MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI 2
I.Tồn tại xã hội và ý thức xã hội: 2
1. Tồn tại xã hội : 2
2 . Ý thức xã hội: 2
II. Mối quan hệ biện chứng giưa tồn tại xã hội vá ý thức xã hội 3
1. Mối quan hê biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 4
1.1 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội : 4
1.2. Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội: 4
1.3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội : 5
1.4. Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội : 5
2.Ý nghĩa phương pháp luận : 5
CHƯƠNG II: TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM 7
I. Tâm lý xã hội của con người Việt Nam hiện nay : 7
1.Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng : 7
1.1 Tâm lý xã hôi: 7
1.2 Hệ tư tưởng : 8
1.3 Mối quan hệ giữa hệ tu tưởng và tâm lý xã hội: 8
2.Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ : 8
2.1 Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ 8X 8
2.2 Một số giải pháp nhằm khắc phục: 10
II. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay 11
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13969 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vận dụng tìm hiểu tâm lý xã hội con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tri thức , những quan niệm của nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh ,được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa ,khái niệm hóa thành lý luận .Theo ý thức xã hội thông thường ,tâm lý xã hội là một phận xã hội quan trọng .
Ý thức xã hội thông thường thường phản ánh sinh động trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người ,thường xuyên chi phối cuôc sống đó .
Ý thức lí luận là những tư tưởng đã được hệ thống hóa , khái quát hóa thành những học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng những khái niệm ,phạm trù ,quy luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh giá hiện thực khoa học một cách khái quát và sâu sắc và chính xác ,vạch ra những mối liên hệ về bản chất của các sự vật và hiện tượng
II. Mối quan hệ biện chứng giưa tồn tại xã hội vá ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội ,ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội , phụ thuộc vào tồn tại xã hội .Mỗi khi tồn tạ xã hội ,nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì tư tưởng và lý luận xã hội,những quan điểm về chính trị, pháp quyền ,triết học ,đạo đức ,văn hóa nghệ thuật …sớm muộn sẽ biến đổi theo
Các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là sự sản xuất của cải vật chất và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất ấy. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là phản ánh của tồn tại xã hội, bao gồm nhiều trình độ khác nhau (ý thức thông thường, ý thức lí luận) và nhiều hình thái khác nhau (chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học, v v.). Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng có tính độc lập tương đối của nó, thể hiện trên những nét cơ bản là :
-) Có tính kế thừa, có lôgic phát triển nội tại, có sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
-) Ý thức khoa học, tiến bộ có thể dự báo triển vọng của xã hội, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội thông qua thực tiễn của con người; ngược lại, ý thức sai lầm, lạc hậu, có thể xuyên tạc, kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
1. Mối quan hê biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1.1 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội :
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội ,mà còn chr ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian .Không phải bất cứ tư tưởng quan điểm ,lý luận ,hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại ,mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy
1.2. Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu ,nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng.Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống ,tập quán ,thói quen …
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây:
- Một là : sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lac hậu .Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội
- Hai là :do sức mạnh của thói quen .truyền thống ,tập quán cũng như do tính lạc hậu ,bảo thủ của một số hình thái xã hội
- Ba là : Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tập đoàn người ,những giaii cấp nhất định trong xã hội.
1.3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội :
Trong những điều kiện nhất định ,tư tưởng của con người đặc biệt là những tu tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người ,hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra
1.4. Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội :
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh
2.Ý nghĩa phương pháp luận :
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biên chứng của đời sống xã hội .
Cần thấy rằng ,thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội ,mặt khác ta cũng thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội ,mà ngược lại ,những tác động của đời sống tinh thần xã hội ,với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ ,sâu sắc trong tồn tại xã hội
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ,một măt phải coi trọng cuộc cách mang tư tưởng văn hóa ,phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế vàcông nghiêp hóa ,hiện đại hóa đất nước ;mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dưng văn hóa ,xây dựng con người mới .Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập ,phát triển được phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự công nghiệp hóa ,hiện đại hóa
CHƯƠNG II
TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Nước ta đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại và nhiều người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào xây dựng công nghiệp, xã hội hiện đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện đại không chỉ bắt nguồn từ trạng thái kinh tế mà còn là một trạng thái văn hoá và tâm lý. Do vậy nếu chúng ta không tạo ra được những con người cá nhân ngày càng độc lập , chủ động ,có đạo đức thì chưa có đủ tiền đề để đi tới xã hội hiện đại.
