MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: CÁC LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP. 3
1.1.Những vấn đề về tăng trưởng kinh tế. 3
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế: 3
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế: 3
1.1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: 4
1. 2.Những vấn đề về bất bình đẳng thu nhập. 5
1.2.2. Nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng thu nhập: 6
1.2.3. Đo lường bất bình đẳng trong phân phối thu nhập: 7
1.3. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. 9
PHẦN II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP Ở VIỆT NAM. 13
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam: 13
2.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế: 13
2.1.2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập. 15
2.2. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam. 18
2.2.1.Thành tựu tăng trưởng kinh tế đối với công bằng xã hội: 18
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân dẫn tới sự tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập: 20
PHẦN III: GIẢI PHÁP KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, PHÂN PHỐI THU NHẬP CÔNG BẰNG. 24
KẾT LUẬN 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
29 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 7442 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó phân phối tương đối công bằng thì hệ số Gini nằm trong phạm vi 0,2 đến 0,35.
1.2.3.3. Tiêu chuẩn “40” World Bank:
World Bank (2002) đề xuất chỉ tiêu đánh giá tình trạng bất bình đẳng: tỷ lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cư của 40% dân số có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội. Theo chỉ tiêu này có 3 mức độ bất bình đẳng cụ thể sau: Khi thu nhập của 40% dân số có mức thu nhập thấp nhất trong xã hội chiếm tỷ lệ lớn hơn 17% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng cao; từ 12% đến 17% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng tương đối và nếu tỷ lệ nhỏ hơn 12% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng thấp.
1.2.3.4. Hệ số giãn cách thu nhập:
Trong nhiều công trình nghiên cứu, chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập được sử dụng để đánh giá tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Chỉ tiêu này được xác định bởi mức chênh lệch thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất và 20% dân số có thu nhập thấp nhất. Hệ số giãn cách (chênh lệch) càng lớn, tình trạng bất bình đẳng càng cao.
Một thước đo khác được sử dụng rất rộng rãi để đánh giá phân phối thu nhập là tỉ lệ nghèo đói. Đó là là phần trăm dân số có thu nhập thấp hơn một giá trị tuyệt đối nào đó được gọi là ngưỡng nghèo đói, mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản như lương thực, quần áo và nhà ở để đảm bảo cho người ta có thể tiếp tục tồn tại.
1.3. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập.
Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập luôn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Trong một nền kinh tế thống nhất, tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập công bằng là những khâu có vị trí độc lập tương đối với nhau. Tuy nhiên trong sự phát triển kinh tế xã hội giữa tăng tưởng kinh tế và phân phối thu nhập có mối quan hệ tương tác với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho xã hội chính là điều kiện thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng càng cao, kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại, phân phối thu nhập công bằng sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nó kích thích tính tích cực, sáng tạo của mọi người nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nó còn tạo ra một xã hội hài hoà giữa lợi ích cá nhân và công cộng. Như vậy,phân phối thu nhập công bằng vừa là tiền đề để tạo ra ổn định xã hội, vừa là động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trên thế giới có rất nhiều lý thuyết xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Điển hình có các lý thuyết sau:
- Lý thuyết chữ “U ngược” của Simon Kuznets (1955):
Lý thuyết này nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng, nghĩa là “mức độ bất bình đẳng về thu nhập có hướng gia tăng trong các giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, sau đó sẽ giảm bớt đi khi nền kinh tế đã đạt tới một trình độ phát triển cao hơn”. Bigsten và Levin (2001) đã nghiên cứu lý thuyết này và cho rằng nếu bất bình đẳng có thể làm động lực cho tăng trưởng tốt hơn, rồi từ đó tạo ra cơ hội và điều kiện để xoá đói giảm nghèo nhanh hơn thì bất bình đẳng là điều kiện chấp nhận được. Với quan điểm này, trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của các nước kém phát triển, tình trạng bất bình đẳng sẽ gia tăng mạnh. Nhà nghiên cứu Ahlwalia (1976) đã sử dụng số liệu phân phối thu nhập của hơn 60 quốc gia, đã đi đến một kết luận tương tự một cách cụ thể hơn và kết quả điều tra bằng các số liệu đã cho thấy bất bình đẳng đã gia tăng mạnh ở giai đoạn phát triển ban đầu rồi sau đó bị đảo ngược lại ở giai đoạn phát triển cao hơn. Nguyên nhân của tình trạng đảo ngược này là do sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong sản xuất tăng cường giáo dục, đào tạo tay nghề và sự biến đổi về dân số. Dù só sự gia tăng bất bình đẳng ở giai đoạn đầu phát triển, nhưng đã không làm trầm trọng hơn tình trạng nghèo khó tuyệt đối trong xã hội nói chung.
