B. ẢNH HƯỞNG CỦA THIỀN TRONG THƠ HAIKU
Thơ Haiku:
- Là thể thơ mini nhất được biết đến trong văn học thế giới. Mỗi bài 17 âm tiết (có khi 19), chia thành 3 dòng 5-7-5.
- Người đã đem lại sức sống bất diệt cho hơi haiku là Matsuo Basho (1644- 1694). Người Nhật tự hào khẳng định: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm 1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn Nhật Bản”.
- Ngoài ra: Sampu là đệ tử của Basho, Chiyo nữ sĩ của những xúc cảm trong sáng, Yosa Buson thi sĩ mùa xuân, Issa nhà thơ của nhân tình.
- Triết lí Thiền ảnh hưởng đến:
+ nội dung
Đề tài:
- Đề tài trong thơ haiku bao giờ cũng là thiên nhiên (kidai- quý đề). Thiên nhiên trong thơ haiku chỉ là những cảnh vật bình dị, những con vật nhỏ bé: một con quạ, một con ếch=> các thi sĩ thể hiện tình yêu với thiên nhiên, quay lưng lại với những giá trị mà người đời theo đuổi như quyền lực, của cải, danh vọng Thể hiện tư tưởng bình đẳng dưới ánh sáng của Thiền.
- Cảnh vật chỉ là của một khoảnh khắc thực tại chợt hiện ra trước mắt nhà thơ nên trong thơ haiku bao giờ cũng có từ chỉ mùa (quý ngữ trực tiếp) hoặc hình ảnh tượng trưng cho mùa (quý ngữ gián tiếp). Thực tại chính là thứ tài sản quý giá nhất mà mỗi người chúng ta có được. Các Thiền tông tập thói quen để năng lực bộc lộ hết mình trong khoảnh khắc thực tại. Họa sĩ vẽ tranh mặc hội, thủy mặc phải tu thiền. Các nhà thơ đa số là thiền sư, hoặc là sống cuộc đời như một thiền sư.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4578 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mõi quan hệ giữa tôn giáo và văn học Ấn Độ, Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rước khi người Arya xâm nhập đất Ấn, cư dân bản địa theo chủ nghĩa totem, chủ nghĩa tinh linh, tín ngưỡng thần linh đối với một số động vật, thực vật. VD: bò cái tượng trưng cho đất mầm nuôi dưỡng. Đầu voi mình người biểu tượng cho sự sự hợp nhất đại vũ trụ và tiểu vũ trụ, thần rắn tượng trưng cho trí tuệ. Có tượng phụ nữ liên quan đến sự thời phụng thần mẹ, coi âm vật yoni là nguồn gốc sáng tạo. Bên cạnh đó có thần nam biểu hiện bằng phiến đá dương vật linga. Và tượng yoni có thể liên quan đến Shiva=> thể hiện quan niệm duy vật thô sơ về sự hình thành và sinh sôi của thế giới vật chất. Đó là do âm dương kết hợp mà nên.
II. Thời Veda:
+ tác già và thời gian ra đời: Veda là tên tác phẩm tôn giáo đồng thời là tác phẩm văn chương đầu tiên của văn học Ấn Độ. Hơn 5000 năm trước, Ấn Độ là nơi chôn rau cắt rốn cảu một trong những nền văn minh tối cổ của nhân loại. Đến khoảng -1500, người Arya tràn vào AD. Trong một cố gắng hòa nhập với miền đất mới, họ đã để lại một gia tài quý báu là Veda (hiểu biết)
+ đặc điểm của thần thoại AD thời Veda:
Phong phú, đa dạng, có hệ thống. Rig Veda được xem là Vạn thần miếu của người AD cổ đại.
1028 bài thơ của Rig Veda đều có chung chủ đề ca tụng các thần. Tuy nhiên một sự sùng bái các thần hiểu theo nghĩa đên hoàn toàn vắng bóng ở đây. Bản chất là sự khám phá, giải thích hiện tượng tự nhiên. Lòng tin thơ ngây, trí tưởng tượng hồn nhiên của người cổ đại đã ban cho chúng một bản chất linh hồn. VD: Sơn Tinh, Thủy Tinh, Thần thợ rèn Hephaixtot, Thần mặt trăng Soma lấy 27 người vợ là 27 chị em gái, con của một đạo sĩ, nhưng chỉ yêu 1 cô là Rômiti. Nữ thần rạng đông Usha, chồng là thần mặt trời Suria. Thi ca và khoa học đã hòa làm một trong những thần thoại Ấn Độ.