I. Tâm lý xã hội của con người Việt Nam hiện nay :
1.Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng :
1.1 Tâm lý xã hôi:
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm ,ước muốn ,tâm trạng, tập quán.. của con người ,của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con người ,là sự phản ánh có tính chất tự phát,thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội .Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ ,rõ ràng ,sâu sắc bản chất các mối quan hệ của con người
Những quan điểm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh nghiệm ,chưa được thể hiện về mặt lý luận ,yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình cảm .Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò của tâm lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội
1.2 Hệ tư tưởng :
Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội ,là hệ thống những quan điểm ,tư tưởng ( chính trị, triết học, nghệ thuật , tôn giáo …),kết quả của sự khái quat hóa những kinh nghiệm xã hội . Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hôi
1.3 Mối quan hệ giữa hệ tu tưởng và tâm lý xã hội:
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội là hai trình độ ,hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội ,nhưng có mối quan hệ ,tác động qua lại với nhau ,chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội ,đều phản ánh tồn tại xã hội
Tâm lý xã hội có mối liên hệ hữu cơ với hệ tư tưởng :
Cuộc sống sinh động phong phú sẽ giúp cho hệ tư tương xã hội,cho lý luận bớt xơ cứng ,bớt sai lầm ,và ngược lại hệ tư tưởng ,lý luận xã hội,gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội
2.Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ :
2.1 Thực trạng tâm lý xã hội thế hệ trẻ 8X
-Thế hệ 8x do có sự tiếp xúc học hỏi với nhiều nền văn hóa, đặc biệt từ văn hoá Âu Mỹ nơi chủ nghĩa cá nhân cũng như các giá trị về năng lực bản thân được ưu tiên coi trọng – do đó, những tư tưởng táo bạo, dám nghĩ dám làm đã thực sự trở thành kim chỉ nam cho những ý tưởng sáng tạo, lao động. Chính nhờ điều đó, một bộ phận thế hệ 8x đã bắt đầu gây được những tiếng vang trong lĩnh vực hoạt động của mình - chủ yếu là hoạt động kinh doanh và khoa học kỹ thuật. Thực tế, con người Việt Nam với truyền thống văn hoá Á Đông gắn liền nhiều đặc điểm của sự khiêm nhường, hành xử một cách kính trọng theo chủ ý của những bậc tiền bối, cấp trên. Vì vậy, sự thay đổi lớn về tư tưởng này của lớp trẻ như một cuộc cách mạng thực sự với tất yếu là những hiệu quả ngay lập tức.
Mặc dù vậy, giới trẻ Việt Nam nói chung, thế hệ 8x nói riêng đang gặp những vấn đề mà không phải lúc nào cũng tư nhận ra được.
Thứ nhất, chính vì những điều kiện thuận lợi ở trên hay nói cách khác là gặp được “thiên thời, địa lợi”, 8x đạt được những thành công bước đầu cũng như nhận được sự ủng hộ, quan tâm của toàn xã hội. Cũng từ đó, một bộ phận đã vội vàng kết luận một cách thiếu logic rằng: thiên thời, địa lợi, nhân hoà dẫn đến thành công và ngược lại khi có thiên thời, địa lợi, thành công nghĩa là có nhân hoà. Việc này tác động không nhỏ đến tâm lý của chính thế hệ 8x, dễ dẫn đến trạng thái kiêu căng cũng như ngủ quên trên chiến thắng mà không tiếp tục học tập ở chính những thế hệ đi trước. Những sự tiếp thị thương hiệu 8x quá mức, phô trương chính là một dẫn chứng cho lý luận này.
Thứ hai, một thực tế là việc giáo dục đạo đức tư tưởng hoặc chưa được coi trọng đúng mức hoặc quá cứng nhắc lý thuyết nên 8x chưa được trang bị đầy đủ những lý luận về mặt tư tưởng khi bước ra hoà nhập cùng thế giới. Mỗi một xã hội đều tồn tại những hạn chế chưa thể giải quyết được và đó được coi là tất yếu, là mâu thuẫn làm động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, khi chưa được sự chuẩn bị kỹ về phương tiện lý luận cộng thêm sự choáng ngợp với những thành tựu trước mắt của các xã hội khác, thế hệ 8x dễ rơi vào tình trạng bi quan hoặc có cái nhìn tiêu cực về xã hội Việt Nam. Điều này có thể làm cho quá trình hội nhập trở thành một sự hoà tan chứ không đơn thuần là sự hợp tác tự chủ cũng như rất dễ bị chi phối bởi những ý đồ của các đối tác.
Thứ ba, trong quá trình tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hoá của phương Tây, thế hệ 8x tiếp thu rất nhiều những giá trị của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân phương Tây trải qua một quá trình phát triển từ rất lâu và hiện nay đã tiến đến một chủ nghĩa cá nhân có giới hạn, gắn liền với những giá trị chung của cộng đồng, xã hội. Người phương Tây đã nhận thức được những vai trò ảnh hưởng của cộng đồng, xã hội đến những tự do, quyền lợi của chính cá nhân họ. Vì thế, khi thế hệ trẻ Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa cá nhân phương Tây giai đọan đầu, nó rất dễ dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi và làm lu mờ đi các giá trị cần phải có để thúc đẩy xã hội phát triển. Điều nguy hiểm là một bộ phận 8x xem những tiếp thu về chủ nghĩa cá nhân giai đọan đầu ấy như một niềm tự hào về những giá trị văn minh của chính bản thân.