- Lý thuyết mô hình kinh tế chính trị của Alesina và Rodrik (1994); Persson và Tabellini (1994); Bertola (1993); Perotti (1992)
Mô hình này cố gắng xây dựng một cầu nối giữa những lí thuyết về sự tăng trưởng nội sinh và những lí thuyết kinh tế chính trị. Trong xã hội dân chủ, mức thuế suất được quyết định bởi những cử tri trung lập. Thuế được thu theo tỷ lệ thu nhập, và chi tiêu công tăng lên theo doanh thu thuế, từ đó thu nhập được phân phối lại và người nghèo thu được nhiều phúc lợi hơn người giàu từ các chương trình công cộng. Chính vì thế, người nghèo thích một mức thuế suất cao (chủ yếu đánh vào những người giàu) để tái phân phối cho những người nghèo thông qua các chương trình chuyển giao thu nhập. Trước đây, trong những xã hội bất bình đẳng, thu nhập của những cử tri trung lập thấp hơn so với mức thu nhập trung bình, qui tắc số đông sẽ qui định việc tái phân phối ở mức cao mà điều này đến lượt nó không khuyến khích đầu tư và nỗ lực lao động, và do đó làm giảm tăng trưởng. Do đó, nhiều xã hội xóa bỏ chế độ dân chủ “một người, một phiếu bầu” vì ít ra nó không thể giảm bớt mức độ bất bình đẳng qua sự tái phân phối. Kết luận rút ra từ các phát hiện này là bất bình đẳng đòi hỏi tái phân phối diễn ra mạnh mẽ hơn, do vậy sẽ đi cùng với tăng trưởng thấp.
- Lý thuyết mô hình thị trường vốn không hoàn hảo của Chiou (1998); Aghion và Bolton (1997); Galor và Zeira (1993); Saint Paul và Verdier (1993):
Mô hình này dựa trên vai trò của sự chưa hoàn hảo của thị trường vốn. Đặc biệt, trong xã hội mà các cá nhân không được tự do tiếp cận với tín dụng. Sự bất bình đẳng ngụ ý rằng một phần lớn tương đối dân số ở dưới ngưỡng chuẩn của giáo dục. Bởi vậy, đầu tư vào nguồn vốn con người thấp, và nếu sự tăng trưởng được đề cao bằng cách đầu tư vào nguồn vốn nhân lực thì mức tăng trưởng vẫn thấp. Tái phân phối làm tăng tổng sản lượng và thúc đẩy tăng trưởng bởi nó cho phép người nghèo đầu tư vào nguồn vốn nhân lực. Nếu thị trường vốn hướng tới việc cải thiện một nền kinh tế phát triển thì khi đó hiệu quả của thị trường vốn có liên quan tới sự thiếu hụt vốn là quan trọng trong những nền kinh tế đang phát triển hơn là trong nền kinh tế phát triển. Do đó kết quả dự báo về bất bình đẳng trong sự tăng trưởng kinh tế sẽ quan trọng hơn đối với các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều đó cũng giải thích rằng những lí lẽ về thiếu hụt thị trường tín dụng thực sự phù hợp để giải thích mối quan hệ giữa tỷ lệ nghèo đói và tăng trưởng kinh tế. Trong khi sự bất bình đẳng không phải khi nào cũng cho rằng một phần lớn dân số là quá nghèo để tiếp cận tới nguồn tín dụng. Một tỷ lệ nghèo đói cao hơn có nghĩa là có thêm nhiều người gặp khó khăn về mặt tài chính. Ví dụ: Bất bình đẳng trong một nền kinh tế có thể cao mặc dù đại bộ phân dân cư có thu nhập cao. Do đó, chúng ta nên mong chờ một mối quan hệ phủ định giữa tỷ lệ nghèo đói và tăng trưởng kinh tế.
