MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Lý thuyết về đầu tư,tăng trưởng và phát triển 2
I. Sơ lược về đầu tư,tăng trưởng,phát triển. 2
1. Đầu tư 2
1.1.Khái niệm 2
1.2.Phân loại đầu tư 2
2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế 3
2.1. Tăng trưởng kinh tế 3
2.1.1. Khái niệm : 3
2.1.2. Bản chất 3
2.1.3. Yêu cầu của tăng trưởng 3
2.2. Phát triển 4
2.2.1.Khái niệm 4
2.2.2.Nội dung của phát triển kinh tế. 4
2.2.3. Mục tiêu của phát triển 4
2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4
II. Mối quan hệ,tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 5
1. Vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 5
1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung,tổng cầu của nền kinh tế 5
1.1.1.Tác động đến tổng cầu. 5
1.1.2. Tác động đến tổng cung 6
1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế. 7
1.2.1. Tác động đến tốc độ tăng trưởng. 8
1.2.2. Tác động đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. 10
1.3. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10
1.4. Đầu tư tác động đến khoa học và công nghệ. 11
1.5. Đầu tư với việc phát triển nguồn nhân lực và tạo việc, nâng cao chất lượng tăng trưởng. 12
2. Tác động ngược chiều của tăng trưởng và phát triển kinh tế đến đầu tư. 13
2.1.Ảnh hưởng tới gia tốc đầu tư. 13
2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế cải thiện môi trường đầu tư. 14
2.3. Tăng trưởng và phát triển góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, cải tiến công nghệ, tạo điều kiện tiếp nhận đầu tư. 15
Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2008. 16
I. Tổng quan về hoạt động đầu tư và tình hình tăng trưởng& phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn những năm 2000-2008. 16
1. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư. 16
1.1.Đầu tư trong nước: 17
1.1.1.Khu vực KTNN 17
1.1.2.Khu vực ngoài quốc doanh 17
1.2. Đầu tư nước ngoài: 17
1.2.1.Kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 17
1.2.2.Kênh hỗ trợ phát triển chính thức ODA 18
1.2.3.Kênh đầu tư gián tiếp FPI: 19
2. Tình hình tăng trưởng & phát triển kinh tế ở Việt Nam từ năm 2000-2008 20
II. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua. 21
1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 21
1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung & tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam. 21
1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng 23
1.3.Tác động đến khoa học công nghệ. 27
1.4.Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 28
1.4.1.Cơ cấu ngành kinh tế 28
1.4.2.Cơ cấu vùng kinh tế. 28
2. Tác động ngược của tăng trưởng và phát triển đến đầu tư 29
2.1Tăng trưởng và phát triển góp phần cải thiện môi trường đầu tư. 29
2.1.1Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng,hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật. 29
2.1.2Tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao năng lực công nghệ. 30
2.1.3Tăng trưởng góp phần ổn định kinh tế,xã hội từ đó ổn định môi trường đầu tư. 30
2.1.4.Tăng trưởng và phát triển kinh tế góp phần hoàn thiện các chính sách,pháp luật. 32
2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư 34
Chương 3: Giải pháp của nhóm 35
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế xã hội,huy động vốn đầu tư đến năm 2010. 35
1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. 35
1.1.Về kinh tế: 35
1.2.Về vấn đề việc làm : 35
2. Mục tiêu và kế hoạch huy động vốn đầu tư đến năm 2010. 36
2.1. Kế hoạch huy động nguồn lực: 36
2.2. Mục tiêu đầu tư xã hội: 37
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm tác động đến tăng trưởng và phát triển. 37
1. Cải thiện môi trường đầu tư 37
2. Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả 38
3. Tăng trưởng bền vững. 39
KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c độ tăng trưởng duy trì ở mức cao, và chính trị ổn định mà còn ở hạ tầng cơ sở có thuận lợi cho việc đầu tư không, quy hoạch có khoa học, có tầm nhìn lâu dài không, công nghệ của nước tiếp nhận đầu tư ở mức độ nào , có thể đáp ứng được yêu cầu về kĩ thuật không. Đó là một trong những lý do mà nhà đầu tư bỏ vốn cho dù nước bên cạnh những lợi thế so sánh khác.
Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2008.
I. Tổng quan về hoạt động đầu tư và tình hình tăng trưởng& phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn những năm 2000-2008.
1. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Từ năm 2000 cho đến nay,tổng vốn đầu tư phát triển của Việt Nam tăng khá nhanh.Tỷ lệ đầu tư so với GDP luôn ở mức cao rất cao.Năm 2000,tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm 34,2% thì trong năm 2008,tỷ lệ này đã tăng lên là 41,7%.Nếu chi đầu tư theo thành phần kinh tế bao gồm 3 khu vực là khu vực kinh tế nhà nước(KTNN),kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì đầu tư cuarkhu vực KTNN luôn là đầu tàu,chiếm một tỷ trọng rất cao.Tuy nhiên,tỷ trọng đầu tư của khu vưc Nhà nước đang giảm dần,từ 59,1% năm 2000 xuống còn 43,3% năm 2007 còn tỷ lệ này của khu vực ngoài quốc doanh lại tăng rất mạnh,từ 22,9% năm 2000 lên tới 41,8% năm 2008.Điều này có thể cho thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tăng trưởng và vươn lên rất mạnh mẽ.
Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP
Năm
Tống số
(nghìn tỷ đồng)
Thành Phần(%)
Tổng vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước(%)
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2000
151,2
59,1
22,9
18
34,2
2001
170,5
59,8
22,6
17,6
35,4
2002
200,1
57,3
25,3
17,6
37,4
2003
239,3
52,9
31,1
16
39,0
2004
290,8
48,1
37,7
14,2
40,7
2005
343,1
47,1
38
14,9
40,9
2006
398,9
46,4
37,7
15,9
41,5
2007
521,7
43,3
40,7
16
45,6
2008
637,3
28,9
41,3
29,8
43,1
1.1.Đầu tư trong nước:
Hoạt động đầu tư trong nước có thể được chia thành 2 khu vực,đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh.
1.1.1.Khu vực KTNN
Từ năm 2000 cho đến nay,tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực KTNN liên tục giảm qua các năm.Tuy đã giảm từ 59,1% xuống tận 43,3% song đó vẫn là một tỷ trọng rất lớn.Năm 2007,tổng vốn đầu tư của cả nước đạt mức 521,7 nghìn tỷ đồng,trong đó,khu vực KTNN chiếm 208,1 nghìn tỷ đồng.Tình hình cụ thể được thể hiện trong bảng trên.
Có nhiều nguyên nhân khiến tỷ trọng khu vực KTNN giảm trong thời gian qua và ta có thể kể vài nguyên nhân như sau:
-Thứ nhất là sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp năm 2000.Chính sự ra đời của luật Doanh Nghiệp đã làm thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân.Hàng loạt doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành làm cho tổng đầu tư của các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh.
-Thứ hai là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997.Năm 1995,tỷ trọng đầu tư của khu vực KTNN chỉ là 42%.Năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế,khiến cho đầu tư toàn xã hội giảm nghiêm trọng,đặc biệt là ở khu vực ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài.Giai đoạn 1998-2000,nền kinh tế xảy ra giảm phát.Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế,chính phủ đã thực hiện chính sách kích cầu,tăng đầu tư.Điều đó là tỷ trọng đầu tư của KTNN tăng mạnh,đạt ở mức quá cao.Do vậy,sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế qua đi,tỷ trọng này giảm cũng là điều dễ hiểu.
- Thứ ba là do sự lớn mạnh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
-Thứ tư là do nỗ lực đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN của chính phủ.