- Bên cạnh đó tồn tại những tâm lý , suy nghĩ ,tệ nạn như: Nghiện hút, tiêm chích, thuốc lắc, sinh hoạt tình dục phóng khoáng, thời trang phi giới tính, đồng tính học đường, trầm cảm, tự sát, u uất,... những biểu hiện của nhiều thanh thiếu niên hiện nay đang gây thất vọng cho các bậc phụ huynh, bất lực của nhà trường và nhức nhối của xã hội.
2.2 Một số giải pháp nhằm khắc phục:
Một là: Duy trì và xây dựng nền giáo dục gia đình:
Đào tạo gia đình là nơi sẽ đào tạo lại thanh thiếu niên là vấn đề của tương lai gần. Chúng ta không nên tham gia phá vỡ gia đình nhiều thế hệ vì rõ ràng là hiện nay những gia đình hạt nhân gặp nhiều khó khăn hơn.” Trong xã hội Việt Nam hiện nay, mâu thuẫn ngày càng lớn giữa bố mẹ và con trẻ trong gia đình. Vấn đề giáo dục đạo đức và giới tính không được coi trọng trong gia đình là một trong những thiệt thòi đối với thanh thiếu niên VN hiện nay. Tuy nhiên “không nên tham gia quá trình phá vỡ gia đình nhiều thế hệ. Cần duy trì môi trường giáo dục này với những thoả hiệp và tôn trọng lẫn nhau. Bố mẹ cần học tập, cần dành nhiều thời gian tìm hiểu về tâm sinh lý con cái cũng như hiểu về thế giới mới của trẻ tiếp xúc. Trên thực tế, gia đình luôn là chỗ dựa vững chắc cho giới trẻ trước những biến động tâm lý, tình cảm trong suốt hành trình của cuộc sống
Hai là: Tăng cường giáo dục đạo đức ở học đường Nhà trường là môi trường rèn luyện cho mỗi cá nhân học sinh ,sinh viên. Do đó nhà trường cần quán triệt việc giáo duc rèn luyện đạo đức ,phẩm chất cho học sinh ,sinh viên
Ba là : Pháp luật ngày càng phải nghiêm khắc đối với nhưng việc làm thiếu đạo đức ,những tư tưởng văn hóa thiếu lành mạnh
Bốn là : Quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải tư nhận thức được những việc mình làm ,thường xuyên trau dồi phẩm chất , đạo đức ,ý thức ,tránh tiếp thu những văn hóa không lành mạnh …
II. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công mới, văn hoá mới, con người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của công cuộc xây dựng xã hội mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (1). Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một số định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội
Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây dựng ” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư tưởng, nhưng cũng có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hoá và con người luôn có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống của dân tộc. Đó không chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà còn tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngoài. Quá trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị tinh thần truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân tộc phải được thể hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xoá bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thông qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã hội mới một cách chủ động và trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.
Ngoài ra , về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái...
KẾT LUẬN
Ý thức xã hội, đời sống tinh thần là một hiện tượng do xã hội quy định không chỉ về cơ chế phát sinh và phát triển , mà cả về tính chất tồn tại lẫn vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nó là một hiện tượng của xã hội, là dạng đặc thù của thực tại . Cho nên, theo em, ý thức xã hội , đời sống tinh thần không phải là cái chung thuần tuý, mà được thể hiện trong một hệ thống: "Con người-hoạt động- giao tiếp- xã hội- lịch sử-ngôn ngữ-văn hoá"
Tính hệ thống của ý thức xã hội, của đời sống tinh thần thể hiện trong tiến trình vận động và phát triển của các cá nhân kế tiếp nhau qua các chế độ chính trị -xã hội và các thời đại khác nhau trong tiến trình phát triển của lịch sử. Tất nhiên, không thể xem ý thức xã hội , đời sống tinh thần là một hệ thống phi nhân cách của những tư tưởng trừu tượng, thoát khỏi con người rồi thống trị mặt tinh thần của con người bằng tổng thể lịch sử của nó. Ý thức xã hội không phải là tổng số những ý thức cá nhân được hiểu một cách máy móc,đơn giản. Cho nên đời sống tinh thần của con người và xã hội cũng không thể đồng nhất với ý thức xã hội như là cái đứng trên cá nhân, không bao hàm ý thức cá nhân...; nó phải được hiểu là một sự thống nhất biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân, đời sống tinh thần của xã hội và của cá nhân cùng với tính cộng đồng của các tập đoàn xã hội và toàn xã hội.
Thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo quy luật khách quan đòi hỏi ý thức xã hội phải có những biến đổi phù hợp với nó,tuy nhiên ý thức xã hội biến đổi theo một chiều hướng tiêu cực sẽ kìm h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10626.doc