Tuy nhiên, thần thoại Ấn Độ cũng rất giàu giá trị hiện thực. Tước bỏ ánh hào quang huyền thoại, có thể thấy cuộc sống của người Arya cổ đại. VD: thần thoại về nữ thần rạng đông Usa, hay thần mặt trăng Roma.
Thời kì đầu, các thần có vai trò như nhau trong việc sáng tạo ra thế giới và ban ân phước cho con người. Đây là thời kì đa thần giáo (polytheism) trong thần thoại Ấn Độ.
Thời kì cuối, trong một số thần thoại như Prajapati, Rurusa, quyền lực sáng tạo được quy vào một đấng tối cao là Prajapati hoặc Purusa (tụng ca khổng lồ Purusa). Các thần cụ thể chỉ là hiện thân của một đấng tối cáo trừu tượng giống như những tia nắng thể hiện một mặt trời, giống như những con sóng thể hiện đại dương. Đặc điểm này được gọi là Marx Muller gọi là Tối thượng thần giáo (Henotheism hay Kathenotheism)- tôn giáo thờ một vị thần tối thượng nhưng vị thần tối thượng ấy có nhiều hiện thân.
Tuy nhiên trong Rig Veda, người ta cũng thấy thấp thoáng bóng dáng của một thuyết phiếm thần tế nhị (trong Bài ca khởi nguyên vũ trụ). Thuở ấy chưa phân biệt hữu và vô. Từ không trung xuất hiện một sức nóng=> Đấng Một được sinh ra=> Sinh ra các thần (phủ nhận vai trò sáng tạo thế giới của các thần- là biểu hiện của thuyết phiếm thần luận).
Thần thoại Ấn Độ trong Veda giàu Ấn Dụ, biểu tượng, phóng đại, nhân hóa. Thiên nhiên được tả rất thơ mộng. Hình tượng các thần hay được miêu tả dị dạng (thần đất có 4 tay, nữ thần sông Hằng có 4 tay, thần lửa có 3 đầu 7 lưỡi, thần mặt trời 4 tay, thần gió 4 tay cưỡi linh dương trắng, thần going tố có 1000 mắt, thần sáng tạo có 4 đầu 3 mắt, Visnu có 4 tay. Khác các thần của thần thoại Hi Lạp được miêu tả như những người đẹp nhất. Vì thần thoại Ấn Độ muốn sùng tín thần linh, coi thần linh là đấng siêu nhiên, không thể giống con người, phải có đặc điểm khác người, siêu phàm.
Hệ thống thần thoại Rig Veda: 3 hệ thống. Thần thoại, ngụ ngôn, sử thi, sách y học là đều là thơ.
a/ Thần thoại giải thích nguồn gốc vũ trụ và những hiện tượng thiên nhiên.
* Thần thoại giải thích nguồn gốc vũ trụ: có 3 ngôi tối linh.
- Trời cha Dyaus
- Đất mẹ Aditi: một người phụ nữ xinh đẹp có 4 tay. Câu chuyện về nữ thần Đất sinh ra nàng Xita được lưu giữ trong sử thi Ramayana. Vua Janaka trong buổi lễ hạ điền đã cày trong lòng đất một hài nhi bé nhỏ. Xita nghĩa là luống cày. Về sau khi bị chồng ruồng rẫy nàng lại cầu mong đất mẹ mở rộng vòng tay đón mình về=> quan niệm của người Ấn Độ về vai trò của đất.
- Thần con Aditya vì khi người Aryan đặt chân lên đất Ấn Độ thấy trời bao la, đất vĩnh hằng, giữa trời và đất thì vạn vật đều hữu sinh hữu diệt. Như vậy cha trời đã kết hôn với đất mẹ thần con. Cha trời gửi hạt mưa vào lòng đất mẹ để sinh ra những đứa con. Bộ ba này phản ánh ý niệm giản đơn của người Arya vào sự hình thành vũ trụ muôn loài.
* Thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên.
- Hệ thống này rất phong phú, có thần thoại Varuna- Thần Không Trung, Thần Biển, Indra- Thần Mưa, Thần Sấm Sét, Marut- Đoàn quân bão táp, Surya – Thần Mặt Trời cưỡi cỗ xe 7 con ngựa, Usa- Nữ thần Rạng Động, Agni- Thần Lửa cưỡi bò, Vayu- Thần Gió đa tình cưỡi linh dương trắng, Sooma- Thần Mặt Trăng, Thần Rượu... Ba ngôi tối linh trong tiểu hệ thống này là Thần Agni- Lửa, Thần Surya- Mặt Trời, Thần Indra- Giông tố cưỡi voi.
