MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương I - Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư 6
I - Tạo lập vốn đầu tư 6
1. Khái niệm 6
2. Đặc điểm tạo lập vốn đầu tư 6
3. Vai trò tạo lập vốn đầu tư 7
II - Thu hút vốn đầu tư 7
1. Khái niệm 7
2. Công cụ và chính sách thu hút vốn đầu tư 8
2.1. Công cụ thu hút vốn đầu tư 8
2.1.1. Lãi suất 8
2.1.2. Tỷ giá hối đoái 9
2.1.3. Thuế 10
2.2. Chính sách huy động vốn đầu tư 11
2.2.1. Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính 12
2.2.2. Chính sách tiền tệ 13
2.2.3. Chính sách về cơ cấu đầu tư 13
2.2.4. Chính sách đất đai 13
2.2.5. Chính sách lao động 14
2.2.6. Các chính sách khác 15
III - Sử dụng vốn đầu tư 15
1. Khái niệm 15
2. Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển 15
2.1. Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển 15
2.1.1. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện 15
2.1.2. Tài sản cố định huy động 18
2.2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển 19
2.2.1. Khái niệm: 19
2.2.2. Phân loại 19
2.2.3. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư 20
IV - Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư 21
1. Tính tất yếu khách quan phải tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư 21
2. Tác động của tạo lập và thu hút vốn đầu tư đến việc sử dụng vốn đầu tư 22
3. Tác động giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư 22
Chương II - Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 23
I - Thực trạng tạo lập vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 23
1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế: Vốn đầu tư trong nước. 23
1.1. Vốn nhà nước: 23
1.2. Vốn dân cư và tư nhân: 23
2. Đối với doanh nghiệp 24
II - Thực trạng thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 24
1. Những thành tựu đạt được trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 24
1.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng khá 24
1.2. Vốn ODA: Thu hút vốn ODA có chuyển biến tích cực. 25
1.3. Nguồn kiều hối 26
2. Những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 27
III. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 28
1. Nguồn vốn nhà nước 28
1.1. Ngân sách nhà nước 28
1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 31
2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân 32
3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 34
3.1. Nguồn ODA 34
3.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 38
IV - Thực trạng mối quan hệ tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 43
Chương III - Giải pháp nhằm tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả ở Việt Nam 47
I - Tạo lập vốn đầu tư 47
1. Khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân 47
2. Khai thác các nguồn lực nhàn rỗi 47
2.1. Lao động dư thừa 47
2.2. Năng lực vốn chưa dùng 47
3. Hoàn thiện hệ thống thuế 48
3.1. Thuế trực thu 48
3.2. Thuế gián thu 48
3.3. Thuế doanh thu 48
4. Phát triển các tổ chức trung gian tài chính 49
4.1. Tăng cường cơ hội đầu tư 49
4.2. Tái phân phối thu nhập 49
5. Kiểm soát lạm phát và tăng cường đầu tư xã hội 49
II. Thu hút vốn đầu tư 50
1. Nhóm giải pháp về quy hoạch 50
2. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách 50
3. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư 51
4. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng 52
5. Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương 52
6. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính 53
III. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư 54
IV - Các giải pháp chung 54
1. Tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư 55
2. Phát triển thị trường tài chính 56
3. Hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ 56
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
59 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư, liên hệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: thông thường chiếm 14 - 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ.
1.2. Vốn dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP bằng 33% số tiết kiệm được. Giai đoạn 2001 - 2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp theo nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
2. Đối với doanh nghiệp: Nguồn vốn bên trong.
Nguồn vốn tạo lập của các doanh nghiệp có xu hướng tăng. Đây là tín hiệu tốt của doanh nghiệp vì lượng vốn góp ban đầu, phần thu nhập giữ lại và khấu hao hàng năm trực tiếp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp, tạo sự chủ động và an toàn cho các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp.
II - Thực trạng thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
1. Những thành tựu đạt được trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
1.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng khá
Bảng 1: Thu hút FDI trong giai đoạn 2001- 2007 ( đơn vị: triệu USD)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng
Số dự án
555
808
791
811
970
987
1544
6466
Tổng số vốn đăng kí
3143
2999
3191
4548
6840
12004
21348
54073
Tổng số vốn thực hiện
2451
2591
2650
2853
3309
4100
8030
25984
(Nguồn: Niên giám thống kê 2007 - Tổng cục thống kê NXB Thống kê, Hà Nội 2008)
Trong giai đoạn 2001- 2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP (12 tỉ USD) vốn thực hiện đạt 14,3 tỉ USD tăng 30% so với mục tiêu (11 tỉ USD) năm 2005 vốn cấp mới đạt 6,84 tỉ USD. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức cao năm sau so với năm trước (tỉ trọng tăng trung bình 59,5%).
Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn FDI vào nước ta đã tăng đáng khích lệ với sự xuất hiện của nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đồ điện tử, thép…) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, tư vấn…). Năm 2006 tổng vốn FDI đăng ký 12004 triệu USD, tổng số vốn thực hiện 4100 triệu USD, chiếm 34,16% tổng vốn đăng ký. 12004 triệu USD FDI được ký kết năm 2006 được coi là mức kỷ lục từ khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài. Năm 2007, kỷ lục này bị phá vỡ và thiết lập nên một ký lục mới. Năm 2007 tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm là 21348 triệu USD, cao nhất trong các năm, tăng 77.84% so với năm 2006; tổng số vốn thực hiện là 8030 triệu USD, bằng 37,61% tổng vốn đăng ký.
Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án tăng dần qua các năm. Giai đoạn 2001-2005 đạt 5,2 triệu USD/dự án/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 đều đạt mức trung bình 14,4 triệu USD/dự án/năm.
1.2. Vốn ODA: Thu hút vốn ODA có chuyển biến tích cực.
Bảng 2: Huy động vốn ODA trong giai đoạn 2001 – 2007 ( đơn vị: Triệu USD)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng
Số vốn cam kết
2356
2461
2839
3441
3500
4450
5426
24473
Số vốn đã giải ngân
1500
1528
1442
1650
1720
1780
2000
11620
(Nguồn báo cáo chính phủ tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam)
Trong 5 năm 2001-2005, tổng giá trị ODA cam kết là 14,597 tỉ USD, tổng số vốn đã ký kết là 11,08 tỉ USD và giải ngân được 7,84 tỉ USD. Năm 2006, vốn cam kết ODA đạt 4450 triệu USD, tăng 950 triệu USD so tăng năm 2005; giải ngân đạt 1780 triệu USD. Năm 2007 tốc độ giải ngân và hoà giải thủ tục nguồn vốn ODA đã có những tiến bộ đáng kể. Tổng trị giá ODA cam kết đạt 5426 triệu USD, tăng 12,2% so với năm 2006.
Nhìn chung, sự hỗ trợ của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong những năm qua đã tăng trưởng liên tục và bổ sung nguồn vốn không nhỏ cho nền kinh tế nước ta, tăng cường đầu tư vào các công trình kinh tế quốc dân, các kết cấu hạ tầng cơ sở xã hội, cải cách và nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực này, các dự án xoá đói giảm nghèo.
1.3. Nguồn kiều hối
Bảng 3: Thu hút kiều hối 2001-2007 (tỷ USD)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Kiều hối
1.76
2.15
2.63
3.90
4.29
5.2
5.5
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam ngày càng tăng: năm 2001 là 1.76 tỷ USD, năm 2002 là 2.15 tỷ USD, tăng hơn 22.16% so với năm 2001; Năm 2003 là 2.63 tỷ USD, tăng 480 triêu USD so với năm 2002; năm 2004 là 3.9 tỷ USD gấp gần 1.5 lần so với năm 2003; năm 2005 là 4.29 tỷ USD; năm 2006 là 5.2 tỷ USD; năm 2007 lượng kiều hối về Việt Nam tiếp tục gia tăng và đạt mức 5.5 tỷ USD. Tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2001- 2007 là 25.43 tỷ USD.
Nguồn vốn này không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, mà còn có ý nghĩa quan trọng về mạt chính trị - xã hội sâu sắc. Hiện nay có khoảng 3 triệu người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài, trong đó riêng Mỹ có tới 1.3 triệu người. Hầu hết người Viẹt Nam ở nước ngoài thuộc các thế hệ vẫn giữ được tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước. Tình cảm này được nhà nước Việt Nam trân trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài được về thăm thân nhân hoặc trở về làm ăn sinh sống tại quê hương. Kiều hối gửi về nước được khuyến khích không những bởi sự đơn giản về thủ tục, mà còn cả về số lượng và quyền sử dụng. Lượng kiều hối gia tăng là một trong những thnàh quả của chính sáchđại đoàn kết dân tộc, xoa bỏ ngăn cách và định kiến, hướng sự nỗ lực của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước vì một nước Việt Nam cường thịnh.
2. Những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thu hút vốn đầu tư cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Cụ thể:
- Cơ chế chính sách thu hút các nguồn vốn chưa đủ hấp dẫn, cơ sở hạ tầng pháp lý còn nhiều bất cập, môi trường đầu tư còn nhiều rủi ro, còn có sự phân biệt đối xử, làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư thấp.
Nguyên nhân chủ yếu là quy hoạch yếu; tình trạng thất thoát, đục khoét vốn đầu tư xây dựng, nhất là nguồn ngân sách, nguồn vốn ODA còn phổ biến và nghiêm trọng; tình trạng thi công kéo dài; chi phí giải phóng mặt bằng lớn; tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư theo phong trào, đầu tư tự phát; cơ chế quản lý đầu tư vừa rườm rà phức tạp, lại vừa lỏng lẻo ở tất cả các khâu; hệ thống chính sách thuế còn rườm rà gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn đầu tư…
- Nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với các khó khăn như lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thâm hụt ngân sách gia tăng và nguy cơ về mất ổn định tiền tệ… Tình hình trên khiến hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam chuyển từ “ổn định” sang “tiêu cực”. Quy mô nền kinh tế thị trường Việt Nam còn nhỏ so với hầu hết các nước trong khu vực do thu nhập bình quân đầu người thấp. Quy mô thị trường Việt Nam chỉ bằng 50% của Philippin, 40% của Malaixia, 30% của Thái Lan, 23% của Inđônêxia và 3% của Trung Quốc.
- Chi phí đầu vào tại Việt Nam vẫn còn cao, cao hơn so với một số nước trong khu vực (như phí cảng biển, cước viễn thông, giá điện, phí đăng kiểm, thuế thu nhập và đặc biệt là chi phí giải phóng mặt bằng). Chi phí đầu tư cao là thách thức lớn cho thu hút và giải ngân FDI.
- Nguồn nhân lực của Việt Nam còn có nhiều hạn chế: Thiếu đội ngũ quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp, chất lượng lao động không cao, thể hiện ở chỗ phần lớn số này thiếu kĩ năng chuyên môn như về luật pháp, thị trường trong khi một số khác lại bị hạn chế bởi ngôn ngữ,, sự phân bổ nguồn nhân lực có trình độ không hợp lý…
- Việc cung cấp thông tin còn thiếu và yếu so với nhu cầu khiến cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động đầu tư cũng bị động, thiếu chuẩn xác.
III - Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
1. Nguồn vốn nhà nước
1.1. Ngân sách nhà nước
Trước đây ngân sách nhà nước đã cấp vốn một cách tràn lan cho các ngành, các khu vực kinh tế mà nhất là khu vực kinh tế quốc doanh, nhà nước cung ứng vật tư, tìm vốn cho các doanh nghệp với cơ chế phân phối vốn theo kiểu tập trung bao cấp mọi nhu cầu về vốn đã được nhà nước đáp ứng. Thực tế nền kinh tế này đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế, làm cho ngân sách nhà nước luôn căng thẳng ở mức quá sức chịu đựng. Với nền kinh tế thị trường đã dần dần đi đến xoá bỏ chế độ bao cấp vốn. Vốn đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những khâu xung yếu nhất nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, mở rộng các ngành, các vùng kinh tế trên cơ sở đó giải quyết các vấn đề xã hội và tạo công ăn việc làm, khắc phục nguy cơ bị quá tải khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Với mục đích đó vốn đầu tư tập trung của nhà nước chỉ dùng để :
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
- Đầu tư vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn.
- Đầu tư khai thác các loại nguyên, nhiên vật liệu quan trọng.
- Đầu tư cho công nghiệp quốc phòng.
Đầu tư cho các dự án giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi núi trọc đánh bắt hải sản, một số cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản và dịch vụ xã hội.
Việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể chi cho đầu tư phát triển. Việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể chi cho đầu tư phát triển. Tổng thu Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 -2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt 23%GDP. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi Ngân sách bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi Ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005 tổng số vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước chiếm 22,3% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 22,2%, giao thông, bưu điện 27%, giáo dục, đào tạo 8,9%, y tế - xã hội 6,9%, văn hoá, thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%).
Nguồn vốn từ ngân sách có một vai trò rất lớn trong việc phát triển đất nước. Đặc biệt, đầu tư công có ý nghĩa xã hội rất lớn trong định hướng phát triển chung. Do đó, nếu chỉ tính hiệu quả kinh tế đơn thuần thì sẽ không chính xác, mà phải tính hiệu quả trong xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, an sinh xã hội...
