Thu hút vốn đầu tư đã khó và quan trọng, nhưng việc sử dụng vốn đầu tư sao cho hiệu quả lại càng khó hơn. Tiêu cưc, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư đang là vấn đề nhức nhối ở nước ta. Đặc biệt là trong sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn viện trợ ODA. Như đề án 112 nhằm tin học hóa hệ thông quản lý hành chính nhà nước đã gây lãng phí hàng trăm tỷ đồng. Các công trình xây dựng như đường xá, trường học, bệnh viện thì bị ăn bơt, cắt xén vật liệu; hoặc chậm tiến độ làm tăng chi phí đầu tư .
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2192 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Do nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Do ngày nay,tiến bộ công nghệ diễn ra khá mạnh mẽ, nhiều máy móc, thiết bị...nhanh chóng bị rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Nên cần phải tiến hành đầu tư mới nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Qua đây, ta nhìn rõ vai trò của hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết, từ đó thấy được tầm quan trọng vai trò quyết định của vốn đầu tư trong quá trình duy trì và phát triển nền kinh tế.
2. Phân tích tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư.
Tạo lập, huy động vốn là đầu vào là nguồn cung cung của vốn đầu tư. Chỉ khi tạo lập và huy động có hiệu quả thì mới có thể tich tụ tập trung được nguồn vốn để sử dụng. Tạo lập và huy động được đủ vốn cho yêu cầu của nền kinh tế thì quá trình đầu tư có thể mở rộng thực hiện đồng bộ, đa dạng cả về chiều dọc lẫn chiều sâu. Nếu tạo lập và huy động vốn kém sẽ dẫn tới thiếu vốn, khi đó nguồn vốn sẽ trở nên khan hiếm, hoạt động đầu tư trỏ nên khó khăn làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ.
Tạo lập và huy động vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu tạo lập và huy động được ít vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên tạo lập và huy động được nguồn vốn quá nhiều vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa làm giảm đi tiêu dùng trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh tế, vừa gây khó khăn trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó việc kiểm soát vốn đầu tư và hoạt động vốn đầu tư rất khó khăn, hoạt động đầu tư tràn lan thiếu hiệu quả dễ gây ra thất thoát lãng phí.
3. Phân tích tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư.
Nhu cầu về sử dụng vốn đầu tư đòi hỏi cần có lượng vốn đầu tư như thế nào giúp chúng ta xác định được nhiệm vụ, khối lượng vốn cần tạo lập và huy động. Khi nhu cầu sử dụng vốn lớn thì cần có những chính sách khuyến khích để tăng cường tạo lập và huy động vốn đáp ứng đủ yêu cầu. Tuỳ từng quốc gia với nền tảng phát triển, cơ cấu sử dụng vốn khác nhau mà việc tạo lập và huy động vốn có sự khác nhau. Trong mỗi nứơc thì hệ số ICOR của từng ngành , từng vùng, từng nền kinh tế có sự khác nhau. Và qua đó thì tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành từng khu vực là khác nhau. Theo công thức dự báo : Tổng nhu cầu vốn đầu tư.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư = GDP tăng thêm x Hệ số ICOR
do đầu tư mới.
Khác với nước phát triển thường thì các nước đang phát triển có hệ số ICOR ngành nông nghiệp thấp hơn công nghiệp. Tuỳ theo hệ số ICOR và chính sách kinh tế của mỗi ngành mỗi nước mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau, nên việc tạo lập và huy động vốn quá nhiều vốn vào một ngành đã bão hoà thiếu hiệu quả trong khi đó những ngành khác lại khan hiếm vốn.
Khi việc sử dụng vốn đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu tư về khả năng sinh lời của số vốn họ bỏ ra. Có nghĩa khi vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút của nó càng lớn.Do đó đối với các nguồn vốn đầu tư phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài.