- Lý thuyết mô hình tổng hợp của Benabou (1996):
Mô hình này đưa ra một cơ cấu tổng hợp mà trong đó ảnh hưởng của tái phân phối lên sự phát triển không nhất thiết phải là đường kẻ. Có hai ảnh hưởng đối lập nhau. Tái phân phối là tốt nếu chi tiêu công cộng dùng để chi trả cho giáo dục ở một thế giới với những thị trường nguồn vốn không hoàn hảo, và sẽ là không tốt nếu tiền chỉ chuyển từ người giàu sang người nghèo bởi vì nó làm giảm lợi nhuận ròng có được từ sự đầu tư của người giàu. Bởi thế, tăng trưởng đảo chiều – “hình chữ U” liên quan tới tái phân phối và phân phối là “hình chữ U” đối với sự thiếu cân bằng.
- Lý thuyết mô hình bất ổn về chính trị xã hội của Alesina (1996); Benhabib và Rustichini (1996); Grossman và Kim (1996); Fay (1993):
Mô hình này nhấn mạnh hậu quả của sự thiếu công bằng đối với sự bất ổn chính trị và sự bất an của xã hội. Theo mô hình bất ổn về chính trị xã hội, sự thiếu công bằng là một yếu tố quyết định quan trọng tới sự bất ổn chính trị xã hội và có ảnh hưởng tiêu cực lên sự tăng trưởng do lợi nhuận đầu tư thấp hơn mức mong đợi. Đặc biệt, sự thiếu công bằng làm tăng thêm khác biệt xã hội mà lần lượt sẽ làm cho tình trạng của tài sản ít an toàn hơn và làm giảm sự tăng trưởng. Hơn nữa, sự tham gia của người nghèo vào hoạt động tội phạm và các hoạt động chống lại xã hội thể hiện một sự lãng phí trực tiếp các nguồn lực bởi vì thời gian và sức lực của các phạm nhân không được cống hiến cho các hoạt động tạo ra năng suất. Những cố gắng phòng thủ của những người dễ trở thành tội phạm cũng cho thấy một sự thiếu hụt nữa của các nguồn lực.
- Lý thuyết mô hình đối với vấn đề sinh sản/giáo dục của Perotti (1996):
Theo mô hình phân tích kinh tế chính trị, sự thiếu công bằng có một ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế do sự méo mó của các quyết định gia đình đối với giáo dục và sinh sản. Cha mẹ phải tận dụng (tối ưu hóa) việc sử dụng các nguồn lực của gia đình, bằng cách chọn lựa cải thiện về chất lượng hay số lượng (sự sinh sản) của các thế hệ con cháu của họ. Bởi vì giáo dục mất một khoản chi phí tương đương với lợi tức dự tính trong quá trình học, những gia đình nghèo không đầu tư tiền cho giáo dục của họ nhưng lại đầu tư bằng cách sinh đẻ. Tuy nhiên, tăng trưởng chỉ được cải thiện bằng cách đầu tư tiền cho con người, vì thế một xã hội mà trong đó sự mất bất bình đẳng cao thế hiện ở một số lượng tương đối lớn các hộ nghèo mà đầu tư bằng cách sinh nhiều con hơn là đầu tư vào giáo dục. Tỉ lệ sinh đẻ cao của xã hội này dẫn đến sự tăng trưởng thấp.
- Lý thuyết mô hình so sánh xã hội của Knell (1988):
Mô hình này được xây dựng dựa vào mô hình Benabou (1996), trong đó mỗi cá nhân có sự so sánh xã hội. Mô hình này dựa trên sự thừa nhận rằng sự tiến bộ tột cùng của lợi ích cá nhân không chỉ phụ thuộc vào sự tiêu dùng mà còn phụ thuộc vào mức tiêu dùng trung bình của các nhóm xã hội mà họ có liên quan. Trong một xã hội bất bình đẳng, những hộ gia đình nghèo bị cuốn theo những chi tiêu nhằm đáp ứng những nhu cầu xã hội và sự mong muốn bằng việc đòi hỏi những hoạt động chi tiêu ở mức cao hơn và bằng cách giảm đầu tư vào vốn nhân lực để làm giảm khoảng cách với những hộ gia đình giàu, dẫn tới tăng trưởng kinh tế thấp. Những việc này làm tăng tối đa phúc lợi hiện tại nhưng đưa tới sự thiệt hại của phúc lợi và tăng trưởng trong tương lai. Như vậy kết luận rút ra từ nghiên cứu này là bất bình đẳng sẽ làm tăng trưởng chậm lại.
- Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc biệt là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn để có tăng trưởng nhanh hơn. Lý do cơ bản là để lấy thu nhập của người giàu chuyển cho người nghèo, Chính phủ phải thực hiện các chính sách tái phân phối thu nhập, ví dụ như thông qua hệ thống thuế thu nhập luỹ tiến và các chương trình phúc lợi.
PHẦN II
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP Ở VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam:
2.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế:
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khá ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 1986-1990 xấp xỉ 3,9%/năm; thời kỳ 1991-1995 là 8,2%; thời kỳ 1996-2000 là 7% và từ 2001-2008 là 7,6% .
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam từ 1985 đến 2008
Trong giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. GDP tăng bình quân 3,9% năm chủ yếu dựa vào sự tăng trưởng của nông nghiệp và dịch vụ. Năm 1990, nguồn viện trợ nước ngoài giảm đột ngột đã làm cho ngành công nghiệp đình đốn. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 1,5%, khu vực dịch vụ đã tăng tốc do được bung ra sau nhiều năm bị dồn nén và trói buộc bởi cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Kinh tế tư nhân đã đáp ứng hầu hết các loại dịch vụ này. Kết quả là đà tăng trưởng chỉ giảm nhẹ xuống 3,9%.
Giai đoạn 1991-1995 thể hiện những bước chuyển đầu tiên của nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển mạnh mẽ, đạt đỉnh điểm vào năm 1995 (9,54%). Sự tăng trưởng nhanh trong giai đoạn này là do tác động của nhiều cải cách lớn về đầu tư, tín dụng và ngân hàng… đặc biệt Việt Nam còn gia nhập ASEAN năm 1994 và AFTA năm 1995, do đó có các nguồn vốn ODA giúp Việt Nam thực hiện những điều chỉnh cơ cấu quan trọng bước đầu.
Giai đoạn 1996-2000 là khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều đi xuống, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á. Nền kinh tế Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng nguồn vốn FDI suy giảm và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên các thị trường xuất khẩu thực sự tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể trong giai đoạn này, từ 8,2% năm 1997 xuống 4,8% năm 1999. Bình quân cả giai đoạn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%.
Giai đoạn 2001-2008 nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á đã lắng xuống, cùng các chương trình cải cách hướng vào cải tổ cơ cấu kinh tế, khuyến khích kinh tế trang trại và cải cách phân phối sản phẩm đã đưa nền kinh tế trở lại đà tăng trưởng, từ 6,8% năm 2000 lên 8,5% năm 2007. Riêng năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt được 6,5%.
Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng kinh tế chung, các ngành kinh tế của nước ta trong những năm qua đã đạt được tăng trưởng cao liên tục.
+ Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của Việt Nam tăng liên tục trong cả giai đoạn 1991-2005, bình quân 4,5%/năm trong giai đoạn 1991-1995; 5,7%/năm trong thời kì 1996-2000. Giai đoạn 2001-2008, mặc dù nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh… nhưng nhờ thủy sản vẫn tăng khá, giá trị sản xuất của nhóm ngành nông- lâm nghiệp và thủy sản vẫn đạt bình quân trên 5,4%/năm.
+ Công nghiệp: luôn có nhịp tăng cao hơn trong giai đoạn 1992-1995 so với xu hướng tăng trưởng của cả giai đoạn. Giai đoạn 1996-2000, khu vực công nghiệp trải qua một thời kì biến động mạnh, đạt đỉnh điểm về tốc độ tăng trưởng ở năm 1996 và mức thấp nhất so với năm 1999 với sự sụt giảm mạnh nhất trong năm 1998. Sự hồi phục trở lại bắt đầu từ năm 2001-2005 nhưng không có sự bứt phá trở lại về tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp.
+ Dịch vụ: Thành công trong ổn định môi trường kinh tế vĩ mô cùng với tác động của các chính sách tự do hóa giá cả, tự do hóa thương mại nội địa và các biện pháp cải cách khác định hướng thị trường, ngành dịch vụ đã có giai đoạn tăng trưởng cao từ 1991-1995, nhịp tăng cao nhất vào 1995 và cao hơn mức tăng GDP; từ 1996-2000 là giai đoạn tăng trưởng giảm sút nhanh, nhất là giai đoạn 1996-1999 giảm tới 7,8 điểm phần trăm. Sự hồi phục tăng trưởng bắt đầu từ năm 2000 và năm 2003 tăng trưởng ở khu vực dịch vụ luôn cao hơn xu hướng tăng trưởng trung hạn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành trong những năm qua có sự chuyển biến tích cực. Tỷ trọng của nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP Việt Nam giảm dần theo thời gian; từ 38,74% năm 1990 xuống còn 21,8% năm 2004 và 20,9% năm 2005, trong khi nhóm ngành công nghiệp và xây dựng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, từ 22,67% năm 1990 tăng lên 40,2% năm 2004 và 41,0% năm 2005. Khu vực dịch vụ đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ba khối ngành; tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990-1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1% nhưng đã có sự phục hồi nhanh chóng trong các năm tiếp theo. Điều này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước; làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đặc biệt là tiềm lực công nghiệp và kết cấu hạ tầng.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cũng có những chuyển biến khá rõ nét, thể hiện sự tham gia ngày càng sâu rộng của khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế. Tỷ trọng của khu vực nhà nước có xu hướng giảm, tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng. Tuy nhiên, do sự phát triển của khoa học công nghệ còn hạn chế nên tăng trưởng kinh tế ở nước ta vẫn chủ yếu dựa vào tăng trưởng theo chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên do đó sự tăng trưởng này chưa thực sự vững chắc.
2.1.2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập.
Thành quả tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam đã đem đến cho người dân sự cải thiên về chất lượng cuộc sống nhưng đồng thời phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi lại đang tăng lên. Theo số liệu của tổng cục thống kê, hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng dân số cả nước ngày càng có xu hướng tăng cao, đã tăng từ 7,6 lần năm 1999 lên 8,1 lần năm 2000 và 8,4 lần năm 2006.
.
Hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu (20% dân số có thu nhập cao nhất) và nhóm nghèo (20% dân số có thu nhập thấp nhất)
Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành trong những năm qua có thể tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư như sau: Năm 1999 là 18,7%, năm 2002 là 17,98% và năm 2004 là 17,4%. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta tuy có tăng nhưng ở mức độ rất thấp và phân bố thu nhập trong các nhóm dân cư hiện nay ở nước ta là tương đối bình đẳng.
Hệ số Gini theo chi tiêu: Theo tính toán của Tổng cục Thống kê Việt Nam, hệ số Gini chung của nước ta tăng từ 0,35 năm 1993 lên 0,39 năm 1998 và 0,42 năm 2002; 0,41 năm 2004 và 0,43 năm 2006 phản ánh sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng doãng ra. Như vậy, trong quá trình tăng trưởng và giảm nghèo những năm vừa qua Việt Nam đang ở vào nhóm nước tương đối bình đẳng. Tuy nhiên, một số vùng đã bắt đầu gia tăng sự bất bình đẳng, nhất là tại những vùng tăng trưởng kinh tế nhanh như vùng Đông Nam Bộ (hệ số Gini vào năm 2004 đạt mức 0,43), kế đó là và Tây Nguyên (0,40) và đồng bằng sông Hồng (0,39).