Cụ thể: Vayu là Thần Gió đa tình, Anjana sinh ra một con khỉ Haruman. Ngoài ra còn thần thoại về nữ thần sông Hằng phản ánh quá trình chinh phục và cải tạo thiên nhiên: chống hạn, mang nước về tưới cho đồng ruộng.
b/ Thần thoại sáng taọ và thủy tổ loài người.
- Người sáng thế Visuakarma: vốn là một người thợ thủ công khéo tay trong bộ lạc. Cỗ xe thất mã của thần Mặt trời, lưỡi tầm sét của thần Giông Tố. Có nhiều học trò đến học trong đó có 3 anh em tài giỏi, những học trò giỏi bị những người trong bộ lạc ghen ghét, tìm cách hãm hại nhưng được các vị thần che chở=> thời kì người Arya cổ đại biết sáng chế ra những kim loại quý, trong công xã nổi lên những người khéo tay, bị ghen ghét.
- Thủy tổ loài người Prajapati: thực chất là một tù trưởng có tài cai trị bộ tộc. Dưới quyền là các thị tộc Gama=> công đoàn kết các thị tộc qua một ngọn lửa thờ chung, có công phát triển các đàn gia súc.
- Con người khổng lồ Purusa: gán cho công lao sáng tạo ra thế giới. Trong thần thoại Tụng ca khổng tồ Purusa: trong lễ hiến tế, các bộ phận sinh ra thế giới và các đẳng cấp=> thấy dấu vết của tôn giáo nhất thần.
- Con người nguyên thủy Manu: người đầu tiên có mặt trên trái đất là Manu. Câu chuyện về Manu giống câu chuyện về đại hồng thủy trong kinh thánh.
c/ Thần thoại về các thần tinh thần tình cảm.
- Thuộc hệ thống này có các thần như Thần Tình Yêu Kama, nàng Say Đắm Rati (vợ Kama), Vũ nữ thiên thần Apsara, Chúa Xuân Vasanta (Bạn của Kama). Thần Tình Yêu của các dân tộc trên thế giới đều cầm cung tên. Kinnara là thần đầu người cánh chim.
- Thần Tình Yêu Kama:
+ quá trình hình thành: thoạt kỳ thủy, Kama có nghĩa là ý muốn tự nhiên. Đây là ý muốn tự nhiên của 2 giống đực purusa và cái prakriti trong vũ trụ, muốn tìm đến với nhau, phối hợp với nhau để làm sinh sôi nảy nở vạn vật trong trời đất.=> nhận thức này có tính duy vật, người Dravidia cổ nhận thấy trong thực tế, các hiện tượng đối cực hòa hợp mà sinh ra các thế hệ sau. Xuất phát từ quan niệm này mà họ thờ dương vật và âm vật.
+ khi người Arya định cư ở Tây Bắc Ấn, họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm này. Họ cho rằng: kama là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống, làm phấn chấn và lôi cuốn muôn vật, muôn loài.
+ về sau trong cuốn Atharva Veda, Kama trở thành một biểu tượng thần linh tự tại: Kama có trước tất cả, chẳng do ai sinh ra cả nên gọi là Aja, thần thánh, tổ tiên, loài người đều ở dưới, sau Kama, do Kama sinh ra.
+ đây là một chàng trai tuấn tú. Ngồi trên xe do chim vẹt kéo, cung của thần là cây mía uốn cong, dây là đàn ong kết cánh, mũi tên bằng hoa xoài. So sánh với Cupidon
Kama
Cupidon, Eros
- Chàng trai khôi ngô tuấn tú: tình yêu thuộc về 1 quãng đời tươi đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
- Di chuyển bằng chim vẹt: ở Ấn Độ tượng trưng cho sự thông minh. Tình yêu phải được sự dẫn dắt của trí tuệ. Vợ của thần Tình Yêu là nàng Say Đắm: dù say đắm đến đâu cũng có phần lí trí. Hơn nữa: chim vẹt đi rất chậm. Đến với tình yêu không thể đi bằng một cỗ xe nhiều mã lực.
- Cung bằng cây mía uốn cong, dây cung do con ong kết cánh, mũi tên bằng hoa xoài: những sản vật đó đem đến cho chúng ta vị ngọt và hương thơm. Mũi tên hoa xoài ngọt ngào, êm dịu, không gây đau đớn. Tagor: tình yêu ơi khi Người đến với ngọn đèn bừng sáng trong tay ta nhìn rõ mặt Người và biết rằng Người tuyệt vời hanh phúc
Đứa trẻ kháu khỉnh bụ bẫm, vũ khí là cung tên làm bằng gỗ cây trắc bá, tên làm bằng vàng.