Tuy nhiên, nếu việc sử dụng vốn thiếu hợp lý không chỉ gây thất thoát, lãng phí, thiếu niềm tin ở nhà đầu tư mà còn là nguyên nhân lớn thúc đẩy lạm phát trong nước.Dễ đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn ảnh hưởng lớn tới việc thu hút, tạo lập nguồn vốn
Chương II- Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư
ở Việt Nam
1. Tạo lập vốn đầu tư
Đứng trên quan điểm doanh nghiệp thì tạo lập vốn được chia thành hai thời kì:
Trước khi doanh nghiệp được thành lập nguồn tạo lập vốn là từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn đi vay.
Nguồn vốn doanh nghiệp được hình thành từ:
Vốn chủ sở hữu: đối với doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn này có được do Nhà nước.Nguồn vốn này được tài trợ từ ngân sách nhà nước và nguồn thu ngân sách không gì khác ngoài thuế.
Hiện nay, vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ vào khoảng trên 200.000 tỷ đồng, nhưng nếu được định giá theo thị trường và bán ra bên ngoài thì có thể sẽ lên tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện chỉ còn chiếm 3.61% tổng số doanh nghiệp trong cả nhà nước .
- Lợi nhuận giữ lại có xu hướng tăng.Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 doanh thu tăng bình quân 11.2%/năm. Đây la tín hiệu tốt của doanh nghiệp vì lợi nhuận giữ lại là một phần của lợi nhuận doanh nghiệp sau khi trừ đi phần thuế nộp cho nhà nước và chi cổ tức chô các cổ đông.Nó trực tiếp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tạo sự chủ động và an toàn cho các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp.
- Vốn vay từ các ngân hàng thương mại đây là phần quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng vốn má doanh nghiệp hiện nay đang thu hút. Nó chiếm khoảng trên 20% nguồn vốn của doanh nghiệp và ngày càng tăng. Hiện nay doanh nghiệp nhá nước vẫn là khách hàng thường xuyên của các ngân hàng thương mại chiếm 30% tổng số vốn cho vay.
Sau khi doanh nghiệp thành lập thi tạo lập vốn được hình thành từ vốn chủ sở hữu và vốn từ quỹ đầu tư phát triển được trích từ lợi nhuận sau thuế được giữ lại.
Nếu nhà nước đánh thuế quá cao sẽ dẫn dến khả năng tạo lập vốn của các doanh nghiệp bị thu hẹp.
2. Huy động vốn đầu tư
Việc thực hiện hoạt động thu hút vốn đầu tư đã đạt được một số kết quả tích cực về bốn mặt:
- Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác...
- Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
- Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát
2.1.Thu hút vốn đầu tư trong nước
Vốn đầu tư trong nước dự kiến huy động khoảng 21-22% GDP, khoảng 560 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 2/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương khoảng 40 tỷ USD.
Các nhà kinh tế cho rằng vốn nhàn rỗi trong dân cư là 60.000 tỷ đồng có thể huy động được còn con số thực sự có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, con số này cũng sẽ gia tăng theo từng năm. Vì vậy, các doanh nghiệp, kể cả các tổng công ty nhà nước, các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực: thủy điện, xi măng, bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin... đều có thể lập dự án để phát hành trái phiếu, cổ phiếu, nhằm huy động vốn trong dân. Tuy nhiên, không dễ để huy động nguồn vốn đầy tiềm năng trong dân cư nếu như các doanh nghiệp chưa tạo đựơc niềm tin cho dân cư. Một trong những giải pháp cần thiết là phải tạo được sự công khai, minh bạch. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa, việc định giá doanh nghiệp theo thị trường là rất quan trọng. Nếu được đánh giá đúng và mọi thông tin trước khi bán cổ phần ra bên ngoài được công khai, minh bạch thì chắc chắn là hiệu quả thu hút vốn từ công chúng sẽ cao hơn nhiều. Chẳng hạn, cổ phần của Công ty Bảo Minh khi bán ra bên ngoài đã gấp 2,16 lần so với giá ban đầu. Hay như Ngân hàng Ngoại thương cũng vậy. Nếu mà đem đấu giá ngân hàng này, hay mời các nhà đầu tư quốc tế vào đánh giá thì giá trị của nó sẽ không chỉ là 5.000 tỷ đồng theo vốn điều lệ nữa, mà chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.
