MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài 4
I. Khái niệm, phân loại và bản chất của nguồn vốn 4
1. Khái niệm: 4
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư: 4
3. Bản chất nguồn vốn đầu tư 8
II. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 9
1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng 9
2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài 12
CHƯƠNG II: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 23
I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định 23
1. Nguồn vốn trong nước mang tính ổn đinh và bền vững, có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng. 23
2. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào những ngành, lĩnh vực cần thiết 26
3. Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài 30
4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả. 34
5. Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế. 36
II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước 40
1. Thành tựu 40
2. Hạn chế: 49
Chương III: Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. 52
I. Nguồn vốn trong nước: 52
1. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư: 52
2. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: 53
II. Nguồn vốn nước ngoài: 54
1. Đối với nguồn vốn FDI: 54
2. Đối với nguồn vốn ODA: 56
LỜI KẾT 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
63 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6119 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tiết kiệm, phấn đấu giảm bội chi”. Ở Việt Nam, khu vực đầu tư trong nước đang ngày càng khẳng định được vai trò quyết định của mình đối với nền kinh tế và đã đạt được một số thành công nhất định.
Bảng 1: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Năm
100%
Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn nước ngoài
1995
100
69,6
30.4
1996
100
74,0
26,0
1997
100
72,0
28,0
1998
100
79,2
20,8
1999
100
82,7
17,3
2000
100
82,0
18,0
2001
100
82,4
17,6
2002
100,0
82,6
17,4
2003
100,0
84,0
16,0
2004
100,0
85,8
14,2
2005
100,0
85,1
14,9
2006
100,0
83,8
16,2
2007
100,0
75,7
24,3
2008
100,0
69,1
30,9
2009
100,0
74,5
25,5
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Thực tế cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên 70% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Vốn đầu tư trong nước chiếm tỷ trọng lớn và ổn đinh như vậy giúp các nhà hoạch định chính sách dễ dàng hơn trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự đoán được tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng liên tục từ năm 1995 đến năm 2001 (từ 42.0% lên 59.8%) nhưng đến nay đang có xu hướng giảm dần đồng thời khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng lớn mạnh hơn, chiếm tỷ trọng tăng dần trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (năm 2007, 2008 vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã vượt qua cả khu vực kinh tế nhà nước). Điều này là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế bởi khu vực tư nhân là một khu vực năng động, có thể tăng trưởng nhanh và tạo việc làm mà không cần có sự hỗ trợ nào từ ngân sách nhà nước. Việc khuyến khích huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đặc biệt là ngồn lực trong dân cũng là chủ trương của Đảng và nhà nước ta trong những năm qua và trong thời gian tới. Nhà nước chủ trương cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chuyển đổi hình thức doanh nghiệp nhà nước. Trước đây vốn cho doanh nghiệp nhà nước chủ yếu được cấp từ ngân sách thì nay thực hiện cổ phần hóa để đa dạng hóa các nguồn vốn, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế, quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Trong giai đoạn 1996 – 2000, để phù hợp với sự phát triển kinh tế, ngân sách nhà nước bước đầu được cơ cấu lại theo hướng tích cực và có hiệu quả hơn. Việc cải cách thuế giai đoạn hai cùng với triển khai luật ngân sách đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 7%, cao hơn mức tăng bình quân GDP của giai đoạn này. Trong giai đoạn 2001- 2005, tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước hàng năm bình quân đạt gần 23% GDP. Trong giai đoạn 2006 – 2007, tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 1.547 ngìn tỷ đồng, vượt 16,2% so với dự toán và gấp 2,8 lần tổng số thu giai đoạn 2001 – 2005. Nguồn vốn ngân sách nhà nước ổn định và gia tăng qua từng thời kỳ sử dụng để cân đối chính yếu trong nền kinh tế, là một trong những công cụ đầu tư trực tiếp của nhà nước. Ngân sách nhà nước góp phần trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo đúng định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 1996 – 2000, chi cho đầu tư phát triển tăng lên bình quân khoảng 25% GDP trong tổng chi ngân sách nhà nước. Tổng nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước bình quân 5 năm chiếm 21.5% tổng vốn đầu tư xã hội. Trong giai đoạn 2001 – 2005, chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30.2% tổng chi ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn này, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22.3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Như vậy, chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển cũng tăng qua từng giai đoạn và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước cho các ngành kinh tế tập trung chủ yếu ở lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải, bưu chính viễn thông. Tỷ trọng đầu tư cho giao thông vận tải tăng từ 21% lên 22,6% giai đoạn 2007 – 2010. Các ngành giao thông vận tải, nông – lâm – ngư nghiệp vẫn được ưu tiên đầu tư từ ngân sách để hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém. Từ mức 18% năm 2007, đầu tư cho nông – lâm – ngư nghiệp và thủy lợi đã tăng lên, chiếm 20.5% trong tổng chi đầu tư phát triển năm 2010.