-Nếu thần tình yêu là một ông già thì người già rất chín chắn, cẩn thận.Trẻ con: tinh nghịch. Tình yêu theo quan niệm của người HiLa là một trò nghịch dại của con trẻ, yêu chính là đang chơi một trò chơi dại dột.
- Bay bằng cánh: tượng trưng cho sự tự do, không một thế lực nào có thể ngăn trở tình yêu. Nhưng đôi cánh cũng tượng trưng cho sự mong manh dễ tan vỡ. Thần Cupidon là con trai của thần sắc đẹp Aphroditơ.
- Bộ cung tên bằng gỗ của cây trắc bá: rất rắn, tên bằng vàng: tình yêu đem đến cho ta nỗi đau, làm tim ta rớm máu.
+ chiến công của thần Kama: Chiến thắng các thần tối linh của đạo Baflamon như Brahma, Shiva...- tượng trưng cho chủ nghĩa khổ hạnh, là phần siêu thoát, là đạo. Kama là quan niệm luyến ái và gia đình của nhân dân đương thời, là phần nhập thế, là đời. Chúng khi thì dung hòa, khi thì xung đột nhưng chủ nghĩa tình cảm, tình yêu đã lấn át cả tôn giáo và chủ nghĩa khổ hạnh. Brahma yêu chính người con gái của mình, có tới 5 cái đầu để ngắm con gái.
=> một trong những trang thần thoại nên thơ nhất của Ấn Độ.
+ thần thoại Kama còn đi vào văn học, phong tục tập quán của người dân Ấn Độ. Tro xác Kama hòa vào nước có màu đỏ. Từ đó, phụ nữ Ấn Độ thường rắc bột đỏ lên đường ngôi hoặc chấm đỏ lên trán biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc và tình yêu.
- Apsara: trong tiếng Sangkrit nghĩa là uốn lượn trong nước.
+ các vũ nữ này rất đẹp, có tài múa lượng, có phép biến hình thành muôn hình muôn sắc rực rỡ như ngũ sắc cầu vồng. Họ chuyên phá phép tu khổ hạnh của các tu sĩ.
+ Apsara Menaka được Vâyu và Kama giúp sức đã phá phép tu của Visuamitra mà sinh ra cô gái đẹp nhất trần gian là Sakuntala.
=> tâm hồn AD chao đảo giữa phần đời và phần đạo. Phần thắng bao giờ cũng thuộc về tình yêu, đây là khát vọng nhân bản của con người.
III. Thời kỳ hậu Veda:
Sau Veda, còn có 1 số bộ thần thoại nổi tiếng nữa là Brahmana, Purana và Upanishad. Bộ ba thần tượng Trimurti (Tam linh vị): Brahma Thần Sáng tạo- Vishnu Thần Bảo tồn- Shiva Thần Phá hủy đóng vai trò chủ yếu trong các pho thần thoại hậu Veda. Trong quan niệm của người AD: đây là 3 mặt của 1 vi thần sáng tạo.
Brahman
Quá trình hình thành
Đạo bà la môn thờ thần sáng tạo
- Ban đầu có dạng từ là Brahman với ý nghĩa hoàn toàn duy vật. Pig Veda nhắc tới từ Brahman với 232 lần nhưng với ý nghĩa vật chất là của cải, đồ ăn, công xã. Trong công xã, của cải quan trọng nhất là đồ ăn, chưa có ý thức tương ứng về của cải vật chất. Nhưng sau này, họ nhận thấy có ăn mới có sự sống, biểu hiện của sự sống là hơi thở, khi còn thở thì linh hồn còn tồn tại trong thân xác. Đầu tiên là linh hồn của một cá thể, sau này có nghĩa là linh hồn duy nhất, bao trùm cả vũ trụ. Nó là nguồn gốc duy nhất của vạn vật và thần thánh. Mọi vạt vào thần đều là những biểu hiện tạm thời của nó. Brahman là thần sáng tạo.
2. Các thần thoại.
- Thần thoại về sự ra đời của Brahman:
+ ra đời từ quả trứng vàng trôi trên biển.
+ sinh ra từ bông hoa sen. Từ rốn của Visnu sinh ra Brahman trong một bông hoa sen.
- Thần thoại về sự sáng tạo của Brahman:
+ sáng tạo ra 4 đẳng cấp
+ sáng tác ra các ngành nghệ thuật: trong Ramayana, Mahabharat có ghi dấu ấn câu chuyện này. Theo quan niệm của AD, văn học là ánh sáng của thần linh ban xuống cho con người.
- Thần thoại về sự xuất hiện năm đầu.