2.2.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Qua tính toán sơ bộ của các Bộ, địa phương, qua các chương trình, dự án, và các cam kết hợp tác đầu tư với nước ngoài, dự kiến vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm tới có thể huy động (tương đối khả thi) là 840 nghìn tỷ đồng.
Huy động nguồn vốn từ bên ngoài: Dự kiến khoảng 20 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép và các dự án tăng vốn khoảng trên 15 tỷ USD, (vốn đăng ký của các dự án cấp mới là 12 tỷ USD, các dự án tăng vốn đạt trên 3 tỷ USD). Ước tính vốn đưa vào thực hiện có thể đạt khoảng 11 tỷ USD và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) dự kiến đưa vào khoảng 9 tỷ USD (vốn vay khoảng 7,5 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD).
Trong tổng vốn nêu trên, khả năng huy động của khu vực Nhà nước (đầu tư công cộng) đạt 467 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%, trong đó vốn Ngân sách (không kể ODA) khoảng 123 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7%, tín dụng nhà nước (không kể ODA cho vay lại) gần 56 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,6%, doanh nghiệp nhà nước 162 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,3%; vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đạt 126 nghìn tỷ đồng, chiếm 15%; khu vực tư nhân trong nước khoảng 220 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,2%; khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 153 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Như vậy, khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn (55,5%), khu vực tư nhân trong nước tuy tỷ lệ có tăng từ 21,9% (1996-2000) lên 26,2% (2001-2005), nhưng vẫn còn rất thấp, mới chiếm khoảng 1/4 vốn đầu tư toàn xã hội. Đây là khu vực còn nhiều tiềm năng, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, tìm các biện pháp hữu hiệu hơn để huy động thêm vốn đầu tư cho Chiến lược này.
Vốn FD: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI thời gian qua đã đạt được 5 thành tựu sau:
Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua
Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thế giới.
Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhìn nhận vẫn còn một số tồn tại cần tiếp tục giải quyết như: vốn thực hiện tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng giãn ra; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, nghiệp còn thấp; đầu tư từ những nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, một số quốc gia thuộc EU tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài còn chậm...
Vốn ODA
Vốn cam kết trong những năm gần đây(đơn vị nghìn tỷ)
Tính đến năm 2007, tổng cộng đã có khoảng 37 tỷ USD vốn ODA tài trợ cho Việt Nam, trong đó vốn thực hiện đạt 47%. Xu hướng của chính sách phân cấp quản lý ODA của WB cũng như các nhà tài trợ khác đã tác động rất lớn đối với các quốc gia thụ hưởng nguồn vốn này. Ở Việt Nam, chính sách này được tiến hành từng bước và được đẩy mạnh từ cuối năm 2006, khi Nghị định số 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ ra đời với nội dung cốt lõi là Thủ tướng chỉ phê duyệt các chương trình quan trọng quốc gia, khung chính sách và các dự án liên quan đến an ninh quốc phòng. Khung pháp lý liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng,... cũng thay đổi theo hướng đồng bộ hóa và phân cấp mạnh các dòng vốn cho địa phương. Theo đánh giá, chính sách phân cấp thời gian qua đã tạo ra hàng loạt ưu điểm như mở rộng đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra các quyết định hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tỉnh, huyện, tạo cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định. Nhưng ngược lại, thực tế phân cấp ở Việt Nam cũng đã cho thấy một loạt các hạn chế: năng lực quản lý và chuyên môn yếu kém đã làm cho các dự án ODA ở địa phương kém hiệu quả đi, việc chuyển giao trách nhiệm trong khi không đủ nguồn lực cần thiết đã làm cho việc phân phối công bằng dịch vụ dịch vụ hoặc cung cấp dịch vụ khó khăn hơn. Đặc biệt, việc chưa gắn kết giữa các cấp quản lý đã làm cho sự phối hợp thực hiện chính sách trở nên phức tạp và không đảm bảo tính thông suốt xuống cơ sở. Một vấn đề tồn tại mang tính tổng quát hơn cũng được chỉ rõ: Đó là tình trạng khung pháp lý dù đã thay đổi theo hướng đồng bộ hóa, phân cấp mạnh hơn nhưng vẫn lệch pha, chưa đồng bộ, nội dung phân cấp quản lý ODA thể hiện trong rất nhiều văn bản khác nhau. Việc hài hòa chính sách, thủ tục và quy trình giữa Việt Nam và nhà tài trợ cũng còn chậm, khoảng cách của sự cách biệt còn lớn. 3. Thực trạng sử dụng vốn
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất.
