Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện

Kinh nghiệm thứ hai là việc hội nhập kinh tế quốc tế được Nhật Bản tiến hành từng bước tuỳ theo sự tiến triển của nền kinh tế và sự lớn mạnh của các công ty Nhật Bản. Điều đó có nghĩa là, suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh, về cơ bản nền kinh tế và thậm chí cả xã hội Nhật Bản vẫn là một nền kinh tế và xã hội khép kín và hướng nội. Điều này được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:

Đầu tiên, nền kinh tế thị trường Nhật Bản là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết chặt chẽ của chính phủ.

Thứ hai, nền kinh tế và cả xã hội Nhật Bản chủ yếu mới mở cửa một chiều ra bên ngoài chứ rất hạn chế hoặc chậm mở cửa cho chiều ngược lại. Điều này được thể hiện ở chỗ là các hàng hoá, vốn, cũng như công ty và con người Nhật Bản có thể được tự do di chuyển ra ngoài Nhật Bản, song các nguồn vốn, lao động, nông phẩm và các công ty nước ngoài rất khó có thể thâm nhập và tồn tại được ở Nhật Bản.

Thứ ba, nếu mở cửa cho chiều ngược lại, thì Nhật Bản thường đi theo chiến thuật "trì hoãn, kéo dài" để có thời gian chuẩn bị tiềm lực cho các doanh nghiệp và hàng hoá Nhật Bản. Chẳng hạn, ngay thị trường công nghệ được coi là thị trường mở cửa nhất của Nhật, thì Nhật cũng chỉ cho phép các công ty nước ngoài đầu tư ở Nhật đưa vào Nhật những công nghệ và sản phẩm nào mà Nhật không thể làm ra được, còn nếu thấy các công ty Nhật có thể tiếp thu và cải tiến được những công nghệ và sản phẩm đó, thì chính phủ Nhật sẽ trì hoãn cấp giấy phép để tạo thời gian và điều kiện cho các công ty Nhật cải tiến và sản xuất bằng được.

 

doc84 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh khắp Đông Nam Á nên đây là một lợi thế quan trọng của Trung Quốc trong việc khai thác vốn đầu tư của Hoa kiều mà không phải nước nào cũng có được. Tại các đặc khu, Trung Quốc tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị, nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm công cộng. Nhà nước cho phép điạ phương tự khai thác mọi khả năng để có vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình tái cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Từ các đặc khu này, theo phương châm “đi chậm mà chắc” , vừa làm vừa rút kinh nghiệm, Trung Quốc đã mở rộng thành tuyến mở cửa cả khu vực đồng bằng và châu thổ các con sông, tạo thành cục diện mở cửa từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Trung và Tây. Sử dụng vốn vay cải tạo cơ sở hạ tầng: Đồng thời với quá trình mở rộng địa bàn thu hút vốn như trên, Trung Quốc đã dùng vốn vay kết hợp huy động các nguồn lực trong nước để xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng, phát triển các tuyến đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng… Điều này như một hiệu ứng lan tỏa mang lại một diện mạo mới cho Trung Quốc, tạo dựng được môi trường kinh doanh thuận lợi hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Ø Coi trọng hoàn thiện môi trường pháp lý và hành chính để tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Sửa đổi luật: Thông tin tham khảo từ Ngày 1/7/1949, Trung Quốc công bố Luật Đầu tư và Hợp tác Trung Quốc - Nước ngoài, đặt nền móng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc. Tháng 4/1990, Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi bộ luật này với nhiều quy định có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích họ đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 2002 đến nay, nhiều quy định đã được xóa bỏ để phù hợp với pháp luật kinh doanh quốc tế như tỷ lệ nội địa hóa, cân đối ngoại tệ: Ở cấp trung ương: chính phủ bãi bỏ 840 văn bản và sửa đổi, bổ sung 323 văn bản pháp quy khác. Ở cấp địa phương: chính quyền bải bỏ hoặc sửa đồi 190.000 văn bản mang tính luật. GS-TS Võ Thanh Thu (2008), Giáo trình Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, .Nhà xuất bản thống kê. Phạm vi ngành nghề được phép đầu tư được mở rộng, từ 186 lên đến 262 khoản mục được đầu tư. Bổ sung luật: Trung Quốc thể hiện sự quan tâm đến những quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài bằng cách thường xuyên bổ sung, sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, đảm bảo tính thực thi nghiêm túc. Những hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hay áp đặt thuế sai quy định đối với các doanh nghiệp nước ngoài bị xử lý nghiêm khắc. Đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư: thực hiện phân cấp, phân quyền, nâng cao quyền hạn nhiều hơn cho các tỉnh, thành phố, khu tự trị trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Nhà nước cho phép mỗi tỉnh, thành phố, khu tự trị có những đặc quyền trong quản lý, phê chuẩn dự án đầu tư.. Công khai, công chính, quy phạm và minh bạch pháp luật: Môi trường pháp lý rõ ràng tại Trung Quốc đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm kinh doanh tại quốc gia này, đặc biệt kể từ sau khi Trung Quốc cam kết gia nhập WTO, chính phủ đã tiến hành thanh lý, điều chỉnh toàn diện những văn kiện chính sách và quy định pháp luật liên quan để gia tăng tính hiệu quả cho thị trường. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Đồng thời kết hợp chức năng chuyển đổi của chính quyền, cải thiện khâu quản lý phê duyệt đầu tư và nâng cao hiệu suất dịch vụ. Ø Đa dạng hóa các hình thức đầu tư, chủ đầu tư và lĩnh vực đầu tư. Về hình thức đầu tư: Cho đến nay, ở Trung Quốc vẫn có 3 hình thức chính đó là xí nghiệp chung vốn kinh doanh, xí nghiệp hợp tác kinh doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trước đây, Trung Quốc hạn chế hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vì sợ tỷ lệ các xí nghiệp loại này quá lớn sẽ ảnh hưởng đến các ngành sản xuất trong nước hay chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc đang tháo gỡ dần những hạn chế đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh các hình thức trên, Trung Quốc còn chủ động khuyến khích các loại hình đầu tư khác thông qua các luồng lưu thông vốn quốc tế như các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, các hình thức mua bán chứng khoán, lưu thông vốn cổ phần… những hình thức này gián tiếp làm tăng nguồn vốn đầu tư cho Trung Quốc. Về chủ đầu tư: Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan và Ma Cao cùng với gần 30 triệu người Hoa ở khu vực Đông Nam Á với tài kinh doanh, có vốn lớn, lại nắm giữ những vị trí then chốt trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, thương mại, tài chính Tham khảo từ … cũng được Trung Quốc quan tâm khuyến khích đầu tư về xây dựng quê hương với những chính sách ưu đãi và mời gọi đầu tư như “Quy định về việc khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư” ; “Quy định về khuyến khích Hoa kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma Cao đầu tư”… Về lĩnh vực đầu tư: Chính phủ mở ra những lĩnh vực đầu tư mới và giảm thiểu phần vốn đầu tư nước ngoài trong chi phí bao gồm việc mở mới hoặc mở rộng một số lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, viễn thông, phân phối. Nới lỏng một số những hạn chế đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực như thương mại, ngoại thương, xe hơi, hóa chất công nghiệp, năng lượng, cơ sở hạ tầng và dự án phát triển tài nguyên khoáng sản… Ø Tận dụng tốt cơ hội từ việc tham gia WTO. Giảm thuế: Kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, mức thuế quan trung bình của tất cả các sản phẩm bắt buộc phải giảm tới 10% và lần lượt cho sản phẩm thô là 15% và sản phẩm chế tạo là 9,4%. Tham khảo từ Điều này có ý nghĩa rất lớn cho việc mở cửa thị trường, lôi cuốn các nhà đầu tư tích cực mở rộng đầu tư vào Trung Quốc vì điều đó sẽ giúp họ giảm thiểu được chi phí, tự do đầu tư và khai thác được các nguồn lực nội tại của thị trường Trung Quốc. Giảm hàng rào phi thuế: Cũng tương tự như vậy, các hàng rào và biện pháp phi thuế quan nhanh chóng dần được xoá bỏ sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, đặc biệt là các trở ngại về quy định tỷ lệ nội địa hoá... Trên nền tảng ổn định sẵn có, những chính sách về thuế đã củng cố thêm niềm tin và làm yên lòng các tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới. Ø Ban hành các chính sách ưu đãi về thuế quan. Miễn thuế, giảm thuế: Các dự án đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu công nghệ cao sẽ được ưu đãi về thuế, các dự án đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn như miền Tây, miền Trung - sẽ được thuê đất miễn phí, miễn thuê thu nhập trong vòng 10 năm...