Hệ số Gini theo thành thị, nông thôn và vùng
2002
2004
Việt Nam
0,42
0,41
Thành thị
0,41
0,41
Nông thôn
0,36
0,37
Vùng Việt Nam
ĐB sông Hồng
0,39
0,39
Đông Bắc Bộ
0,36
0,39
Tây Bắc Bộ
0,37
0,38
Bắc Trung Bộ
0,36
0,36
DH Nam Trung Bộ
0,35
0,37
Tây Nguyên
0,37
0,40
Đông Nam Bộ
0,42
0,43
ĐB sông Cửu Long
0,39
0,38
Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2006.
Khoảng cách giàu nghèo ở khu vực thành thị cao hơn và tăng lên, còn khu vực nông thôn thì thấp hơn và gần đây đã giảm nhẹ. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nghèo ở thành thị năm 2007 là 8,2 lần và ở nông thôn là 6,5 lần. Các vùng nông thôn là nơi có nhiều người nghèo sinh sống, mặc dù trong những năm gần đây tỷ lệ nghèo ở nông thôn có sự giảm xuống mạnh mẽ nhưng tỷ lệ nghèo ở nông thôn nước ta vẫn cao hơn nhiều so với thành thị. Năm 1993 tỷ lệ nghèo ở thành thị là 25,1% đến năm 2006 giảm xuống còn 3,9%, trong khi đó nông thôn năm 1993 là 66,4% và năm 2006 là 20,4%.
Tỷ lệ nghèo chung phân theo thành thị, nông thôn
Đơn vị: %
1998
2002
2004
2006
Tỷ lệ nghèo chung cả nước
37.4
28.9
19.5
16.0
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
9.0
6.6
3.6
3.9
Nông thôn
44.9
35.6
25.0
20.4
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
Từ những đánh giá trên ta thấy Việt Nam đã và đang hướng tới “bất bình đẳng vừa”, đạt thành tích cao về xóa đói giảm nghèo với tỷ lệ nghèo giảm liên tục ở mức cao. Tuy nhiên, xu hướng giảm tỷ lệ nghèo diễn ra đồng thời với gia tăng bất bình đẳng. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ gia tăng ở tầm quốc gia mà còn giữa các vùng và trong nội bộ mỗi vùng.
2.2. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
2.2.1.Thành tựu tăng trưởng kinh tế đối với công bằng xã hội:
Trong quá trình phát triển, nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân một người một tháng của nhóm thu nhập cao nhất năm 2003-2004 tăng 304,4 nghìn đồng, nhưng nhóm thu nhập thấp chỉ tăng 34,1 nghìn đồng, bằng 11% của nhóm thu nhập cao nhất. Với mức tăng 34,1 nghìn đồng/người/tháng trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng tăng khá cao trong những năm qua thì thu nhập thực tế của nhóm thu nhập thấp ít được cải thiện.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế
Đơn vị:nghìn đồng
Năm
1999
2002
2004
2006
Thu nhập bình quân
295
356
484
636
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tăng trưởng nhanh và có lợi cho người nghèo chính là điểm mấu chốt trong thành tích giảm nghèo của Việt Nam. Tỷ lệ nghèo đói giảm liên tục ở mức cao trong cả nước; tính theo chuẩn mới của Việt Nam, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 14,7% năm 2007. Bình quân mỗi năm giảm được 34 vạn hộ nghèo.
Tỷ lệ nghèo qua các năm
Năm
1998
2002
2004
2006
2007
Tỷ lệ nghèo
37,4%
28,9%
19,5%
16,0%
14,7%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Chất lượng cuộc sống người dân ở các xã nghèo được nâng cao. Thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 1994 là 63.000 đồng/người/tháng đến năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng lên 184.300 đồng/người/tháng vào năm 2006. Cùng với việc cải thiện đáng kể về mức sống được thể hiện qua chi tiêu các hộ gia đình gia tăng, các chỉ tiêu phi thu nhập phản ánh các khía cạnh về mặt xã hội của cuộc sống trong mỗi hộ gia đình cũng được cải thiện trong những năm qua.