Về lĩnh vực này việc thực hiện đã đạt được những thành tựu tích cực về bốn mặt.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư.
Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát.
Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp
4. Thực trạng mối quan hệ tạo lập thu hút và sử dụng vốn ở Việt Nam
4.1. Tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả.
Năm 2007 tăng trưởng kinh tế đạt 8.48% cao nhất trong 11 năm qua.
Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do 'chi phí đẩy' và lạm phát do 'cầu kéo'.
Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát 'cầu kéo'; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do 'chi phí đẩy'. Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng
Mặc dù tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn là tốt nhưng ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng vốn nếu không muốn nói là lãng phí đó là đối với những dự án có vốn đầu tư của nhà nước. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và khiến người dân xót xa.
Còn đối với những dự án của tư nhân họ có lợi ích,vốn do họ bỏ ra nên họ có động lực thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn.Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào.
Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam.
Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.
Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.
Tạo lập, huy động vốn vượt quá nhu cầu hiện tại sẽ dẫn đến lãng phí thất thoát
Năm
Số DA đã thanh tra
Tổng vốn ĐT (tỷ đồng)
Sai phạm về TC (tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
2002
17
9.385
871
13.6
2003
14
8.193
1235
19
2004
64
6.000
1134
18.9
2005
84
2054.2
402
19.6
Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trước QH 16/11/2005
4.2.Tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa ký QĐ 290 phê duyệt Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006-2010. Theo đó, từ nay đến 2010, Việt Nam cần tới 19-21 tỷ USD vốn ODA cam kết từ các nhà tài trợ
Theo Đề án này, để thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 và đạt mức tăng trưởng bình quân 7,5-8%/năm, Việt Nam cần huy động tổng vốn đầu tư khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng (theo tỷ giá năm 2005), tương đương gần 140 tỷ USD (theo tỷ giá hiện hành là 160 tỷ USD). Trong đó, 65% huy động từ các nguồn vốn trong nước và 35% từ các nguồn vốn ngoài. Riêng nhu cầu về vốn ODA, trong 5 năm tới, cần thực hiện được khoảng 11 tỷ USD vốn ODA . Để thực hiện được nguồn vốn trên, cần phải có vốn ODA cam kết khoảng 19-21 tỷ USD.
Chương III – Một số tồn tại và giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập,thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Một số tồn tại.
Như đã trình bày ở trên, việc tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được rất nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn tồn tại những khuyết điểm cần phải khắc phục ngay để góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Sau đây là một số tồn tại cơ bản:
Khả năng hấp thụ vốn đầu tư
Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam lại dồi dào vốn đầu tư như thời điểm hiện nay. Cả vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước, vốn huy động từ nguồn tiết kiệm trong dân cư, vốn đầu tư nước ngoài… đều tăng liên tiếp qua các năm. Nhưng trong thực tế chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những công trình xây dựng như cầu, đường… được thi công dở dang, những nhà máy đã xây dựng xong nhưng không được đưa vào hoạt động… Vậy tại sao lại có hiện tượng đó? Tất cả đều được trả lời là do thiếu vốn.
Khả năng hấp thụ vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay là rất kém, được thể hiện rõ nhất qua luồng vốn đầu tư nước ngoài. Trong năm 2007, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Việt Nam đạt mức kỷ lục 20,3 tỷ USD - tăng tới 67,93% so với năm 2006 và vượt 53% kế hoạch của cả năm (dự kiến 13 tỷ USD). Tuy nhiên chỉ có 4,6 tỷ USD được giải ngân trong năm 2007, tức chỉ đạt xấp xỉ 23% tổng vốn đăng ký. Tỷ lệ này là quá nhỏ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như cơ chế chính sách chưa hợp lý, còn vướng mắc nhiều thủ tục, cơ sở hạ tầng còn yếu kém….
N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24914.doc