành chính và cải cách bộ máy nhà nước. Mọi sự nôn nóng, muốn nhanh chóng đổi mới triệt để cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính sẽ không mang lại hiệu quả và thậm chí có thể gây ra sự phức tạp thêm cho quá trình này. 2. Đổi mới nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính cần phải tính đến các yếu tố cấu thành của nó để có sự tác động một cách hợp lý tới từng yếu tố. Điều đó có nghĩa rằng, một mặt chúng ta phải hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại theo cấp hành chính bằng con đường hành chính; đồng thời cần tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án đối với những vụ án hành chính để rút kinh nghiệm và tiếp tục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28106.doc