Đáng chú ý nhất là Trung Quốc có chế độ ưu đãi cho người đầu tư nước ngoài: Thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo sự bình đẳng về thuế, thuế đánh không phana biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI. Thay thế thuế doanh nghiệp bằng thuế giá trị gia tăng và đơn giản hoá cơ cấu thuế suất. Giảm thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân v.v… Ø Môi trường tài chính: Phá giá đồng nhân dân tệ. Nhờ quyết tâm và hành động liên tục phá giá mạnh đồng nhân dân tệ vào năm 2003, 2004 của Chính phủ Trung Quốc đã làm cho sức cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc vượt qua giới hạn thông thường để trở thành một sự đột phá mạnh, khiến dòng FDI đổ vào lập tức tăng mạnh. Năm 1993, lượng FDI thực hiện tăng 250% so với năm 1992; còn năm 1994 tăng 23% so với năm 1993. Đến năm 1998, mức tăng so với năm 1993 đã là 200%. Và bước sang thế kỷ mới, Trung Quốc trở thành một trong những nền kinh tế thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới, với lượng FDI đổ vào hàng năm đạt mức 55-70 tỷ USD. Như vậy, nhìn chung, Trung Quốc sau khi gia nhập WTO đã bước vào một giai đoạn phát triển cải cách mở cửa mới, mở cửa đa chiều đa cấp và về nhiều lĩnh vực. Với những kết quả mà Trung Quốc đạt được trong thời gian qua đã lần nữa khẳng định quyết tâm duy trì sự ổn định của đất nước cũng như đảm bảo sự cải cách và mở cửa tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể khái quát những kinh nghiệm của Trung Quốc trong ba điểm chính sau:  Tiếp tục tăng cường đầu tư các yếu tố môi trường mềm ( trình độ thị trường hóa, chính sách đầu tư nước ngoài, xây dựng chế độ pháp luật, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường…) ‚ Hoàn thiện hơn nữa yếu tố môi trường cứng ( giao thông, thông tin liên lạc, và cơ sở hạ tầng về phần cứng đã giải trừ những khó khăn cơ bản của sự phát triển nền kinh tế) ƒ Nâng cao hơn nữa chất lượng yếu tố kinh tế vĩ mô, mở rộng độ “thoáng” của thị trường. 1.5.2. Nhật Bản Giai đoạn trước cải cách Những năm 80, cũng như nhiều quốc gia khác, giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế quân sự, phục vụ chiến tranh, mang đậm tính bế quan toả cảng, kìm hãm xu hướng quốc tế hoá và hội nhập kinh tế. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, dưới sự khống chế của quân đồng minh, trước hết là Mỹ, Nhật Bản đã tiến hành từng bước mở cửa và hội nhập với bên ngoài. Phải nói rằng, trên thực tế, Nhật Bản đã có những bước đi khôn khéo và đúng đắn phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế lúc đó để mở cửa và hội nhập thành công, góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Nhật Bản trong giai đoạn này. Kinh nghiệm thứ nhất, trong giai đoạn này là Nhật Bản đã tạo ra được "sự nhất trí quốc gia" đối với không chỉ chiến lược phát triển kinh tế nói chung mà cả chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Sự nhất trí quốc gia này thể hiện ở chiến lược phát triển sau chiến tranh là "tất cả cho sản xuất", "kinh tế là trên hết" và "xuất khẩu hay là chết". Điều đó có nghĩa là, nếu trước chiến tranh, Nhật Bản lấy bành trướng quân sự, xâm lược các nước láng giềng làm công cụ để mở rộng và phát triển đất nước và hậu quả là nước Nhật đã bị bại trận thảm hại và nền kinh tế Nhật Bản đã bị kéo lùi lại nhiều năm, thì sau chiến tranh, cả nước Nhật đã tạo được sự nhất trí là chỉ có phát triển kinh tế và mở mang quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể phát triển được đất nước. Nhờ có được "sự nhất trí quốc gia" như vậy nên Nhật Bản đã huy động được mọi nguồn lực cho phát triển, tạo được sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ, giới kinh doanh và người lao động trong nhiều năm vì mục tiêu vực dậy nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đưa nước Nhật trở thành siêu cường kinh tế trên thế giới. Chẳng hạn, người ta nói rằng, ở trong nước, các công ty Nhật Bản cạnh tranh quyết liệt một sống một còn với nhau, song họ lại rất đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc cạnh tranh với bên ngoài. Điều này Việt Nam cần phải học hỏi nhiều vì không phải quốc gia nào cũng có tinh thần như vậy, khi đối mặt với những khó khăn thách thức trước xu hướng toàn cầu hóa, thì các quốc gia nhỏ hơn như Việt Nam có xu hướng không quan tâm đến những bạn cùng kinh doanh với mình. Đây chính là một kinh nghiệm quý báu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Kinh nghiệm thứ hai là việc hội nhập kinh tế quốc tế được Nhật Bản tiến hành từng bước tuỳ theo sự tiến triển của nền kinh tế và sự lớn mạnh của các công ty Nhật Bản. Điều đó có nghĩa là, suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh, về cơ bản nền kinh tế và thậm chí cả xã hội Nhật Bản vẫn là một nền kinh tế và xã hội khép kín và hướng nội. Điều này được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây: Đầu tiên, nền kinh tế thị trường Nhật Bản là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết chặt chẽ của chính phủ. Thứ hai, nền kinh tế và cả xã hội Nhật Bản chủ yếu mới mở cửa một chiều ra bên ngoài chứ rất hạn chế hoặc chậm mở cửa cho chiều ngược lại. Điều này được thể hiện ở chỗ là các hàng hoá, vốn, cũng như công ty và con người Nhật Bản có thể được tự do di chuyển ra ngoài Nhật Bản, song các nguồn vốn, lao động, nông phẩm và các công ty nước ngoài rất khó có thể thâm nhập và tồn tại được ở Nhật Bản. Thứ ba, nếu mở cửa cho chiều ngược lại, thì Nhật Bản thường đi theo chiến thuật "trì hoãn, kéo dài" để có thời gian chuẩn bị tiềm lực cho các doanh nghiệp và hàng hoá Nhật Bản. Chẳng hạn, ngay thị trường công nghệ được coi là thị trường mở cửa nhất của Nhật, thì Nhật cũng chỉ cho phép các công ty nước ngoài đầu tư ở Nhật đưa vào Nhật những công nghệ và sản phẩm nào mà Nhật không thể làm ra được, còn nếu thấy các công ty Nhật có thể tiếp thu và cải tiến được những công nghệ và sản phẩm đó, thì chính phủ Nhật sẽ trì hoãn cấp giấy phép để tạo thời gian và điều kiện cho các công ty Nhật cải tiến và sản xuất bằng được. Thứ tư, chỉ mở cửa thị trường Nhật Bản trước hết bằng các hàng rào thuế quan, trong khi vẫn tìm cách duy trì càng lâu càng tốt các hàng rào phi quan thuế hữu hình và vô hình. Chẳng hạn, cho đến đầu những năm 80, hàng rào thuế quan của Nhật Bản thuộc loại thấp nhất trong số các nước công nghiệp phát triển, nhưng trong thực tế, hàng hoá, lao động và cả các công ty nước ngoài đều rất khó có thể thâm nhập và tồn tại được ở Nhật do sự tồn tại dai dẳng của các hàng rào phi quan thuế hữu hình và vô hình độc đáo, như chế độ quản lý lao động, hệ thống phân phối, chế độ nhập cư và cả hệ thống chữ viết rất khó học,… Chiến lược hội nhập kinh tế theo kiểu này của Nhật sở dĩ tồn tại được là do Nhật đã khéo lợi dụng hoàn cảnh quốc tế và khu vực lúc đó. Các quốc gia khác như Việt Nam muốn áp dụng theo kiểu này thì phải xem xét lại bởi vì Nhật Bản lợi dụng tình hình thế giới lúc đó, còn nếu áp dụng như hiện nay thì đất nước rất khó mà phát triển dài lâu do có tính bảo thủ trong kinh doanh của Nhật Bản quá lớn. Kinh nghiệm thứ ba Nhật Bản là tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu là ưu tiên hàng đầu của Nhật. Nhằm mục tiêu này, chính phủ tích cực chỉ đạo các ngân hàng, cấp ưu đãi thuế, tín dụng cho doanh nghiệp, nhưng giảm dần "liều lượng" ưu đãi để sớm đặt các doanh nghiệp Nhật Bản trong sự cạnh tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh hơn. Ngoài việc cấp những ưu đãi trên, chính phủ khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu và "nội địa hoá" công nghệ nước ngoài. Mặt khác, chính phủ tích cực khuyến khích, dàn xếp "dỡ bỏ" các doanh nghiệp yếu, kết nối các xí nghiệp lại thành những công ty lớn hơn và các tập đoàn doanh nghiệp để đủ sức đối phó với các công ty đa quốc gia ở thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, có thể nói, xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu mới thực sự là trọng tâm ưu tiên và chìa khoá quan trọng cho sự thành công của Nhật trong suốt quá trình HNKTQT cả ở cấp chính phủ lẫn tập đoàn doanh nghiệp. Từ những năm 50, cùng với việc Nhà nước bãi bỏ độc quyền ngoại thương, cơ sở pháp lý cho các hoạt động xúc tiến thương mại, nhất là xúc tiến xuất khẩu, đã được nhanh chóng hoàn chỉnh với việc liên tiếp thông qua các Luật kiểm soát ngoại thương (1949), Luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (1950), Luật thuế đặc biệt (1953), Luật mẫu mã hàng xuất khẩu (1958)... Đồng thời, một loạt các tổ chức xúc tiến xuất khẩu được thành lập cho các mục tiêu này như: Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản (1950), Viện nghiên cứu ngoại thương (1951) và Hội chợ triển lãm quốc tế (1952). Về sau, Viện nghiên cứu ngoại thương và Hội chợ triển lãm quốc tế được sát nhập với nhau và cùng một số tổ chức khác (1954), rồi cuối cùng được tổ chức lại thành Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản - JETRO (1958). Cơ quan này ngày càng phát triển và mở rộng quy mô, đồng bộ và tự chủ hơn. Điều đó không chỉ cho thấy vai trò tích cực của "bàn tay tổ chức" chính phủ, mà còn nói lên tính chất gần gũi và quan hệ chặt chẽ giữa các hoạt động nghiên cứu - triển khai ở Nhật trong khoa học - công nghệ, và cả trong nghiên cứu tiếp thị - xúc tiến thương mại. Có thể nói, suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh, nền kinh tế Nhật Bản đã đi theo một mô hình kinh tế đặc thù, trong đó các công ty lớn có tên tuổi được ưu tiên và chi phối nền kinh tế, một mạng lưới kinh doanh phức tạp thiên vị những tên tuổi lớn và dựa vào các quan hệ cá nhân, một chế độ quản lý lao động truyền thống coi trọng thâm niên, lương cao và uy tín khiến các doanh nghiệp nhỏ rất khó tuyển được những nhân viên và những nhà quản lý lành nghề, và một chính sách khoa học kỹ thuật coi trọng các công ty lớn lại dựa trên một nền giáo dục coi nhẹ tính sáng tạo, tính cá nhân và lối tư duy độc lập của học sinh, một chính sách hội nhập kinh tế quốc tế một chiều (chỉ mở cửa cho các công ty, nguồn vốn và hàng hoá Nhật Bản đi ra thế giới, còn đóng cửa và duy trì các yếu tố đặc thù bên trong và hạn chế sự thâm nhập của hàng hoá, lao động và các công ty nước ngoài). Và cho đến những thập kỷ gần đây “Nhật Bản vẫn chưa chịu chơi một sân chơi chung” như của các nền kinh tế khác, và do vậy nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa được quốc tế hoá đầy đủ. Mô hình này một mặt do ra đời và phù hợp với những đặc thù của bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước trong vài thập kỷ sau chiến tranh nên đã giúp Nhật Bản sớm khắc phục được hậu quả chiến tranh, nhanh chóng đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển khác, và trở thành một siêu cường kinh tế thế giới. Tuy vậy, mặt khác, cùng với thời gian, mô hình này cũng dần dần bộ lộ những vấn đề rất khó khắc phục của mình trước bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước trong trong hai thập kỷ qua và thậm chí còn trở thành nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ kéo dài, một vật cản cho quá trình phục hồi và tăng trưởng tiếp tục của nền kinh tế Nhật Bản những năm gần đây. Chẳng hạn, cho đến tận cuối những năm 90, trước tình trạng khép kín và bài ngoài của thị trường Nhật Bản, các công ty và lao động nước ngoài không những khó bán hàng vào thị trường Nhật mà còn rất khó đầu tư hoặc vào làm việc ở Nhật Bản. Riêng lĩnh vực đầu tư, người ta tính rằng, Nhật Bản cứ đầu tư trực tiếp 18 USD ra nước ngoài thì mới tiếp nhận 1 USD FDI từ nước ngoài. Sự khép kín của thị