3. Brahman về cơ bản là một vị thần trừu tựng, là một ý niệm triết học duy tâm thần bí.
Vishnu
Quá trình hình thành:
- Lúc đầu, Vishnu có nghĩa là thần lực của mặt trời khiến mặt trời chỉ cần ba bước (bình minh- chính ngọ- hoàng hôn) là vượt qua bầu trời.
- Về sau, Vishnu tiếp nhận thêm những đặc tính của Indra và trở thành bị thần Bảo Tồn đóng vai trò bảo vệ thế gian.
- Trong 3 ngôi của Tam linh vị, Vishnu là vị thần có nhiều thần thoại nhất.
2. Các thần thoại về Vishunu: phong phú nhất.
- Vishnu nằm nghỉ trên mình rắn thần Sesa bồng bềnh trên biển vô biên.
- Vishnu đứng thẳng, bốn tay nắm bốn vật: vỏ ốc, đĩa tròn, bông sen, chùy.
- Vishnu hóa thân thành cô gái đẹp đánh lừa Shiva.
Người đánh xe và người ngồi trên xe: vai trò của tâm linh trí tuệ quan trọng hơn vai trò của quân đội
- Vishnu có nhiều thần tích đặc biệt về các kiếp hóa thân có 10 kiếp: 5 kiếp vật, 5 kiếp người. Hai kiếp người quan trọng nhất là thần Krishna trong sử thi Mahabharata và Rama trong sử thi Ramayana.
Shiva
Quá trình hình thành
- Trong Rig Veda chưa có thần Shiva. Lúc bấy giờ Shiva là một từ có nghĩa là tốt lành.
- Sau này, Shiva thành một vị thần vừa ác, vừa thiện. Thần ban sức khỏe, gia súc, con cái nhưng thần luôn vung sấm sét, giương cung bắn tên tiêu diệt nhiều sinh linh.
- Đến Upanishad, thành ý nghĩa trừu tượng.
- Điệu Tandava: điệu nhảy vũ trụ, điệu múa chiến thắng, chân phải dẫm lên người lùn Asura, cố quàng 1 con rắn. Trên đầu có 1 vòng lửa đang tỏa sáng. Bức tranh minh họa thần thoại nổi tiếng, ca ngợi chiến công của Shiva trước các thế lực: rắn là tri thức nội tại, người lùn là thói xấu, ngọn lửa là ánh sáng xua đi vô minh...
=> Shiva là thủy tổ của nghề múa.
2. Thần thoại về Shiva: thần thoại về chiến công của Shiva trong việc chinh phục người lùn Asura, hổ, rắn.
Mối quan hệ giữa 3 vị thần
- Brahma và Vishnu đang tranh nhau nhận mình là Đấng Sáng Tạo và Hủy Diệt vũ trụ thì một cột khói hiện ra cao ngất, bất tận. Hai thần chia nhau đi tìm đầu và cuối ngọn lửa nhưng không được. Shiva xuất hiện giữa cột lửa và cho biết không ai hơn ai kém ai. Ba ngôi tối cao cùng một bản thể. Câu chuyện nhằm dung hòa các tông phái thành nhất thần luận bằng bộ ba thần tượng Trimurti.
=> tư duy biện chứng của người AD về vạn vật trong vũ trụ. Vạn vật đều được sinh ra, được bảo tồn, hủy diệt để bắt đầu 1 chu trình sáng tạo mới. Sự sống và cái chết chẳng qua chỉ là 2 mặt của tồn tại. Kế thừa tư tưởng này, Tagor có cái nhìn lạc quan trước cái chết. Trong khi đó cái nhìn của các nhà hiện sinh chủ nghĩa rất bi quan về số phận con người. Với Tagor tử thần là một người bạn, chết là về với mẹ yêu quý, so sánh tử thần với vị hôn thê. Trong tập vượt biển: sự sống và cái chết là 2 bờ của một biển cả. Được so sánh với 2 bầu ngực của người mẹ.
- Hệ quả:
+ phục vụ mục đích cai trị của giai cấp thống trị: các tôn giáo chung sống với nhau hòa thuận.
+ tạo nên cách sống hòa hợp của người AD
Đọc sử thi Ấn Độ Phạm Thủy Ba
BÀI 3: HINĐU GIÁO VÀ SỬ THI ẤN ĐỘ
Khái quát
Thể loại sử thi
Khái niệm
- Là những áng thơ tự sự dài
- Xuất hiện sớm trong lịch sử các dân tộc
- Nhằm ca ngợi sự nghiệp anh hung có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử.
- Nhân vật chính là những anh hung, tráng sĩ, tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thân của cộng đồng.
2. Đặc trưng
a. Theo Hegel: 4 nguyên tắc
- Tính khái quát: bao trùm những vấn đề của một dân tộc ở một thời đại.
- Xung đột (về vật chất: tranh giành của cải,, đất đai, người đẹp)
- Nhân vật lí tưởng: gửi gắm những ước mơ về hình mẫu những con người đẹp đẽ nhất của thời đại. (tài năng, dũng cảm, sức mạnh, trí tuệ)=> thiên về vẻ đẹp vật chất=> đề cao Acete (sự ưu tú phi thường về mọi mặt)
- Tính giáo huấn: giáo dục con người bằng những hình tượng.
b. Theo M. Bakhtin
- Nguồn gốc: là truyền thuyết dân tộc (chứ không phải là những kinh nghiệm cá nhân và hư cấu).
- Thế giới sử thi được cách li khỏi thời đương đại=> chỉ có thể tiếp nhận với thái độ thành kính, ko thể đánh giá lại => thế giới người đã khuất=> ngôn ngữ giọng tụng ca, chuyên viết về nhân vật chính diện.
c. Đặc trưng nhân vật sử thi
- Nhân vật khái quát: nhân vật sử thi đại diện cho sức mạnh của nhân dân (Asin- đó là sự thần thánh hóa nước Hy Lạp bằng ý thuật).
- Nhân vật lý tưởng: “Nhân vật sử thi là những người tốt, những người đáng kính trọng” (Arixtot)=> về lịch sử, sự phân biệt chính diện- phản diện gắn với mâu thuẫn trong xã hội, hình thành trên cơ sở mâu thuẫn giai cấp, tư tưởng => sử thi chưa có sự phân biệt này (trần Đình Sử).
- Về thể loại: con người của sử thi là con người của quá khứ tuyệt đối, hoàn tất, hoàn chỉnh đến toàn bộ.
- Nhân vật hành động: nhân vật sử thi được “ngoại hóa hoàn toàn”, được thể hiện qua hành động và ngôn ngữ. Là những nhân vật nguyên khối, nguyên phiến, chưa có sự vận động, phát triển tâm lý.
II. Khái quát về sử thi AD
Khoảng 500 năm TCN, thời đại của các bộ sử thi bắt đầu, trước đó xã hội AD đã phát triển sang chế độ quân chủ phong kiến. Người Arya phát triển hung mạnh=> xung đột giữa các nhà nước Arya và giữa người Arya với người bản địa.
=> các cuộc chiến tranh đẫm máu.
- 4 bộ sử thi lớn: 2 bộ bằng tiếng Sanskrit: Ramayana, Mahabharata.
- Tác giả: thành quả sáng tạo của hàng chục thế kỷ bổ sung, sửa chữa.
B. Mahabharata
I. Giới thiệu chung
- Tác giả: Vyasa (người biên tập, sắp xếp).
- Đây là bộ sử thi lớn nhất của AD: cổ nhất, đồ sộ nhất, mẫu mực nhất trong văn học thế giới.
- Cốt truyện: kể lại truyền thuyết về cuộc chiến tranh giữa hai chi của dòng dọ Bharata vĩ đại.
II. Hệ thống nhân vật
Phân tuyến chính diện- phản diện
- Sử thi Hylap không phân biệt chính tà.
- Sử thi Maha có sự phân biệt này=> sự va chạm của 2 quan niệm sống trái ngược
+ 1 bên cho rằng của cải, đất đai, phụ nữ là quan trọng của đời sống mà phải đạt bằng mọi giá.
+ 1 bên không phủ nhận tầm quan trọng của cải và tình yêu, nhưng không phải giành được chúng bằng những phương tiện bất công mà phải dùng hành vi hợp đạo lý, phải vị tha, hòa hợp, thể hiện bổn phận phục vụ nhân dân.
=> xung đột giữa hai tuyến là xung đột về lối sống cứ không phải về quyền lợi vật chất.
=> xây dựng 2 hệ thống nhân vật đối lập nhau: 100 korava và 5 pandava.
Chính diện Dharma
Phản diện Adharma
Trí Krishna Rễ
Đức Yudhis Cây lớn
Sức Bhima Cành
Tài, dũng Arjuna Thân
Đẹp Nacula Hoa
Thông minh Xahadeva Quả
Kuru Mù
Duryo Xấu xa
Dusa Tàn bạo
Karta Ngoan cố
Sakuri Xảo quyệt
Nhân vật anh hùng lí tưởng là bức tượng n vị nhất thể.
- Trong sử thi Homer, cả 2 bên chiến tuyến đều là những anh hung toàn thiện=> phấn đấu cho Arete- sự ưu tú phi thường về mọi phương diện. (Asin, Uylixo).
- Maha có rất nhiều nhân vật anh hung. Nhưng mỗi người chỉ ưu tú về một phương diện.