- Về mặt giáo dục, tỉ lệ nhập học ròng đã tăng lên đối với tất cả các cấp. Đặc biệt là tỉ lệ nhập học ở cấp trung học phổ thông đã tăng mạnh, từ 7,2% năm 1993 lên đến 63% trong năm 2004, tức là tăng gần 9 lần. Tỉ lệ này đối với cấp trung học cơ sở cũng được cải thiện một cách đáng kể, tăng 3 lần trong khoảng thời gian 11 năm. Tỉ lệ nhập học ở cấp tiểu học cũng đã đạt được tỉ lệ cao trong năm 1993, nhưng tiếp tục tăng lên đạt đến tỉ lệ 94,6% trong năm 2004.
- Về dịch vụ y tế, hệ thống y tế tạo điều kiện cho tất cả người dân có nhu cầu đều được thụ hưởng các dịch vụ khám, chữa bệnh ở các bệnh viện công và các bệnh viện ngoài công lập. Tỉ lệ các hộ gia đình có bảo hiểm y tế và có thẻ bảo hiểm y tế tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây: nếu năm 1998 chỉ có 16% số dân được bảo hiểm y tế thì con số này tăng lên 38%, tức là tăng gấp 2,5 lần.
Các chỉ tiêu xã hội 1993-2004
Các chỉ tiêu phi thu nhập
1993
1998
2002
2004
Giáo dục
Tỉ lệ nhập học tiểu học (thuần)
86.7
91.4
90.1
94.6
Tỉ lệ nhập học trung học cơ sở (thuần)
30.1
61.7
72.1
90.1
Tỉ lệ nhập học trung học phổ thông (thuần)
7.2
28.6
41.8
63
Y tế
BHYT và thẻ bảo hiểm miễn phí
15.73
37.56
Cơ sở hạ tầng
% dân số nông thôn có trung tâm y tế công cộng
93
97
% dân số được sử dụng nước sạch
26.2
40.6
48.5
58.58
% dấn số có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn vệ sinh
10.4
17
25.3
31.8
% dân số sử dụng điện là nguồn thắp sáng chính
49
78
87
93
Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1993 đến 2004
Các điều kiện cơ sở hạ tầng- điện, nước sạch và vệ sinh đều đã được cải thiện một cách đáng kể. Nếu trong năm 1993, chỉ có 48% tổng số dân được sử dụng điện làm nguồn chiếu sáng chính tỉ lệ này tăng gần gấp đôi vào năm 2004, 94%. Tỉ lệ dân số được sử dụng nước sạch tăng lên 3 lần so với cùng thời kỳ, tăng từ 26% năm 1994 lên 88% năm 2004. Trong lĩnh vực vệ sinh tình hình cũng được cải thiện một cách tích cực: tỉ lệ dân số có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 10% năm 1993 lên 32% năm 2004.
Số liệu về sở hữu của các hộ gia đình đối với các mặt hàng tiêu dùng lâu bền như đài, tivi, xe đạp, xe máy v.v…. cũng khẳng định thêm về những cải thiện quan trọng trong mức sống của người dân.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân dẫn tới sự tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập:
2.2.2.1. Hạn chế của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập:
Quá trình tăng trưởng kinh tế với phân phối thu nhập cũng bộc lộ những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước:
Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế nhanh và ở mức cao nhưng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; người nghèo nhận được ít lợi ích từ tăng trưởng hơn so với người giàu điều đó càng làm gia tăng khoảng cách giàu nhèo trong cả nước.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, khả năng cạnh tranh và chất lượng của nền kinh tế Việt Nam năm 2006 đứng thứ 77/125 nước được điều tra, giảm 3 bậc so với năm 2005. Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng, ở năng suất lao động hay giá trị gia tăng cho nền kinh tế, vấn đề cạnh trạnh của nền kinh tế. Các yếu tố vốn chiếm 57% và lao động chiếm 20% vẫn là yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng kinh tế; yếu tố khoa học và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. GDP bình quân đầu người thấp và tốc độ tăng chậm do dân số vẫn tăng cao, điều kiện để nâng cao mức sống của người nghèo, người có thu nhập thấp vượt qua ngưỡng một nước nghèo, đặc biệt đối với khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc còn khó khăn. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng thu nhập.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập- lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam.DOC