Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Ngân hàng trung ương bỏ lãi suất trần cho vay và ban hành lãi suất cơ bản. Dựa vào đó các ngân hàng thương mại cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản cộng với biên độ dao động từng thời kì khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế các ngân hàng thương mại cho vay với mức lãi suất nhỏ hơn biên độ. Vì vậy lãi suất cơ bản thời kì này ít có ý nghĩa.

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4627 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng các máy móc, phương tiện mới thể hiện qua phần lợi nhuận tăng thêm, với khoản chi phí cho đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, lợi ích chỉ thực sự có được trong tương lai, trong khi vốn đầu tư lại phải bỏ ra ngay tại thời điểm hiện tại. Các nhà đầu tư thường có xu hướng thanh toán các khoản đầu tư bằng cách vay vốn. Do đó phải trả lời được các câu hỏi liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại có cao hơn so với mức lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay không? Chủ đầu tư chỉ nên đầu tư khi và chỉ khi lợi nhuận thực dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là bằng so với mức lãi suất tiền vay phải trả. Đương nhiên, khi lãi suất tiền vay càng tăng thì thu nhập biên càng giảm, nhu cầu đầu tư càng giảm và ngược lại. Vào cùng một thời điểm, có thể có rất nhiều dự án đầu tư. Số lượng dự án đầu tư phụ thuộc vào mức lãi suất tiền vay. Khi mức lãi suất tiền vay càng cao, thì số dự án thỏa mãn được yêu cầu trên càng ít và ngược lại khi mức lãi suất tiền vay thấp, sẽ có nhiều dự án đẩu tư hơn làm khối lượng cầu vốn đầu tư tăng. Hình c chỉ rõ đường cầu vốn đầu tư Di thể hiện mối quan hệ phụ thuộc giữa lãi suất tiền vay và nhu cầu vốn đầu tư ở mỗi điểm lãi suất cụ thể. Nếu mức lãi suất tăng từ i0 lên i1 sẽ giảm số dự án đầu tư, nói cách khác nhu cầu vốn đầu tư giảm từ I0 xuống I1. *Cùng với lãi suất, các quy định về thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng đến chi phí đầu tư, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu chính phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của các doanh nghiệp giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác, chính phủ cũng có thể kích thích đầu tư bằng hình thức miễn giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Qua hình (d) có thể mô tả tác động của thuế thu nhập đến cầu đầu tư giống như tác động của chu kỳ kinh doanh. Khi mức thuế của chính phủ giảm sẽ làm cho đường cầu đầu tư dịch chuyển sang phải, do đó khoản đầu tư mong muốn sẽ tăng. Doanh thu (mối quan hệ gia tốc) Đầu tư sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho các hãng hơn nếu nó cho phép bán được nhiều hàng hơn. Điều đó cho thấy tổng sản lượng (GDP) là một nhân tố cực kì quan trọng quyết định tới đầu tư. Khi nhà xưởng phải bỏ không, các hãng ít có nhu cầu xây dựng thêm nhà xưởng, vì vậy đầu tư thấp. Tổng quát hơn đầu tư phụ thuộc vào doanh thu do tình trạng hoạt động kinh tế chung tạo ra. Một số nghiên cứu cho rằng việc thay đổi sản lượng chi phối xu hướng đầu tư trong các chu kì kinh doanh. Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức nhu cầu khác nhau. Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng, thể hiện ở việc dịch chuyển đường đầu tư sang phải, từ DI sang DI’ (hình d) Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi xuống, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại, kéo đường cầu đầu tư DI sang trái, tương ứng với mỗi mức lãi suất tiền vay cụ thể. Có thể thấy 1 ví dụ về sự tác động mạnh của sản lượng trong thời kì đi xuống của chu kì kinh doanh trong những năm 1979-1982. Khi đó sản lượng giảm mạnh kéo theo đầu tư giảm 22% Di I I0 I1 0 i1 i i0 Hình c : hàm cầu đầu tư. Hình d:ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến đường cầu đầu tư DI’ I I 0 i0 i I’ DI Một lý thuyết quan trọng về