Trong 5 năm tới, Chính phủ xác định các tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển phải phù hợp với quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 -2015 đạt 7,5 - 8%/năm. Tổng đầu tư toàn xã hội dự kiến khoảng 41 - 42% GDP. Cơ cấu chi đầu tư phát triển,, chi thường xuyên và chi trả nợ được cân đối ở mức hợp lý. Trong đó, chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước (không bao gồm đầu tư từ trái phiếu Chính phủ) chiếm khoảng 25 -27% tổng chi ngân sách Nhà nước, bằng 19 -20% tổng mức đầu tư toàn xã hội.
Tóm lại, với các quốc gia đang phát triển, việc thu hút và tận dụng các nguồn ngoại lực bên ngoài là vô cùng quan trọng và cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng xét về lâu dài, để đảm bảo sự phát triển bền vững thì nguồn vốn trong nước vẫn đóng vai trò quyết định vì sự chủ động, ổn đinh và an toàn của nguồn vốn này. Hơn nữa, nguồn vốn trong nước còn là cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài hoạt động hiệu quả hơn, đúng theo định hướng phát triển của nhà nước.
2. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào những ngành, lĩnh vực cần thiết
Đầu tư trong nước tác động rất lớn đến đầu tư nước ngoài trong việc định hướng cho dòng chảy đầu tư nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực cần thiết phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Khi đầu tư trong nước được tập trung tạo ra cơ sở hạ tầng, nguồn năng lực cho một ngành nhất định thì làm cho chi phí trung gian trong sản xuất của ngành đó giảm đi, tỷ suất lợi nhuận trong ngành tăng lên làm các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được đầu tư vào ngành đó hơn.
Trong những năm gần đây, chính phủ Việt Nam chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng như sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo. Các ngành xây dựng và phát triển giao thông, cảng biển, điện nước, xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển nguồn nhân lực liên quan đến giáo dục đào tạo, y tế, thể thao… cũng là những ngành chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, thu hút vốn FDI cũng ưu tiên tập trung phát triển các vùng khó khăn, khu vực nông nghiệp và nông thôn, ưu tiên các dự án sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng…
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng, có chọn lọc như trên đã bước đầu mang lại hiệu quả. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong vài năm trở lại đây không chỉ thay đổi về lượng mà cả về chất với sự có mặt của hàng loạt tập đoàn có tên tuổi trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel, Foxcon, Samsung... Theo Cục Đầu tư nước ngoài, đến ngày 15-12-2009, đã có 839 dự án mới có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD; có 215 dự án đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, như vậy các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD. Đáng chú ý, số vốn thực hiện tính đến hết tháng 11 đã đạt khoảng 9 tỷ USD, nhìn chung tiến độ triển khai phù hợp với dự báo. Các chuyên gia cho rằng trong bối cảnh suy giảm đáng kể dòng vốn FDI tại các nước tiếp nhận trên thế giới, con số này vào nước ta tuy có sụt giảm nhưng mức ít hơn.