=> 5 pandava mới hợp thành một kiểu mẫu anh hung lý tưởng qua một bức tượng n mặt thực hiện đặc trưng tư duy của người AD từng sản sinh ra Tam linh vị.
3. Nhân vật anh hùng trung thành với bổn phận làm người (Dharma)
- Nhân vật anh hung vần có phần yêu quỷ trong tâm hồn, phản xạ đầu tiên của họ thường cũng rất bản năng.
+ Yudhisthita chơi xúc xắc vì ham muốn đất đai.
+ Ngày 14 của cuộc chiến tranh, những điều luật cao thượng đều bị vi phạm.
- Nhưng họ luôn chấn chỉnh, thay thế bằng phản xa thứ 2 của con người cao thượng, vị tha.
4. Nhân vật anh hùng khao khát giải thoát (Moksha)
- Tuyệt đích của anh hung trong sử thi Hy Lạp là những giá trị được công nhận trên trần thế.
- Các anh hùng trong sử thi AD vượt qua những khao khát nhất, mà khao khát thoát khỏi sự chi phối của đời sống xã hội để hợp nhất Brahman tức là đạt đến giải thoát.
+ sự lưỡng lự của Ajuna trước khi chiến tranh mở màn.
+ sự bối rối của Yudhishira về vấn đề cai quản.
Điều quan trọng không phải là hơn người khác mà là hơn chính mình ngày hôm qua
Thi: Trình bày 1 cặp phạm trù của Hindu giáo, áp dụng vào tác phẩm sử thi.
Bài điều kiện: thơ sùng tín hoặc thơ Haiku: mối quan hệ giữa Thiền Tông và thơ Haiku, mối quan hệ giữa Hindu và thơ sùng tín.
RAMAYANA
Giới thiệu chung
- Vanmiki: sống ở thế kỉ 4 trước công nguyên, thuở nhỏ hư hỏng, bỏ vào rừng làm lục lâm. Một hôm đang rình mò trong rừng để cướp túi tiền thì người đó đánh Valmiki đến ngất đi. Đạo sĩ chăm sóc Valmiki lành vết thương, ông quyết định ở lại am nhỏ đó để tu luyện. Valmiki tu luyện chăm chỉ. Kiến, mối đùn lên cũng không biết. Valmiki nghĩa là người con của tổ mối. Một thời gian sau Valmiki đắc đạo, đạo sĩ già rồi, cho rằng mình sẽ giải thoát, bảo cho Valmiki hành hương về sông Hằng. Một hôm đi dọc bờ sông, chứng kiến cảnh đôi chim đùa giỡn với nhau. Loài chim sống thành đôi. Người thợ săn bắn chết con chim trống. Con chim mái đau khổ. Valmiki buông lời nguyền rủa. Thần Brahman yêu cầu Valmiki kể lại câu chuyện về hoàng tử Rama. Valmiki thấy lời nguyền mình rất du dương, thể thơ được thốt lên từ nỗi đau là Sloka. Valmiki lấy thể thơ này để kể lại. Ramayana là những chiến công của Rama. Đến nay sưu tầm được 24.000 sloka
- Cốt truyện kể lại truyền thuyết về cuộc hành binh chinh phạt phương nam cứu vợ của hoàng tử Rama (vương quốc Kosala nằm bên bờ sông Hằng ở Bắc Ấn). Truyền thuyết là sự khúc xạ những cuộc mở rộng địa bàn xuống phía nam của người Arya thời cổ đại.
- Cốt truyện: kể lại 1 câu chuyện bắt đầu trong tiền kiếp của thần. Trước đây con quỷ được đấng sáng tạo ban cho sự sống, không gì có thể tiêu diệt được y. Các thần cầu xin than bảo tồn đầu thai xuống trần gian để tiêu diệt quỷ Ravana. Thần đầu thai làm con trai vua Dasharatha (Thập sa vương), ông làm lễ hiến tế cầu xin thần ban cho mình một đứa con. Các phi sinh cho vua nhiều con. Vốn là con cả, tài giỏi, ngôi vua thuộc về hoàng tử Rama. Công chúa Sita là con gái vương quốc…xinh đẹp, nhà vua đặt điều kiện chàng nào nhấc được cây cung thần khổng lồ để bắn thì được làm chồng công chúa. Rama làm được, có 3 vị thần đến chúc phúc cho họ. Sau đó khi Rama bước vào tuổi 29, vua muốn nhường ngôi cho Rama, Rama đến phòng của nhà vua, yêu cầu vua thực hiện lời hứa.
Đoạn trích “Rama buộc tội”
Vị trí đoạn trích
- Chương 79 thuộc khúc ca thứ sáu của sử thi.