1.1.2.Khu vực ngoài quốc doanh
Với sự ra đời của Luật dân sự năm 2000,khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có một bước nhảy lớn và dần khằng định mình là một khu vực kinh tế lớn mạnh nhất,quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc gia.Ở năm 2000,tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ chiếm 22,9% tổng đầu tư xã hội với 34,6 nghìn tỷ đồng,bằng 38,7% khu vực KTNN thì đến năm 2007,nó đã chiếm 40,7% với hơn 212 nghìn tỷ đồng,bằng 94% khu vực KTNN.Xu hướng một vài năm tới,khu vực ngoài quốc doanh vượt xa khu vực KTNN là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
1.2. Đầu tư nước ngoài:
Những năm đầu thế kỉ 21,nước ta đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.3 kênh huy động chủ yếu của nước ta có thể kể đến là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),kênh hỗ trợ phát triển chính thức(ODA),kênh đầu tư gián tiếp(FPI).
1.2.1.Kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Kênh FDI đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng với mức thu hút vốn liên tục tăng cao sau các năm.Tính cho đến hết năm 2008,tổng vốn đăng kí đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam khoảng 163 tỷ USD,vốn thực hiện đạt 53 tỷ USD.Riêng 2 năm 2007,2008,tổng vốn đăng kí và thực hiện lần lượt đã là 85 tỷ USD và 16 tỷ.Năm 2008,cả nước có 1171 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007.
Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm nay tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD, chiếm 0,4%.
Năm 2008 cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án được cấp phép mới, trong đó Ninh Thuận có số vốn đăng ký dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm 16,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; thành phố Hồ Chí Minh 8,9 tỷ USD, chiếm 14,7%; Hà Tĩnh 7,9 tỷ USD, chiếm 13,1%; Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 10,3%; Phú Yên 4,3 tỷ USD, chiếm 7,2%; Hà Nội 3,1 tỷ USD, chiếm 5,1%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư lớn nhất với 14,9 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Đài Loan 8,6 tỷ USD, chiếm 14,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, chiếm 12,1%; Xin-ga-po 4,5 tỷ USD, chiếm 7,4%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 7,3%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 7%.
1.2.2.Kênh hỗ trợ phát triển chính thức ODA
ODA đã đạt được mức cam kết kỉ lục trong năm 2008:đạt 5,426 tỷ USD.So với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỉ USD, xấp xỉ 20%. Như vậy, liên tiếp trong 5 năm qua, cam kết ODA cho VN luôn đạt kỷ lục mới.
Cùng với tình hình tăng mức cam kết,tình hình giải ngân vốn trong những năm qua cũng đã có nhiều tiến bộ do chính phủ thực hiện kế hoạch phân cấp,phần quyền phê duyệt ODA.
ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 2000-2009
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
Số vốn cam kết
Vốn ký kết
Vốn giải ngân
2000
2400
1768
1650
2001
2399
2418
1500
2002
2462
1805
1528
2003
2839
1757
1421
2004
3441
2568
1650
2005
3748
2515
1787
2006
4457
2824
1785
2007
5426
3795
2176
2008
5426
3458
2136
2009
5014
3200
2000
Tổng số
52863
38202
24000
1.2.3.Kênh đầu tư gián tiếp FPI:
Nếu như đầu tư trực tiếp (FDI) là hình thức nhà đầu tư nước ngoài tham gia trực tiếp vào các dự án sản xuất kinh doanh đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Có thể nói đến những cái tên như: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh … trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư. Thì đầu tư gián tiếp (FPI) là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác,quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh lại khá xa lạ.
Tuy nhiên câu chuyện vốn đầu tư gián tiêp đã trở nên dễ hiểu và gần gũi hơn trong thời gian gần đây,đặc biệt là trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 khi thị trường chứng khoán và bất động sản nóng và sôi động đến mức tốn không ít giấy mực của báo chí trong và ngoài nước.Một dòng vốn đầu tư lớn đã được đổ vào Việt Nam,khoảng 20 tỷ USD vào thị trường chứng khoán và..tỷ USD vào thị trường bất động sản.Bên cạnh đó,hàng loạt quĩ đầu tư đã được hình thành trong những năm qua.Tính đến hết năm 2008,có gần 50 quĩ,trong đó có những quĩ có số vốn khá lớn như Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL),quỹ bất động sản VinaLand thuộc Công ty Quản lý quỹ VinaCapital, Quỹ Bất động sản Indochina Land, Quỹ Indochina Capital Vietnam Holding Limited với số vốn lên đến vài trăm triệu USD mỗi quĩ.
Dù FPI đã tăng mạnh,nhưng có một thực trạng là tỷ trọng dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) so với FDI vẫn ở mức quá thấp, chỉ chiếm 1,2% (năm 2002), 2,3% (năm 2003) và 5,7% (năm 2007) quá thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc, tỷ trọng dòng vốn FPI so với FDI vào khoảng 30% - 40%.Đây là một thực trạng không tốt mà nền kinh tế Việt Nam cần chú ý và khắc phục.
2. Tình hình tăng trưởng & phát triển kinh tế ở Việt Nam từ năm 2000-2008
Từ năm 1991,nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có những khởi sắc với tốc độ tăng trưởng 8,7% và đạt mức cao nhất vào năm 1995 với tốc độ tăng trưởng là 9,5%.Sáu năm liên tục,từ năm 1991 tới năm 1996,Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 8%.Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoàng tài chính tiền tệ của khu vực năm 1997,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm xuống 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999.Tuy nhiên,bước sang những năm đầu của thế kỷ 21,kinh tế đã có sự phục hồi.Từ năm 2001 cho đến nay,chưa năm nào tốc độ tăng trưởng thấp hơn 6%.Nếu so với các nước trong khu vực,tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đứng thứ 2,sau Trung Quốc,cao hơn các nước Asean khác như Malaysia,Thái Lan,Indonesia.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2008
Năm 2008, tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn.
II. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua.
1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung & tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam.
Tác động của đầu tư tới tổng cung,tổng cầu được thể hiện khá rõ qua giá trị sản xuất của các ngành cũng như giá trị tiêu dùng của người dân.Sau đây là những nét sơ lược về kết quả của những tác động đó.
Nông,lâm,thủy sản
Trong những năm qua,dù không được đầu tư mạnh như ngành công nghiệp nhưng ngành nông,lâm thủy sản vẫn là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,đóng góp tới hơn 20% trong GDP.Do xu hướng phát triển của xã hội nền ngành nông nghiệp dù có tăng trưởng đều hàng năm xong tỷ trọng đóng góp của nó vào nền kinh tế quốc dân ngày càng giảm.Đã có những thời điểm,nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực,chiếm tới 46,3% đóng góp cho GDP1998) thì cho tới nay-năm 2008,ngành này chỉ còn chiếm khoảng 16%.Trong tương lai,tỷ trọng của ngành Nông,lâm thủy sản trong nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm và giảm mạnh.
Năm 2008,gía trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 212,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với năm 2007, bao gồm giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 155,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% ; giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 50,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất Nông,Lâm,Ngư nghiệp(%)
2004
2005
2006
2007
2008
I.Vốn đtư toàn ngành (tỷđ)
22963
25749
29842
33354
34412
II.Tăng giá trị toàn ngành (%)
5,6
4,9
4,4
4,6
5,6
Trong đó
1.NNghiệp
2.LNghiệp
3.TSản
4,1
1,1
12,5
3,2
1,2
12,5
3,6
1,2
7,7
2,9
1
11
5,4
2,2
6,7
Đầu tư và tăng trưởng trong ngành nông nghiệp
Công nghiệp
Thời gian qua,ngành công nghiệp luôn là ngành sản xuất được chú ý và đầu tư mạnh mẽ nhất.Trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hơn 10 năm qua,riêng ngành công nghiệp luôn chiếm trên dưới 40%.Do đó,ngành công nghiệp luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế,tỷ trọng đóng góp ngày càng lớn và bỏ rất xa ngành nông nghiệp là điều dễ hiểu.
Năm 2008,giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,6% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%, trong đó dầu khí giảm 4,3%(do ảnh hưởng của việc giá dầu trên thế giới xuống giá thảm hại). Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến năm 2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%; ngành công nghiệp điện, ga và nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%; giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp khai thác đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô khai thác giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Công nghiệp
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
I.Vốn đầu tư toàn ngành (tỷ đồng)
98794
124352
146104
163831
223428
219614
II.Tăng giá trị toàn ngành (%)
16,8
16,6
17,1
17
17,3
14,6
1.DNNN
11,9
11,9
7,2
9,3
10,3
4
-TW
16,2
14,8
12,4
11,9
13,3
6,2
-Địa phương
3,5
5,6
-5,2
2
3
1,3
2.DN Ngoài quốc doanh
23,3
22,3
25,4
23,9
20,9
18,8
3.DN có vốn ĐTNN
18
17,4
21,2
18,8
18,2
18,6
Dịch vụ
Các ngành sản xuất tăng mạnh về sản lượng và giá trị cho nên hoạt động thương mại dịch vụ trong những năm qua cũng tăng mạnh.Trong năm 2008,tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 ước tính đạt 968,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 112,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,4%; kinh tế cá thể đạt 538,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,2%; kinh tế tư nhân đạt 284,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng nêu trên, kinh doanh thương nghiệp đạt 798,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31,5%; khách sạn, nhà hàng đạt 109,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2%; dịch vụ đạt 48,4 nghìn tỷ đồng, tăng 31,3%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8%.Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007.
Năm
Tổng mức
(Tỷ đồng)
Tỷ trọng theo thành phần kinh tế(%)
KTNN
Ngoài quốc doanh
Có vốn ĐTNN
2001
245315
16,7
81,7
1,6
2002
280,884
16,2
79,9
3,9
2003
333,809
15,7
80,2
4,1
2004
398,525
15,0
81,2
3.8
2005
480,294
12,9
83,3
3.8
2006
588,900
13,6
83,3
3.1
2007
726,113
10,9
86
3.1
2008
968,1
11.5
84.9
3.6
Tổng mức bán lẻ và dịch vụ
1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng
Trong thời gian gần đây,hoạt động đầu tư,thu hút vốn diễn ra mạnh mẽ khiến kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng.Cả ba khu vực nông,lâm,ngư nghiệp;Công nghiệp-xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng khá,đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.Những điều đó được thể hiện dưới bảng và đồ thị sau:
Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong nền kinh tế
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
1.Vốn đtư xã hội(tỷđ)
290927
343135
398900
521700
637300
2.Tăng trưởng(%)
7,79
8,44
8,17
8,48
6,23
Nông, lâm,thuỷ sản
4,36
4,00
3,69
3,40
3,79
Công nghiệp,xây dựng
10,21
10,68
10,38
10,60
6,33
Dịch vụ
7,26
8,48
8,29
8,68
7,20
Với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2000-2008 Việt Nam được đánh giá là một trong những nước tăng trưởng nhanh trên thế giới song quỹ đạo tăng trưởng của Việt Nam hiện vẫn đang nằm giữa hai nhóm phát triển thấp và trung bình.Dù tăng trưởng nhanh nhưng không phải là nền kinh tế nước ta không có vấn đề gì về tăng trưởng.Hai vấn đề nổi cộm nhất hiện nay đó là:tại sao mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn, đồng thời tỷ lệ đầu tư trên GDP lại rất cao so với các nước trong khu vực nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam chỉ ở mức trung bình của khu vực? Và tăng trưởng của Việt Nam có ổn định và bền vững hay không?Cả hai vấn đề này đã đặt ra những câu hỏi không hề dễ giải đáp.
Về vấn đề thứ nhất,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam không cao vì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp, được thể hiện qua hệ số ICOR – là hệ số cho biết số đơn vị đầu tư (tính theo % của GDP) cần thiết để đạt được 1% đơn vị tăng trưởng GDP, nghĩa là nếu chỉ số này càng cao thì hoạt động đầu tư càng kém hiệu quả và chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP).
Nhìn vào bảng sau thấy ICOR của Việt Nam hiện đang rất cao so với Hàn Quốc và Đài Loan trong những giai đoạn phát triển tương đương. Chẳng hạn như Đài Loan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng 9,7% trong suốt 20 năm mà chỉ cần đầu tư 26,2% GDP, trong khi đó Việt Nam đầu tư tới 33,5% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình cũng chỉ đạt 7,6%. Nói cách khác, cái giá phải trả cho tăng trưởng của Việt Nam cao gần gấp đôi so với Đài Loan.
Hệ số ICOR của Việt Nam so với một số nước trong khu vực
Nước
Giai đoạn
Tăng trưởng GDP(%/năm)
Tổng đầu tư(% của GDP/năm)
ICOR
Hàn Quốc
1961-1980
7,9
23,3
3,0
Đài Loan
1961-1980
9,7
26,2
2,7
Inđônêsia
1981-1995
6,9
25,7
3,7
Malaysia
1981-1995
7,2
32,9
4,6
Thái Lan
1981-1995
8,1
33,3
4,1
Trung Quốc
2001-2006
9,7
38,8
4,0
Việt Nam
2001-2008
7,6
33,5
5,0
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong thời gian qua nhưng tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng.Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm,từ 22,6% năm 2000 lên 28,2% trong giai đoạn 2000-2008,tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,7% và lao động chiếm 19,1%,tức cả hai yếu tố này còn chiếm tới 71,8% trong tác động đến tăng trưởng.So với các nước khác thì tỷ lệ này là quá cao,gần gấp đối các nước trong khu vực(Thái Lan là 34%,Philippin là 41%,Indonesia là 43%)
Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Đơn vị : %
Năm
Vốn đầu tư
Lao động
Năng suất nhân tố tổng hợp
2000
48,5
21,5
22,6
2001
49,3
26,9
23,8
2002
48,7
27,3
24
2003
49,6
27,1
23,3
2004
47,2
28,3
24,5
…..
2008
52,7
19,1
27,3
Vấn đề thứ hai đưa chúng ta trở về với bối cảnh chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây, trong đó một vấn đề nổi lên hàng đầu là lạm phát. Mặc dù tốc độ tăng trưởng không có sự cải thiện đáng kể nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lại tăng đột biến, từ mức 3-4% vào đầu những năm 2000 lên tới 12,6% năm 2007 và gần 24% năm 2008.Không thể phủ nhận việc giá xăng dầu và một số nguyên liệu sản xuất trên thị trường thế giới tăng nhanh trong thời gian qua là nguyên nhân khách quan dẫn tới việc tăng giá nhiều mặt hàng tiêu dùng hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, thứ nhất, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia... cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam (Hình 2). Nguyên nhân chính là cả Việt Nam và Trung Quốc đều có tỷ lệ đầu tư/GDP cao kỷ lục, tín dụng tăng trưởng rất nhanh, trong đó một tỷ lệ rất lớn được dành cho các DN nhà nước kém hiệu quả. Đồng thời, tính không độc lập của Ngân hàng Nhà nước làm xói mòn khả năng điều hành chính sách tiền tệ và chống lạm phát của cơ quan này. Thứ hai, tuy đã nhìn thấy và đưa ra một số chính sách kiềm chế lạm phát nhưng điều quan trọng là Chính Phủ chưa nhận thức đúng hoặc cố tình phủ nhận những nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến lạm phát. Đầu tiên, ở lĩnh vực tiền tệ, đó là tăng cung tiền và tín dụng. Trong giai đoạn vừa qua, VN tiếp nhận khá nhiều nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, kiều hối... từ nước ngoài. Dòng ngoại tệ chảy vào VN rất lớn gây sức ép tăng giá VND, và do vậy có nguy cơ làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, và làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thương mại thêm nghiêm trọng. Do lo ngại điều này, Chính phủ đã cố giữ tỷgiá USD/VND ổn định bằng cách tung tiền đồng ra để mua vào khoảng 9 tỉ USD. Ở lĩnh vực tín dụng, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8-8,5%/năm, Chính phủ liên tục thúc đẩy tăng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước là nơi sử dụng đồng vốn hiệu quả thấp. Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tín dụng của VN trong 5 năm trở lại đây vào khoảng 30%/năm (năm 2007, con số này tăng đột biến, lên tới hơn 40%). Với tốc độ tăng tín dụng cao trong nhiều năm liền, đồng thời cung tiền tăng đột biến, lạm phát xảy ra là điều tất yếu.
Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực (2007)
Lạm phát cao gây nên nhiều tác động tiêu cực, trong đó có ba vấn đề đặc biệt đáng lo ngại. Thứ nhất, CPI tăng nhanh là một thứ “thuế lạm phát” làm giảm mức sống của đại bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt là những người hưởng lương cố định và có thu nhập thấp. Thứ hai, vì mức lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm (tức là lãi suất thực bị âm) nên tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế phải chạy đi tìm những cơ hội đầu tư có suất sinh lời cao hơn như địa ốc hay chứng khoán. Việc đầu cơ quá mức vào bất động sản và chứng khoán làm xuất hiện hiện tượng bong bóng tài sản; và sớm hay muộn thì hiện tượng này cũng sẽ dẫn tới sự bất ổn định cho nền kinh tế. Thứ ba, hiện nay tỉ lệ dư nợ cho vay mua bất động sản ở hệ thống ngân hàng thương mại là khoảng 10%, một tỉ lệ khá cao. Đáng lo ngại hơn, rất nhiều các khoản vay ngân hàng được bảo đảm bằng bất động sản với giá bong bóng. Điều này có nghĩa là, nếu bong bóng vỡ, bất động sản rớt giá thì tài sản bảo đảm này không còn đảm bảo nữa. Hệ quả là nhiều khoản vay sẽ trở thành nợ xấu, ảnh hưởng trực tiếp tới sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
Như vậy,nhờ đầu tư lớn,nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chính bản thân nó đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô.
1.3.Tác động đến khoa học công nghệ.
Trong nền kinh tế thị trường,công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh chính.Công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn,năng suất cao hơn,chi phí giá thành giảm,tạo ưu thế cạnh tranh trên thị trường.Hiểu rõ được điều đó,những năm qua,đất nước ta rất chú trọng phát triển khoa học công nghệ.Một lượng vốn không nhỏ đã được đầu tư vào lĩnh vực này.
Trong đầu tư của nhà nước,chi cho khoa học công nghệ chiếm gần 2% trong tổng vốn đầu tư.Cụ thể như năm 2005,nhà nước chi 1900 tỷ,2006 là 2404 tỷ và 2007 là 2735 tỷ.Tuy chỉ chiếm gần 2% nhưng những tác động của nó tới tình hình tăng trưởng và phát triển là hết sức to lớn,tạo cho nước ta một bước tiến dài trên con đường tiếp cận và làm chủ công nghệ.Sự đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu,hàng loạt viện,trung tâm nghiên cứu ra đời góp phần nâng cao năng lực công nghệ của cả nước. Theo số liệu của Viện Khoa học Lao động - Xã hội Bộ LĐTB&XH, đến cuối năm 2008, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người,tỉ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm 94,7% tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, trong đó thạc sĩ là 35,5%, tiến sĩ là 30,5%. Xét về mặt học vị, Việt Nam ở mức cao so với mức trung bình của khu vực. Tuy nhiên, ngoại ngữ và tin học là nguyên nhân cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đội ngũ cán bộ KH-CN.Cả nước có nhiều khu công nghệ cao,trong đó lớn nhất và hiện đại nhất là hai khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc và Thành phố Hồ Chí Minh..
Bên cạnh các hoạt động đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực khoa học công nghệ,tư nhân,các doanh nghiệp cũng rất chú trọng đầu tư phát triển,nghiên cứu,tìm tòi,sáng tạo công nghệ hay mua sắm,chuyển giao các công nghệ hiện đại từ nước ngoài về nước.Tuy nhiên cho đến nay,Việt Nam mới chỉ có 11 đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công nhận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22470.doc