Về tổng thể, cả nước hiện có gần 11.000 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký xấp xỉ 175 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành kinh tế. Điểm đáng chú ý là đến thời điểm này, công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút vốn FDI lớn nhất, chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn đăng ký. Sau khi Luật Kinh doanh bất động sản được ban hành, lĩnh vực bất động sản đã thu hút mạnh mẽ vốn trong hai năm trở lại đây, trở thành lĩnh vực đứng thứ hai trong thu hút FDI với 312 dự án, tổng vốn đăng ký 38,4 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 22%). Tuy nhiên, tính riêng trong năm 2009, dịch vụ (lưu trú, ăn uống) mới là lĩnh vực thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư nước ngoài; kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm; lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba với 2,97 tỷ USD.
Sở dĩ, đạt được những thành tựu trên vì Việt Nam đã xác định được chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đúng đắn, phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước đặc biệt là chi ngân sách nhà nước đã được sử dụng hiệu quả hơn trong việc định hướng cho các dòng đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng và các vùng cần thiết.
Cộng đồng quốc tế đánh giá cao về nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam với việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ thống cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được cải thiện và xây dựng thêm. Các địa phương, tỉnh, thành phố cũng triển khai thu hút, quản lý vốn FDI bằng nhiều biện pháp tích cực như hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động. Công tác xúc tiến đầu tư cũng được triển khai mạnh mẽ. Nhiều hội thảo, hội nghị xúc tiến đầu tư đã được tổ chức nhằm đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành, các vùng cần thiết.
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988- 2009 phân theo ngành kinh tế
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
12575
194429.5
Công nghiệp chế biến
7475
88579.5
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
1867
45505.7
Khách sạn và nhà hàng
379
19402.8
Công nghiệp khai thác mỏ
130
10980.4
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
554
8435.3
Xây dựng
521
7964.4
Nông nghiệp và lâm nghiệp
575
3837.7
HĐ văn hóa và thể thao
129
2838.0
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
72
2231.4
Tài chính, tín dụng
69
1103.7
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
322
1041.6
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
73
1033.3
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
118
658.3
Thủy sản
163
541.4
Giáo dục và đào tạo
128
275.8
Nguồn: Tổng Cục thống kê và tổng hợp của tác giả.
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo ngành kinh tế trong giai đoạn 2000 – 2009 đều tăng dần qua các năm. Trong đó, qua các năm, 5 ngành có vốn đầu tư nhiều nhất theo thứ tự là: giao thông vận tải và thông tin liên lạc, năng lượng và nước, công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác mỏ, nông nghiệp và lâm nghiệp. Qua đó, thấy được chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện đẩy mạnh phát triển các ngành, các lĩnh vực theo đúng định hướng đã đề ra, không những nhằm tạo động lực phát triển các ngành quan trọng mà còn tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào những ngành này thông qua việc giảm chi phí, tăng tỷ suất lợi nhuận cho họ. Tương ứng với đó, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành kinh tế trong giai đoạn 1988 – 2000 cũng có xu hướng đầu tư nhiều vào các ngành: công nghiệp chế biến, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, công nghiệp khai thác mỏ, vận tải và thông tin liên lạc. Đặc biệt, khách sạn và nhà hành là lĩnh vực được khá nhiều các nhà đầu tư nước ngoài chọn để đầu tư vào Việt Nam, là lĩnh vực đứng thứ hai về số lượng vốn đăng ký . Tuy nhiên, nông nghiệp và lâm nghiệp vẫn chưa thực sự thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. Đây là lĩnh vực có vốn đầu tư khá lớn từ Nhà nước nhưng số vốn đăng kí đầu tư vào lĩnh vực này của các nhà đầu tư nước ngoài trong suốt giai đoạn 1988 – 2009 chỉ là 3837.7 triệu đô la Mỹ. Mỗi dự án có quy mô vốn đầu tư không lớn.
Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là phát triển cân đối các vùng, giảm khoảng cách chênh lệch giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, một phần ngân sách nhà nước đã được dùng để đầu tư hỗ trợ cho các địa phương còn yếu kém, vùng sâu, vùng xa để thu hút đầu tư nước ngoài vào các địa phương này. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào các trung tâm kinh tế, các vùng kinh tế phát triển, nhiều nhất là Đông Nam Bộ. Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc là hai vùng kinh tế thu hút được ít nhất vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông và thông tin liên lạc khó khăn điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Do vậy, nhà nước cần đầu tư hơn nữa và chiến lược phát triển đúng đắn nhằm kéo kinh tế của các vùng này phát triển.