hành vi đầu tư là lý thuyết gia tốc đầu tư. Lý thuyết này phát biểu rằng: tốc độ đầu tư chủ yếu do tốc độ thay đổi sản lượng quyết định. Có nghĩa là mức đầu tư cao khi sản lượng tăng và khi sản lượng giảm thì mức đầu tư thấp đi (thậm chí đầu tư thực tế còn là số âm) Theo lý thuyết này để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một số lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau: X= (1) Trong đó : K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu Y: sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu X: hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức 1 ta suy ra: K=X*Y Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất. Theo công thức (1) ta có thể kết luận : sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kỳ trước. Lý thuyết gia tốc đầu tư cho thấy : đầu tư tăng tỷ lệ với sản lượng ít ra là trong trung và dài hạn. Kì vọng Nguyên nhân thứ 3 ảnh hưởng đến đầu tư là niềm tin kinh doanh. Đầu tư là một canh bạc về tương lai với sự đánh cược rằng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn chi phí đầu tư. Nếu các doanh nghiệp dự đoán rằng tình hình kinh tế tương lai ở Việt Nam sẽ xấu đi thì họ sẽ ngần ngại khi đầu tư vào đây. Ngược lại các doanh nghiệp tin rằng công cuộc kinh doanh sẽ phục hồi nhanh chóng thì họ sẽ có kế hoạch mở rộng nhà xưởng. Vì vậy các quyết định đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào dự đoán và kỳ vọng về các sự kiện tương lai. Nhưng người ta có thể nói rằng dự đoán là điều may rui nhất là dự đoán về tương lai. Các doanh nghiệp thường đổ nhiều công sức vào phân tich đầu tư và cố gắng giảm tới mức thấp nhất những sự bấp bênh trong đầu tư của mình. Đầu tư của nhà nước Có thể nói đầu tư của nhà nước là yếu tố dẫn dắt đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được sử dụng để đầu tư theo kế hoạch của nhà nước cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, bảo vệ môi trường, các công trình văn hóa xã hội, phúc lợi công cộng, quản lý nhà nước, khoa học- kỹ thuật, quốc phòng và an ninh…khi cơ sở hạ tầng của một khu vực đầu tư tốt nó sẽ tạo thuận lợi cho đầu tư của tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện kế hoạch đầu tư trong khu vực đó. Chi phí đầu tư sẽ giảm đi đáng kể do giao thông thuận tiện sẽ làm giảm chi phí vận chuyển trong khi xây dựng dự án cũng như trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Có thể thấy rõ khi một dự án đầu tư ở một khu công nghiệp nó sẽ có nhiều thuận lợi về các điều kiện sản xuất, về tiếp cận với các bạn hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động làm việc cho dự án. Lợi nhuận kỳ vọng Theo lý thuết của Keynes thì một trong hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp là lợi nhuận kỳ vọng Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà các nhà đầu tư tính toán dựa trên chi phí đầu tư, doanh thu kì vọng trong tương lai trước khi thực hiện một dự án đầu tư +) Nếu lợi nhuận kỳ vọng nhỏ hơn lãi suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư sẽ không thực hiện dự án hoặc sẽ cắt giảm quy mô của dự án đang thực hiện và ngược lại. Lợi nhuận kỳ vọng lớn nó sẽ là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư tìm kiếm các giải pháp, khắc phục khó khăn, hạn chế các rủi ro để tiếp tục theo đuổi dự án. Trong cơ chế thị trường thì lợi nhuận là yếu tố tác động mạnh nhất đến hành vi của các doanh nghiệp tư nhân. Thậm chí họ có thể chạy theo lợi nhuận bất chấp sự ảnh hưởng xấu đến môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tác động xấu tới tình hình xã hội, hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực bị pháp luật cấm. Vì vậy trong hoạt động quản lý của nhà nước cần phải tính tới tác động của dự án đầu tư tới tất cả các mặt của đời sống xã hội, môi trường an ninh quốc phòng Môi trường đầu tư Đầu tư thường được ví như một canh bạc. Các nhà đầu tư đặt cược một số