Tuy nhiên, nếu phân tích chi tiết thì chúng ta vẫn thấy được một số điều chưa đạt được như ý muốn. Chẳng hạn, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50% là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó, đối với phần vốn thứ hai thì sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân chưa cao. Mới đây, chúng ta đã phải cắt giảm tới hơn 30 nghìn tỷ đồng trong tổng vốn đầu tư Nhà nước. Điều này chứng tỏ nhiều đơn vị đã đề ra nhiều dự án không mang tính khả thi, hoặc thiếu hiệu quả trong điều kiện hiện nay. Điều này cũng chứng tỏ trước đây chúng ta kiểm soát chưa tốt. Trên thực tế, việc cắt giảm là đúng nhưng về lâu dài chúng ta phải tính đến những phương án hiệu quả hơn, hoặc phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến giảm tính hiệu quả của đồng vốn.
Việc sử dụng vốn chưa hiệu quả cũng có phần do chúng ta còn nhiều vấn đề trong quản lý, như: nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt bằng…
Chúng ta đã có cơ chế quản lý (Luật Ngân sách, Luật Phòng chống tham nhũng…) cho nên không thể có chuyện tuỳ tiện trong sử dụng ngân sách mà có chăng chỉ là chưa hiệu quả...
Ngoài ra, khâu hậu kiểm của chúng ta còn yếu. Ví dụ, dự toán đầu tư và thực tế đầu tư khác nhau rất lớn, nhưng việc đánh giá kết thúc dự án của chúng ta thường chỉ mang tính nghiệp vụ đơn thuần, cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi.
Việc đánh giá chất lượng công trình, tính hiệu quả, báo cáo lên để các cấp các ngành cùng phối hợp với nhau trong tương lai. Quản lý và giám sát vốn đầu tư Nhà nước tại các dự án đang bị buông lỏng. Phần lớn các cơ quan đầu mối như các Bộ, ngành, địa phương và tập đoàn kinh tế không có báo cáo hoặc có nhưng không đạt yêu cầu.
1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lí và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 - 2000 nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.
Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001 - 2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiện hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành vùng lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vụng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Trong 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, Nhà nước liên tục hoàn thiện các chính sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Với luật Doanh nghiệp thống nhất (2005) chính thức có hiệu lực từ giữa năm 2006, các tầng lớp dân cư và khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục được khuyến khích, động viên đại bộ phận phần tích luỹ cho đầu tư phát triển.
Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã) đa dạng và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đã trở thành các các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của những nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); Tập quán tiêu dùng của dân cư; Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
3.1. Nguồn ODA
Những mặt được chủ yếu trong sử dụng ODA từ năm 2001 tới nay là:
Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước).
Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh...
Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1, Ô Môn, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.
ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...
Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.
ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề...
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình nước sạch nông thôn, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chương trình xoá đói giảm nghèo... Nhờ vậy, thứ hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên Hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiệnđại được chuyển giao.
Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệ quả viện trợ.
Tồn tại cần khắc phục và những bài học rút ra từ việc sử dụng vốn ODA:
Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực này:
Chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ của ta. Nguyên nhân chủ yếu là quy trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, lại có sự khác biệt giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam; chậm trễ trong việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng; công tác đấu thầu; năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập.
Thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA; các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng; thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm.
Công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc.
Năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dụng ODA.
Những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: Công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối ODA, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA, công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức, cũng như trong việc theo dõi và đánh giá dự án.
Từ những kết quả đã đạt được và những yếu kém trong việc sử dụng ODA , có thể rút ra những bài học chủ yếu sau:
ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, song không thể thay thế được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong phạm vi một lĩnh vực cụ thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một chất xúc tác, một nguồn lực bổ sung cho quá trình phát triển. Cách tiếp cận lựa chọn trong sử dụng ODA phải được đề cao.
Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, cần gắn kết và lồng ghép một cách đồng bộ chiến lược và kế hoạch thu hút và sử dụng ODA với các chiến lược phát triển, các chính sách và quy hoạch phát triển ngành, vùng và quốc gia cũng như các kế hoạch dài hạn và hàng năm. Đây là yêu cầu bảo đảm sự chủ động của ta trong việc sử dụng ODA.
ODA nguồn hỗ trợ của Chính phủ, các Tổ chức quốc tế và liên Chính phủ dành cho Chính phủ. Do vậy, Chính phủ nước tiếp nhận phải nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng ODA với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn ODA không được sử dụng có hiệu quả.
ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả ODA không hoàn lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài trợ.
Các thành tựu về cải cách đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở quan trọng tạo dựng niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam và là tiền đề bảo đảm cho sự thành công cho việc vận động và thu hút ODA trong giai đoạn tới.
ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Đây là bản chất của nguồn vốn này, do vậy, thành hay bại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào va
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư Liên hệ ở Việt Nam.doc