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2009 phân theo địa phương
Số dự án
Vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ)
CẢ NƯỚC
12575
194429.5
Đông Nam Bộ
7344
89662.9
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
820
51735.6
Đồng bằng sông Hồng
3230
37763.0
Đồng bằng sông Cửu Long
580
8150.0
Dầu khí
66
3597.5
Trung du và miền núi phía Bắc
371
2030.3
Tây Nguyên
164
1490.2
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Trong quá trình thực hiện thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn một số bất cập như công tác giải phóng mặt bằng đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong thời gian qua. Quy định hiện tại về trách nhiệm của địa phương bàn giao "đất sạch" cho nhà đầu tư nước ngoài dẫn tới áp lực lớn về chi ngân sách khi thúc đẩy giải ngân vốn FDI. Kết quả, nhiều dự án lớn được cấp phép nhưng chưa thể triển khai vì chưa có mặt bằng. Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, công tác xúc tiến đầu tư tại nhiều địa phương hiện chưa chuyên nghiệp do... thiếu kinh phí (phần lớn địa phương tự chủ ngân sách dành cho hoạt động này) trong khi từ năm 2008, Chính phủ đã quyết định chi ngân sách cho công tác xúc tiến đầu tư, tuy nhiên việc giải ngân lại rất chậm chạp do... chưa có hướng dẫn. Một điểm đáng chú ý khác là trong khi chúng ta cần phải dành dụm từng đồng vốn thì công tác xúc tiến đầu tư lại thiếu thống nhất, dẫn tới tình trạng tổ chức quá nhiều hội thảo, hội nghị xúc tiến đầu tư trên cùng một địa bàn.
3. Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua. Trong một báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới, nhan đề “Việt Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng” đã ghi lại những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam. Trong đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990 và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự tăng trưởng khá mạnh mẽ và liên tục của kinh tế. Cơ sở hạ tầng bị quá tải, phát triển không đồng bộ gây lo ngại cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt, hiện nay nổi cộm là tình trạng thiếu điện năng cho sản xuất, chi phí điện năng và viễn thông đắt đỏ, chất lượng đường xá không đồng đều tại các nơi khác nhau của Việt Nam hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến đường ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển hàng hóa,…
Theo ông Preben Hjortlund, Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu, mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, ngân sách Nhà nước và vốn ODA vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Ông Preben cho rằng, phát triển hạ tầng tại Việt Nam đang diễn ra chậm hơn so với tăng trưởng kinh tế và điều này đang là một gánh nặng đối với các nhà đầu tư.
Đồng tình với quan điểm trên, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam Jeff Puchalski nhấn mạnh, những hạn chế về cơ sở hạ tầng vật chất ở Việt Nam đang bắt đầu đe dọa đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và cả xuất khẩu trong tương lai. "Việt Nam đã thành công trong việc phát triển năng lực sản xuất. Nhưng nếu không chú ý đến vấn đề giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác sẽ không thể giải quyết được sự tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai", ông nói thêm.
Năm nay có khá nhiều công ty thuộc nhiều ngành nghề khác nhau của Nhật đầu tư sang Việt Nam, đặc biệt trong đó có sự tham gia của nhiều nhà cung cấp cho các công ty sản xuất lớn như ô tô, xe máy, máy móc thiết bị văn phòng... Đại diện của Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho biết, thời gian tới, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư từ xứ sở mặt trời mọc đến với Việt Nam. Trong bình chọn của các công ty Nhật về địa điểm đầu tư có triển vọng về trung hạn, Việt Nam đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Tuy nhiên, hiện không ít nhà đầu tư Nhật rất lo lắng về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt là vấn đề điện năng. "Đối mặt với tình trạng thiếu điện mới xảy ra mùa hè năm nay ở Hà Nội, nhiều công ty e ngại rằng từ năm sau tình trạng này sẽ tiếp tục xảy ra", đại diện của Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản cho biết.
Hiện nay, các nhà tài trợ quốc tế tài trợ gần 40% tổng đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong 5 đến 10 năm tới, Việt Nam cần khoảng 70-80 tỷ USD để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Việc phát triển cơ sở hạ tầng được coi là một trong những nhiệm vụ chính để nước ta đạt được sức cạnh tranh hiệu quả hơn trong khu vực cũng như hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, khi Việt Nam giàu mạnh hơn, hỗ trợ từ các nhà tài trợ sẽ đóng vai trò thứ yếu và việc tìm kiếm nguồn tài chính thay thế là rất cần thiết. Các chuyên gia của các tổ chức quốc tế cho rằng, để giải quyết những bất cập của cơ sở hạ tầng hiện nay, sự tham gia của khu vực tư nhân - cả trong nước và nước ngoài - đang là sự cần thiết cấp bách, đặc biệt trong lĩnh vực điện, viễn thông và cảng nước sâu. Đến nay ở Việt Nam có khoảng 60 dự án BOT hoặc các dự án có hình thức tương tự đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng với tổng vốn đăng ký là 44.610 tỷ đồng, trong đó có 43 dự án xây dựng công trình giao thông. Tuy nhiên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới có 18 dự án đầu tư vào lĩnh vực điện, nước và bưu chính viễn thông. Từ các số liệu này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Cao Viết Sinh cho rằng, mức độ đầu tư của khu vực tư nhân vào đầu tư toàn xã hội nói chung, vào cơ sở hạ tầng nói riêng chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của khu vực kinh tế năng động và có tiềm năng này.
Ông Joshua Magennis, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Australia tại Việt Nam phàn nàn, trong khi Chính phủ Việt Nam vẫn thường xuyên kêu gọi đầu tư hơn nữa vào cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật của Việt Nam quy định về các dự án phát triển cơ sở hạ tầng chỉ được xây dựng một cách chậm chạp và việc thực hiện và mong muốn thực sự cho phép đầu tư của tư nhân và nước ngoài vào cơ sở hạ tầng vẫn còn vắng bóng.
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư - Võ Hồng Phúc cũng thừa nhận còn những hạn chế về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực điện năng. Ông cho biết, vấn đề lớn nhất trong ngành điện lực hiện nay là nhu cầu bức xúc về nguồn vốn. Hiện Việt Nam đang triển khai một loạt nhà máy điện, nguồn vốn trong nước cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu của thị trường điện và Việt Nam đã tính đến phương án cổ phần hóa để có nguồn vốn đầu tư thêm.
"Một bài học nhãn tiền là trong tháng 5-6 vừa qua là thiếu điện trong sản xuất. Nếu để đảm bảo phát triển ngành điện thì phải có sự hội tụ nguồn vốn của khu vực tư nhân cả trong nước và nước ngoài, đặc biệt là tư nhân nước ngoài bằng các hình thức là phải bán cổ phần với tỷ lệ cao hơn cho các nhà đầu tư trong nước đối với các dự án điện. Vấn đề thứ hai là phải mở rộng hình thức đầu tư theo hình thức BOT, IPP (nhà máy điện độc lập) để thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư", ông Phúc nói.
Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải cho biết, theo dự báo tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 khoảng 7,2-8%, giai đoạn 2011-2020 là 7,09-7,5% và nhu cầu tiêu thụ điện vẫn tiếp tục tăng nhanh hơn GDP. Dự kiến, đến năm 2010, nhu cầu điện toàn quốc là 88-93 tỷ Kwh. Ông Hải cho biết, để đạt được mục tiêu đến năm 2010 xây dựng mới các nguồn điện với tổng công suất khoảng trên 12.000 MW, ngành điện cũng đã đề ra những biện pháp khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả đầu tư nước ngoài vào các dự án đầu tư phát triển ngành điện.
Không chỉ lĩnh vực điện năng, lĩnh vực giao thông vận tải cũng gây ra không ít e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư tiềm năng của Mỹ đã đưa ra các lý do hạn chế về cơ sở hạ tầng để không đầu tư vào Việt Nam. Đó là những tồn tại thiếu hụt trong việc phát triển cơ sở hạ tầng then chốt, đặc biệt là những con đường nối các tỉnh, thành, kể cả các cây cầu, cũng như các con đường tiếp cận các cảng biển có vị trí chiến lược và các cơ sở hạ tầng trên đất liền. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đang đe doạ tới đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi mà Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ về vấn đề cơ sở hạ tầng thì Việt Nam đã bị tụt hậu.