tiền lớn trong điều kiện hiện tại và hi vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Do vậy, đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả của dự án đầu tư. Đó là thực trạng của cơ sở hạ tầng, những quy định về pháp luật đầu tư, nhất là các quy định liên quan đến lợi ích tài chính, chế độ đất đai, các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trị xã hội… Nếu những yếu tố trên đây thuận lợi sẽ khuyến khích các nhà đầu tư và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư, chính phủ giữ vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến việc đưa ra các chính sách nhằm tăng được lòng tin trong giới kinh doanh và đầu tư. Về hình thức tác động của môi trường đầu tư đến nhu cầu đầu tư có thể được mô tả giống như trường hợp của thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc chu kỳ kinh doanh. Hình (d) Như vậy chúng ta có thể tóm tắt các lực đứng đằng sau quyết định đầu tư như sau: Doanh nghiệp đầu tư để thu lợi nhuận. Do các hàng hóa vốn tồn tại trong nhiều năm nên các quyết định đầu tư phụ thuộc vào: Chi phí đầu tư Doanh thu Kì vọng Đầu tư của nhà nước Lợi nhuận kỳ vọng Môi trường đầu tư III - Tỉ suất lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Phản ánh mức lợi nhuận thuần (tính cho từng năm), hoặc thu nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng . Công thức tính cho từng năm hoạt động: IRR= RRi : tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư năm i Wipv : lợi nhuận thuần ở năm i tính đến thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động IV0 : vốn đầu tư tính tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động *) Ý nghĩa : tỉ suất lợi nhuận là đại lượng xác định hiệu quả đầu tư, với một đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận,từ đó đưa ra các quyết định đầu tư và quy mô đầu tư khi so sánh với lãi suất vốn vay.Điều này sẽ được bàn cụ thể ở phần mối quan hệ dưới đây. IV - Mối quan hệ giữa lãi suất, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư Mối quan hệ hai chiều giữa các thành phần 1.1 Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư Trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp chủ yếu được tài trợ bằng vốn vay. Vì vậy lãi suất vốn vay sẽ tác động mạnh đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lãi suất thực tế là lãi suất đã tính đến lạm phát, mới ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư của doanh nghiệp. Với các yếu tố khác không đổi, khi lãi suất thực tế tăng nghĩa là chi phí của 1 đơn vị vốn tăng, hiệu quả biên của một đơn vị đầu tư mới giảm khiến cho doanh nghiệp cắt giảm quy mô vốn đầu tư. Ngược lại, khi lãi suất thực tế giảm trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi làm doanh nghiệp mở rộng quy mô vốn đầu tư. Do hiệu quả của một đơn vị vốn đầu tư mới tăng lên.Điều này được thể hiện trên hình sau. r Lãi suất thực tế (%/năm) r1 D1 r2 D2 I1 I2 I 1.2.Mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư. Mối quan hệ giữa IRR và I được minh hoạ bằng đồ thị sau: IRR IRR2 B IRR1 A I1 I2 I Khi tỉ suất lợi nhuận tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi, sẽ kích thích các nhà đầu tư tăng quy mô vốn và ngược lại. Tuy nhiên, tốc độ tăng của IRR ngày càng giảm dần. Điều này được giải thích trên hai phương diện: Thứ nhất: Trên phương diện cầu vốn đầu tư. Khi mở rộng vốn đầu tư làm cầu vốn đầu tư tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi làm giá vốn hay lãi suất vốn tăng lên. Giả sử chi phí sản suất khác không đổi và giá bán 1 đơn vị sản phẩm không đổi trong khi đó chi phí lãi vay tăng lên làm cho tổng lợi nhuận giảm và tỉ suất lợi nhuận giảm. Thứ hai: Trên phương diện cung hàng hoá trên thị trường tăng. Điều này làm giá bán 1 đơn vị sản phẩm giảm,giả định chi phí sản xuất khác không đổi làm cho lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm giảm và tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm. Quy luật tỉ suất lợi nhuận biên giảm dần khi tăng quy mô vốn đầu tư giải thích vì sao trong thực tế các nhà sản xuất không thể tăng mãi quy mô vốn mà chỉ đến một mức độ nhất định nào đó thì dừng lại. 1.3 Tỉ suất lợi nhuận thay đổi tác động đến i. Trường hợp 1: khi IRR tăng từ IRR1 lên IRR2, lợi nhuận đã kích thích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất làm quy mô vốn gia tăng từ I1 lên I2. Nhu cầu vốn đầu tư gia tăng làm cầu vốn tăng. Giả sử cung vốn đầu tư không đổi khiến cho giá vốn vay hay chi phí sử dụng vốn tăng lên, tức lãi suất tăng lên. Trường hợp 2: khi IRR giảm, việc đầu tư thêm là vô ích, khiến các nhà đầu tư giảm quy mô vốn đầu tư làm cho cầu về vốn giảm xuống. Với giả định cung về vốn không đổi làm giá của vốn vay giảm xuống hay lãi suất giảm. i IRR B IRR2 i2 IRR1 A i1 Cầu vốn đầu tư I1 I2 I I1 I2 I I IRR2 IRR1 i2 B’ i1 A’ I1 I2 I I1 I2 I Hình 2.1 Hình 2.2 2. Mối quan hệ giữa lãi suất,tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư. Có 3 khả năng xẩy ra như sau: Nếu i < R thì lợi nhuận của một đơn vị vốn tăng thêm lớn hơn lãi phải trả cho một đơn vị vốn tăng thêm đó,như vậy bỏ thêm một đơn vị đầu tư mới có lãi sẽ kích thích các nhà đầu tư tăng quy mô vốn (I tăng). Khi quy mô vốn tăng làm cầu vốn đầu tư tăng gây áp lực tăng lãi suất.Như vậy vốn đầu tư sẽ không tăng lên mãi mà dừng lại khi i = R. Nếu i > R thì khi tăng thêm một đợn vị đầu tư mới lãi phải trả cao hơn lợi nhuận thu về sẽ khiến nhà đầu tư cắt giảm quy mô vốn (I giảm).Khi I giảm,làm cầu vốn đầu tư giảm khiến lãi suất giảm theo,vì vậy I sẽ giảm đến khi i = R Nếu i = R thì quy mô vốn đầu tư không thay đổi. Chương II: Phân tích thực trạng đầu tư ở Việt Nam thời gian qua Thực trạng về lãi sất Diễn biến lãi suất có thể được chia làm 3 giai đoạn chính như sau: Thời kì lãi suất cứng nhắc 1985- 1992: Thời kì 1985- 1988 Năm 1985, chính phủ thực hiện cải cách về Giá- Lương- Tiền. Đây là việc cải cách trong chính sách tiền tệ làm giảm giá trị đồng tiền xuống 10 lần. Đồng thời làm giá hàng hóa tăng lên 3- 4 lần. Kết quả là tỉ lệ lạm phát tăng vọt ở mức 3 con số. Năm Tỉ lệ lạm phát (%/năm) Lãi suất (%/năm) 1985 190% 9% 1986 715% 18% Trong khi đó, lãi suất huy động cao nhất là 96 %/năm; lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất huy động vốn; lãi suất huy động lại nhỏ hơn tỉ lệ lạm phát. Hậu quả là, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, sản xuất bị trì trệ. Năm 1987, Ngân hàng Nhà nước lập tức ban hành biểu lãi suất mới sao cho:lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi. Mặc dù vậy, cả hai loại lãi suất sau khi điều chỉnh vẫn thấp hơn lạm phát. Nói chung, thời kì này chính sách lãi suất được điều chỉnh bằng các cơ chế hành chính cứng nhắc. Lãi suất thực tế là âm. Lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế đó là lãi suất vay vốn của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn lãi suất vay vốn của khu vực kinh tế nhà nước. Điểm bất hợp lí là lãi suất trung, dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Thời kì 1989- 1990 Thời kì này đã gánh chịu những hậu quả nặng nề trong chính sách tài chính tiền tệ ở thời kì trước: Lạm phát vẫn ở mức cao, tình hình kinh tế rối ren, suy thoái. trước tình thế này, năm 1990 lần đầu tiên chính phủ áp dụng hệ thống ngân hàng hai cấp: Cấp 1 là ngân hàng trung ương với chức năng quản lý điều hành; Cấp 2 là hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh. Lạm phát ở mức cao, ngân hàng nhà nước đã áp dụng lãi suất tình thế. Đó là : Nâng cao lãi suất tiền gửi cao nhất đến 12%/tháng hay 144%/năm vào năm 1989 nhằm thu hút lượng tiền mặt về. Kết quả là tỉ lệ lạm phát đã giảm từ 14,2%/tháng năm 1988 xuống 2,9%/tháng năm 1989. Giai đoạn này lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy các ngân hàng bị lỗ nặng. Do đó ngân sách nhà nước phải bao cấp. Năm 1989, tỉ lệ lạm phát 2,9%/tháng, mức lãi suất bình quân là 6%/ tháng. Vì vậy mức lãi suất thực tế là 3%/tháng quá cao so với tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điều này làm cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp nếu sản suất sẽ bị lỗ.Sản xuất kinh doanh bị thu hẹp. Dẫn đến tình trạng gửi tiền ồ ạt trong ngân hàng nhằm hưởng mức lãi suất cao. Làm cho nền kinh tế lại rơi vào tình trạng suy thoái. Thời kì 1991- 1992 Từ năm 1991, ngân hàng trung ương đưa ra biểu lãi suất bắt buộc đối với các ngân hàng : Loại lãi suất Lãi suất ( %/thàng ) Lãi suất tiền gửi Trong 3 tháng 2,1 Không kì hạn 1 Lãi suất tiết kiệm Trong 3 tháng 3,5 Không kì hạn 2,1 Lãi suất cho vay Hộ nông dân 2,7- 3,7 DN tư nhân 4- 5 DN nhà nước 2,1- 2,4 (Bảng lãi suất năm 1992) Qua bảng trên ta thấy vẫn còn đối sử bất công bằng giữa các thành phần kinh tế. Đặc biệt ở khu vực nhà nước, lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất huy động vốn. Gây gánh nặng cho hệ thông ngân hàng. Thời kì quản lý lãi suất trần và lãi suất sàn từ tháng 6/ 1992- 1995. Ngân hàng trung ương đã ban hành lãi suất trần và lãi suất sàn áp dụng cho hệ thống ngân hàng , tăng tính mềm dẻo trong cơ chế lãi suất. Lãi suất trần là lãi suất cho vay tối đa được quy định Lãi suất sàn là lãi suất tiền gửi tối thiểu được quy định. Kể từ năm 1993, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi. Theo đó nguyên tắc của kinh tế thị trường, các ngân hàng có lợi nhuận dương. Giai đoạn này , cơ chế lãi suất đã có nhiều tiến bộ . Về cơ bản đã có biểu thức sau.: Lãi suất cho vay >lãi suất tiền gửi > tỉ lệ lạm phát. Như vậy với cơ chế này , lãi suất thực dương đem lại lợi ích cho cả 3 chủ thể : Thứ nhất, các ngân hàng có mức lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi, ngân hàng hoạt động có lãi. Thứ hai, đối với người gửi, mức lãi suất dương tạo động lực cho họ gửi tiền. Thứ 3, đối với người đi vay hay các chủ thể kinh doanh, với mức lãi suất thực dương khiến các doanh nghiệp có trách nhiệm với đồng vốn đi vay, nâng cao hiệu quả kinh doanh và chỉ đầu tư vào những lĩnh vực đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Giai đoạn này, ngân hàng nhà nước đã xoá bỏ phân biệt lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân đều có mức lãi suất cho vay như nhau. Lần đầu tiên, ngân hàng trung ương đã điều chỉnh dần sao cho lãi suất trung, dài hạn lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Bảng lãi: Năm Lãi suất bình quân ngắn hạn ( %/năm) Lãi suất bình quân dài hạn ( %/ năm) 1992 25,2 21,6 1993 19,2 14,4 1994 19,2 20,4 1995 19,2 20,4 Ta thấy lãi suất dài hạn từ năm 1994 lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Thời kì lãi suất linh hoạt từ 1996 đến nay Thời kì lãi suất trần 1996- 1999 Ngân hàng trung ương cho phép tự do hoá lãi suất tiền gửi, chỉ qui định mức lãi suất trần. Đó là : lãi suất cho vay tối đa 1,75%/tháng. Tuy nhiên ngân hàng trung ương quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi không quá 0,35%/tháng. 3.2 Thời kì lãi suất cơ bản T8/ 2000 – T5/ 2002. Ngân hàng trung ương bỏ lãi suất trần cho vay và ban hành lãi suất cơ bản. Dựa vào đó các ngân hàng thương mại cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản cộng với biên độ dao động từng thời kì khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế các ngân hàng thương mại cho vay với mức lãi suất nhỏ hơn biên độ. Vì vậy lãi suất cơ bản thời kì này ít có ý nghĩa. Cơ chế thoả thuận T6/ 2002 đến nay Ngân hàng trung ương ban hành lãi suất cơ bản dựa trên những thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, và những thay đổi lãi suất của hệ thống ngân hàng. Lãi suất cơ bản chỉ có ý nghĩa tham khảo với các tổ chức tín dụng. Giai đoạn này có sự cạnh tranh mạnh giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Diễn biến lãi suất năm 2007 và quý 1,quý 2 năm 2008. Năm 2007 tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam tăng cao trên hai con số do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan, gây ảnh hưởng đến đời sống người dân và ổn định kinh tế vĩ mô.Lần đầu tiên chính phủ thực việc thắt chặt tín dụng giảm cung tiền trong hơn 10 năm qua để kiềm chế làm phát bằng cách :Ngân hàng nhà nước quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phát hành tín phiếu bắt buộc.Các ngân hàng thương mại phải mua tín phiếu và tăng tỉ lệ dự trữ . Điều này khiến cho hệ thống ngân hàng thương mại phải huy động, thu hồi vốn bằng nhiều cách đó là : tăng cao lãi suất tiền gửi ,siết chặt việc cho vay.Kết quả là,lãi suất tiền gửi lẫn lãi suất cho vay tăng chóng mặt. Đã có một cuộc đua tăng lãi suất huy động giữa các ngân hàng buộc ngân hàng trung ương áp dụng trần lãi suất tiền gửi không quá 12%/năm.Riêng lãi suất cho vay cao hơn 1%/tháng ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất kinh doanh trong nước,ảnh hưởng làm giảm đầu tư trong thời gian trước mắt cũng như trong tương lai vì mức lãi suât quá cao này không nhà đầu tư nào có mức tỷ suất lợi nhuận cao hơn để có lợi nhuận.Có lẽ ảnh hưởng nặng nề nhất là các nhà xuất khẩu vẫn phải tiếp tục vay vốn ngân hàng để thực hiện các hợp đồng đã kí. Ta đã biết,lãi suất là một trong những công cụ hiệu quả làm giảm lạm phát (ví dụ ở nước ta năm 1989),tuy nhiên cần phải phối hợp lãi suất với các chinh sách khác như chính sách tỉ giá hối đoái,chính sách tài chính,chính sách tài khóa để đạt hiệu quả cao nhất. II. Thực trạng vốn đầu tư ở Việt Nam hiện nay. Trên góc độ toàn nền kinh tế, tổng quy mô vốn đầu tư được quyết định bởi nhiều nhân tố tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại các thành phần vốn đầu tư. Ở đây, để thấy rõ thực trạng của quy mô vốn đầu tư, ta xét nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1. Nguồn vốn đầu tư trong nước: Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân trong phần dưới đây: 1.1 Nguồn vốn nhà nước: - Về vốn từ ngân sách nhà nước: Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế, quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (như qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước hàng năm bình quân đạt gần 23% GDP. Nguồn thu ổn định từ sản xuất trong nước đã bước đầu dần tăng. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Về nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 – 2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước. Giai đoạn 1991 – 1995, nguồn vốn tìn dụng đầu tư phát triển của nhà nước mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001 – 2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể. - Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo bộ kế hoạch và đầu tư, thông thường nguồn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. 1.2 Nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp theo nguồn vốn này tiếp tục gia tăng về quy mô và tỷ trọng. Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Trong 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, Nhà nước liên tục hoàn thiện các chính sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen, hỗn hợp các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Với Luật Doanh nghiệp thống nhất (2005) và Luật Đầu tư chung (2005) chính thức có hiệu lực từ giữa năm 2006, các tầng lớp dân cư và khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tực được khuyến khích, động viên đại bộ phận phần tích lũy cho đầu tư phát triển. Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã) đã đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đang trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và thiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong những nguồn tập trung và phân phối quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn vồn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24920.doc
Tài liệu liên quan