- Nằm sau sự kiện Rama tiêu diệt được Ravana. Tưởng rằng Rama và Sita sẽ đoàn viên hạnh phúc nhưng lại gặp trở ngại: làm thế nào Rama đón nhận Sita hợp tình hợp lí nhất?
- Thự ra nếu xét về sự hoàn chinh của một sử thi thuần khiết thì Rama có thể kết thúc ở chương 78 khi Rama tiêu diệt được Ravana. Nhưng Valmiki miêu tả cuộc tái ngộ giữa Rama và Sita để khắc họa đậm nét hơn lòng trung thành tuyệt đối hơn với bổn phận của một trang Kshatrya của Rama, tình yêu và lòng chung thủy của Sita.
2. Hoàn cảnh cuộc tái ngộ: rất khác thường
- Không gian: không diễn ra nơi riêng tư. Rama bố trí cho cuộc tái ngộ trong một không gian cộng đồng có cả quan quân, dân chúng.
- Tâm trạng của hai người trái ngược nhau do sự cảm thụ thời gian của hai người khác nhau. Ở chương 78, Sita không đeo đồ trang sức, không muốn đi tắm vì nóng lòng đến gặp chồng. Còn Rama không muốn gặp vợ, cố tình trí hoãn, ngồi yên “đắm chìm trong suy nghĩ.”
3. Hình tượng Rama
Lời nói
- Hỡi phu nhân cao quý.
- Trình bày bổn phận. danh dự của một anh hung là bị lăng nhuc thì phải rửa nhục: kẻ nào bị lăng nhục thì phải rửa nhục, nếu không chỉ là một gã đàn ông hèn hạ.
- Nghi ngờ, khinh bỉ từ chối nàng vì nàng đã bị ô uế, không còn xứng với dòng dõi vương giả của chàng nữa.
- Kết án Rita lưu đày, khuyên nàng lời khuyên vô đạo: đi theo e trai mình, em trai quỷ, quỷ Hanuman
=> thái độ lạnh lung, tàn nhẫn
Cử chỉ hành động
- Lòng Rama đau như dao cắt.
- Rama ngồi, mắt nhìn dán xuống đất.
- Rama đức hạnh nghe người nọ người kia thì thào bàn tán ngồi suy nghĩ ủ ê, thầm rỏ nước mắt.
=> đau đớn xót xa khi buộc phải nói những lời lạnh lung, tàn nhẫn.
Lí giải: ngôn ngữ với hành động và tâm trạng của Rama dường như thuộc về hai con người. Vì chàng bị đặt vào tình thế giằng co giữa bổn phận vị tha và quyền lợi vị kỉ. Theo các sách Luật thời bấy giờ, muốn xã hội trật tự thì cuộc sống riêng của nhà vua “phải là một mẫu mực của trật tự xã hội”. Sự mẫu mực của gia đình Rama đã bị nghi ngờ khi Sita bị rơi vào vòng tay của quỷ. Muốn khôi phục lòng tin của dân chúng vào sự mẫu mực của gia đình mình, Rama phải chứng minh gia đình mình phải là một mẫu mực. Muốn vậy chàng phải chứng minh Sita hoàn toàn trong trắng. Rama đã quyết định hi sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ quyền lợi cộng đồng. Chàng trách mắng Sita để nàng nhảy vào lửa, nhờ thần lửa chứng minh cho tâm hồn trong sáng của nàng trước thần dân. Những lời trách mắng của Rama không phải là ghen tuông hay đa nghi mà là sự hi sinh vì quyền lợi cộng đồng. Việc chứng minh này diễn ra trước thần dân và cho thần dân chứ không phải cho Rama. Bởi chàng hiểu sâu sắc Sita: “Cũng như nước biển không thể bị biển vượt qua, nàng không thể bị khuất phục bởi Ravana. Hắn không thể đụng tới nàng cũng như không thể đụng tới ngọn lửa tinh khiết”. Chàng thấy việc tẩy uế là cần thiết để khôi phục lòng tin của dân chúng: “Nàng đã bị giam giữ quá lâu, Giá tôi chấp nhận nàng mà không có sự tẩy uế nào thì thiên hạ sẽ kết tội tôi, rằng tôi là kẻ ngu xuân và dâm đãng”. Chàng đã trò chuyện như vậy với thần lửa ở chương 80.
- Kết quả: Thần Lửa đã không thiêu cháy chàng, khẳng định nàng thanh khiết “không mảy may phạm tội”, Rama vui mừng đón nhận người vợ và thần dân ca tụng chàng nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mõi quan hệ giữa tôn giáo và văn học ấn độ, nhật bản.doc