Những yếu kém về giao thông vận tải làm tăng chi phí vận chuyển cho các doanh nghiệp vì theo các doanh nghiệp, hiện nay chi phí vận chuyển của Việt Nam tính theo % của GDP vẫn cao hơn nhiều nước trong khu vực. Có thể thấy điều này khá rõ khi chi phí này ở Indonesia và Malaysia là 13% GDP, ở Trung Quốc là 18%, còn ở Việt Nam là 25% GDP.
Ông Neilsen Peter-Smidt, thành viên nhóm công tác Cảng biển của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam nêu ý kiến: “Có rất nhiều lý do khiến chi phí vận chuyển ở Việt Nam cao nhưng rõ ràng là cơ sở hạ tầng yếu kém làm tăng đáng kể chi phí cho các doanh nghiệp như nạn tắc đường, thời gian chờ đợi kéo dài, thiếu minh bạch và tính dự báo trong chuỗi cung ứng, phương tiện vận chuyển trên bộ đã cũ, không hiệu quả, không tuân thủ các quy định về hạn chế trọng lượng vận tải cũng dẫn đến chi phí hoạt động cao hơn và kém an toàn”.
Nhằm giải quyết những vướng mắc này, theo gợi ý của ông Brian O’Reilly, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Australia: “Việt Nam cần chú ý đến hình thức đối tác công - tư. Mô hình đối tác công tư bao gồm thành phần doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ góp phần quan trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Nhằm giải quyết phần nào những vấn đề này, cần cải thiện những thủ tục hành chính, đặc biệt là trong các dự án và hợp đồng”.
Việt Nam đã thành công trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, tháo gỡ những “nút thắt” của nền kinh tế. “Các chính sách và thể chế trước đây thành công nhưng so với tình hình bây giờ cần phải được điều chỉnh vì sự phát triển của Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông khẳng định.
Theo nhiều khảo sát quốc tế nhận định, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nhưng những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa được giải quyết một cách hiệu quả. Thực tế, chính những tắc nghẽn về cơ sở hạ tầng hiện được xem là vấn đề lớn nhất cản trở môi trường kinh doanh của đất nước. Vượt qua những rào cản cơ sở hạ tầng này, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khả quan và bền vững, hiện thực hóa những mục tiêu phát triển đã đề ra cho những thập niên sắp tới.
4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả.
Theo kinh ngiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tỷ lệ vốn đối ứng so với vốn nước ngoài thu hút được thường thấp, ở mức 1/1.5 nghĩa là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau, khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này thường tăng lên 1/2.5.
Ở Việt Nam, nhu cầu về vốn đối ứng cho các dự án ODA cũng rất lớn nhưng tình hình bố trí vốn đối ứng từ phía Việt Nam để chuẩn bị cho việc tiếp nhận vốn ODA, đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ còn chậm trễ và thiếu kịp thời dẫn đến tình hình giải ngân vốn ODA quá chậm. Thậm chí, nhiều dự án ODA, nhà tài trợ đã ngừng giải ngân vốn ODA do vốn đối ứng không đáp ứng được. Điều này gây tác động xấu đến việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội vì giai đoạn hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư của đất nước là rất lớn. Không những bổ sung lượng vốn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế, việc giải ngân nguồn vốn ODA nhanh chóng sẽ đóng góp tích cực cho chương trình kích cầu đầu tư, tăng trưởng GDP.
Bộ Kế hoạch – Đầu tư công bố: trong 6 tháng đầu năm 2010, số vốn ODA được giải ngân là 720 triệu USD. Kết quả này chỉ bằng 38% kế hoạch năm 2010. Đáng chú ý là việc giải ngân chậm diễn ra ở nhiều dự án quan trọng thuộc lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng. Theo Bộ KH-ĐT, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp dưới 40% là Bộ GTVT (38%), Bộ Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%), Thành phố Cần Thơ (11,6%), Thành phố Hà Nội (36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế việt nam.doc