trường Nhật Bản như vậy đã khiến cho các nhân tố nước ngoài rất khó thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, và hậu quả là tính cạnh tranh, cởi mở, đổi mới và năng động, được coi là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức Nhật Bản, bị hạn chế. Việc mở cửa toàn diện các thị trường Nhật Bản luôn là một đòi hỏi thường xuyên của các bạn hàng trong tất cả các vòng đàm phán thương mại từ trước tới nay. Bởi vậy, từ giữa những năm 80 và nhất là từ đầu những năm 1990, Nhật Bản đang đứng trước sức ép rất lớn đòi phải cải cách và mở cửa nền kinh tế, không kém gì hai lần cải cách và mở cửa trước đây vào giữa thế kỷ 19 (Kỷ nguyên Minh Trị) và sau Chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1945). Tuy vậy, nếu hai lần trước đây, Nhật buộc phải cải cách và mở cửa là do những sức ép to lớn từ bên ngoài (Gaiatsu), thì lần này đó lại là những sức ép từ chính bên trong nền kinh tế và xã hội Nhật Bản. Theo, Giáo sư William H. Overholt, Trung tâm châu Á, Đại học Harvard, "hiện Nhật Bản đang trong cuộc chiến với chính mình". Những cải cách lớn thu hút vốn đầu tư Từ giữa những năm 1980, nhất là từ những năm 1990, để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hoá cũng như của cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới nói chung, nền kinh tế và xã hội Nhật Bản, vì sự sống còn của mình, cũng ngày càng được quốc tế hoá và hội nhập vào thế giới và khu vực trên hai phương diện sau đây: Cùng với việc tiếp tục khuyến khích các công ty và hàng hoá Nhật Bản thâm nhập mạnh ra thị trường thế giới, Nhật còn từng bước mở cửa không những thị trường hàng hoá thông thường mà cả các thị trường lao động, tài chính, xây dựng và đầu tư cho các công ty, các tổ chức tài chính và nhân công nước ngoài vào hoạt động. Cụ thể là chính phủ và giới kinh doanh Nhật Bản đã tiến hành phi điều chỉnh nền kinh tế theo hướng giảm dần vai trò can thiệp trực tiếp của Nhà Nước vào kinh tế, giảm bớt quy mô của các Bộ và các đơn vị trực thuộc trên cơ sở tinh giản và nâng cao năng lực của các cán bộ điều hành, giảm bớt các quy định và giấy phép kinh doanh, tăng quyền cho các doanh nghiệp và các chính quyền cấp cơ sở; cải cách chế độ quản lý lao động theo hướng nâng cao tính chủ động sáng tạo của người lao động thay vì khuyến khích những người lao động chỉ biết trung thành và tuân thủ mệnh lệnh một cách thụ động; mở cửa và nâng cao vai trò của thị trường tài chính gián tiếp trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và huy động vốn cho kinh doanh; loại dần tính khép kín và bài ngoại của hệ thống công ty; và tiến hành cải cách giáo dục và đạo tạo theo hướng chuyển từ hệ thống giáo dục lấy người dạy làm trung tâm sang hệ thống đề cao lối tư duy độc lập và sáng tạo cá nhân của người học. Kết quả là gần đây, số lao động nước ngoài (chủ yếu là lao động có tay nghề hợp pháp và lao động không lành nghề bất hợp pháp) đang tăng lên nhanh chóng, vốn đầu tư và số công ty nước ngoài đang có mặt ngày càng đông tại ngày càng nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Nhật Bản, kể cả những lĩnh vực trước đây chỉ dành cho các công ty Nhật như ngân hàng, chứng khoán, xây dựng... Mặt khác, Nhật Bản còn tiến hành cải tiến môi trường pháp lý, kinh doanh và văn hoá của mình khiến chúng ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế trong nước, theo hướng tạo cho cơ cấu kinh tế Nhật Bản ngày càng phù hợp với cơ cấu kinh tế khu vực và quốc tế thành một cơ cấu thống nhất, có liên quan chặt chẽ lẫn nhau theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Từ những cải cách đó, hiện nay Nguồn: Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai- PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh- Viện Kinh Tế Thế Giới Nhật Bản là một trong những cường quốc thu hút FDI lớn nhất, tính bảo thủ trong kinh doanh giảm hẳn và là một nơi hàng đầu để các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến. Chương II: THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM: 2.1 Tình hình đầu tư vốn tại Việt Nam: 2.1.1. Tình hình đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2008 Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8,0%, phấn đấu ở mức 8,0%, vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP. Để đạt mục tiêu này, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cần huy động khoảng 160 tỷ USD, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt khoảng 25,1 tỷ USD, trung bình trên 5 tỷ USD/năm. Ngay trong 3 năm đầu của kỳ kế hoạch 2006-2010, FDI đã gia tăng mạnh mẽ cả về vốn đăng ký và vốn thực hiện. Về vốn đăng ký, trong 3 năm 2006-2008 đạt 97,6 tỷ USD (trong đó năm 2006: 10,2 tỷ USD, năm 2007: 20,3 tỷ USD và năm 2008: trên 64 tỷ USD), vượt 77,4% so với mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn 5 năm 2006-2010. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đăng ký, cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực và theo đối tác đầu tư cũng như theo vùng lãnh thổ tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Biểu đồ thề hiện nguồn vốn FDI đăng ký từ năm 1999 đến 2008 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Số liệu lấy từ Tuy số vốn cam kết mang lại một sự ưu ái tốt trong việc thu hút FDI thì thực trạng vẫn còn một số bất cập, đặc biệt nhất là khi thực hiện thì việc thực hiện lại chưa được hoàn thiện như việc cam kết với số vốn đã đề ra, có nhiều lý do nhưng thực trạng này xuất hiện từ mười năm trở lại đây và theo dự báo sự chênh lệch giữa số vốn cam kết và số vốn thực hiện sẽ còn tiếp tục cả ở năm 2009 và năm 2010. Qua hai biểu đồ dưới đây sẽ làm rõ hơn sự chênh lệch giữa vốn cam kết và vốn thực hiện. Biểu đồ FDI thực hiện từ năm 1991 đến 2008 (Đvt: tỷ USD) Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Biểu đồ sự chênh lệch giữa số vốn FDI đã đăng ký và số vốn FDI thực hiện từ năm 2003 đến 2008 và FDI phân bố cho các ngành nghề trong năm 2008 Qua hai biểu đồ trên ta thầy sự chênh lệch giữa vốn thực hiện và vốn cam kết, tình hình đó càng rõ nét hơn vào năm 2007 khi con số cam kết là 20,3 tỷ USD nhưng thực hiện chỉ có 6,4 tỷ USD nghĩa là chỉ khoảng hơn một phần tư so với số vốn cam kết. Đặc biệt hơn nữa là năm 2008 với số vốn cam kết hơn 64 tỷ USD thì số vốn thực hiện chỉ có gần 13 tỷ USD. Thực trạng này đang tiếp tục diễn ra ở cả hai năm 2009 và 2010. Theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, như biểu đồ trên thì FDI đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nhiều nhất chiếm 53%, trong đó công nghiệp nặng chiếm 31%, công nghiệp nhẹ chiếm 11%, xây dựng chiếm 11%, lĩnh vực bất động sản chiếm 18%, dầu mỏ khí đốt và khách sạn du lịch cùng chiếm 10%, còn lại là các ngành khác chiếm 6%. Về đối tác đầu tư, trong 3 năm 2006-2008 có 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, đứng đầu là Malaysia chiếm 17% tổng vốn đăng ký, tiếp theo là Đài Loan chiếm 13,1%, Nhật Bản chiếm 11,1% và Hàn Quốc chiếm 10,8%. Tuy nhiên năm 2007, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 66% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 4 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam theo thứ tự: Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản đã chiếm 55% tổng vốn đăng ký. Cơ cấu vùng có sự chuyển dịch tích cực, bên cạnh các địa bàn thuộc 2 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Đông Nam Bộ, nguồn vốn FDI thời gian gần đây đã dịch chuyển đáng kể sang một số điạ bàn khác thuộc các tỉnh Duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 3 năm 2006-2008, có 63 địa phương thu hút được FDI, dẫn đầu là thành phố Hồ Chí Minh chiếm 13,7% tổng vốn đăng ký, Bà Rịa-Vùng Tàu chiếm 13,2%, Ninh Thuận chiếm 10,3%, Hà Tĩnh chiếm 8,1% và Hà Nội chiếm 6,8%... Đặc biệt trong năm 2007, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút ĐTNN, trong đó 5 địa phương dẫn đầu theo thứ tự như sau: dẫn đầu l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMôi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan