Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả

- Mẹo luật chính tả là hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:

+ Để phân biệt âm đầu ch/ tr: Đa số các đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch.

* Ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, . chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chìa vôi, chào mào,

+ Để phân biệt s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: sả, si, sồi, sứ, sung, sim, sầu đâu, sậy, sến, sầu riêng, so đũa, . sam, sáo, sâu, sếu, sò, sóc, sư tử, sơn dương,

+ Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã:

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét của Hội đồng khoa học giáo dục 1. Cấp cơ sở: + Tổ (khối):........................................................................................................... ........................................................................................................................................................................................................................................................................... (Tổ trưởng, ký tên) + Hội đồng thi đua trường: ................................................................................. ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. (Thủ trưởng, ký tên, đóng dấu) 2. Cấp huyện: .............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. + Xếp loại: ............... ( .......... điểm) XÁC NHẬN TM. HĐSKKN (Ký và ghi rõ họ, tên) Tài liệu tham khảo SGK Tiếng Việt 1 (tập 2), 2, 3, 4, 5 (tập 1, 2), Nxb Giáo dục. SGV Tiếng Việt 1 (tập 2), 2, 3, 4, 5 (tập 1, 2), Nxb Giáo dục. Lê Hữu Tỉnh. Phương pháp dạy chính tả, Nxb Đại học Sư phạm. PHÒNG GD & ĐT ĐÔNG HẢI CỘNG HOÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH LONG ĐIỀN TIẾN A Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Long Điền, ngày 10 tháng 10 năm 2010 MỘT SỐ BIỆN PHÁP “ GIÚP HỌC SINH GIẢM BỚT LỖI CHÍNH TẢ” I. Lời nói đầu: 1. Lý do chọn đề tài: - Phân môn Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hoá, tiếng Việt chuẩn mực. Vì vậy, phân môn Chính tả có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học ở trường phổ thông nói chung. Giống như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, tính chất nổi bật của phân môn Chính tả là tính thực hành. Bởi lẽ, chỉ có thể hình thành các kĩ năng, kĩ xảo chính tả cho học sinh thông qua việc thực hành, luyện tập. Do đó, trong phân môn này, các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lý thuyết không được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả. - Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 60 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi không thể hiểu các em muốn diễn đạt điều gì, vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát. - Vì lý do đó, tôi đã cố gắng thông kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp “ giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả”, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. 2. Phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu về nguyên nhân nào dẫn đến học sinh mắc lỗi chính tả. Từ đó có những giải pháp “Giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả” cho học sinh Tiểu học. II. Thực trạng: 1. Thống kê, đối chiếu: Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau: a) Về thanh điệu: - Tiếng Việt có 6 thanh điệu ( ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến ( kể cả những người có trình độ văn hóa cao ). * Ví dụ: sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành,… b) Về âm đầu: - Học sinh viết viết lẫn lộn một số chữ cái ghi âm đầu sau đây: + c/ k: céo co,… + g/ gh: con gẹ, gê sợ,… + ng/ ngh: ngỉ ngơi, nge nhạc,… + ch/ tr: cây che, chiến chanh, … + s/ x: cây xả, xa mạc,… + v/ d/ gi: giao động, giải lụa, giòng giống, dui dẻ,.. - Trong các lỗi này, lỗi về ch/ tr, s/ x, v/ d/ gi là phổ biến hơn cả. c) Về âm chính: - Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây: + ai/ ay/ ây: bàn tai, đi cầy, dậy học,… + ao/ au/ âu: hôm sao, mầu đỏ,… + iu/ êu/ iêu: chìu chuộng, lim khiết, cây niu,… + oi/ ôi/ ơi: nôi gương, xoi nếp,… + ăm/ âm: con tầm, sưu tằm,… + im/ iêm/ êm: tim thuốc, lúa chim, cái kềm,… + ăp/ âp: gập gỡ, trùng lấp,… + ip/ iêp/ êp/: số kíp, liên típ, thệp cưới,… + ui/ uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác,… + ưi/ ươi: trái bửi,… + um/ uôm: nhụm áo, ao chum,… + ưi/ ươu: ốc bưu, con khứu,… d) Về âm cuối: - Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau: + an/ ang: cây bàn, bàng bạc,… + at/ ac: lang bạc, lường gạc, rẻ mạc,… + ăn/ ăng: lẳn lặn, căn tin,… + ăt/ ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo,… + ân/ âng: hụt hẫn, nhà tần,… + ât/ âc: nổi bậc, nhất lên,… + ên/ ênh: bấp bên, nhẹ tên, gập ghền,… + êt/ êch: trắng bệt,… + iêt/ iêc: mải miếc, tiêu diệc,… + ut/ uc: chim cúc, bão lục,… + uôn/ uông: muôn thú, buồng tủi,… + uôt/ uôc: rét buốc, thuốt uống,… + ươn/ ương: lươn bổng, sung sướn,.. 2. Nguyên nhân mắc lỗi: a) Về thanh điệu: Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt hai thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang hai thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu thanh rất phổ biến. b) Về âm đầu: Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/ tr, s/ x, d/ gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v/ d. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng ( Ví dụ: / k / ghi bằng c,k,qu,…) dĩ nhiên là có những quy định riêngcho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh Tiểu học ( nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn. c) Về âm chính: Có hai nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này: - Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au; các nguyên âm đôi / ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua ( Ví dụ: bia- khuya; biên- tuyến; lửa- lương; mua- muôn). Âm đệm /w/ lại đượuc ghi bằng hai chữ u và o ( Ví dụ: huệ, hoa) - Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam bộ đối với các âm chính trong hầu hết các vần trên. d) Về âm cuối: Người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ ng/ nh và t/ c/ ch. Mà số từ mang các âm này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối / i, u / lại được ghi bằng bốn con chữ i/ y (trong: lai/ lây); u/ o ( trong: sau/ sao), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh phía Nam. III. Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả: 1) Luyện phát âm: - Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý đến luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các vần, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ âm ( âm thế nào, chữ ghi thế ấy). - Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn,… - Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp,…), giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe thầy, cô phát âm để viết đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ đọc vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được. 2) Phân tích, so sánh: - Với những tiếng khó, giáo viên nên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ. * Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: + muống = m + uông + thanh sắc ( / ). + muốn = m + uôn + thanh sắc ( / ). So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng “ muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không sai. 3) Giải nghĩa từ: - Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn,…nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng. - Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu ( nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,… * Ví dụ: Phân biệt “chiêng” và “chiên”. + Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm ( chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội). + Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa ( chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa). - Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ. 4) Ghi nhớ mẹo luật chính tả: - Mẹo luật chính tả là hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như: + Để phân biệt âm đầu ch/ tr: Đa số các đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch. * Ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén,…. chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chìa vôi, chào mào,… + Để phân biệt s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: sả, si, sồi, sứ, sung, sim, sầu đâu, sậy, sến, sầu riêng, so đũa,…. sam, sáo, sâu, sếu, sò, sóc, sư tử, sơn dương,… + Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã: * Ví dụ: Ø trong + ấy = trỏng Ø trên + ấy = trển Ø cô + ấy = cổ Ø hôm + ấy = hổm Ø bên + ấy = bển + Luật trầm – bổng: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh ( hay dấu ) của hai yếu tố ở cùng một hệ bổng ( ngang, sắc, hỏi ) hoặc trầm ( huyền, ngã, nặng ). Để nhớ được hai nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc hai câu thơ: Em Huyền mang nặng, ngã đau Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào. * Ví dụ: —Bổng: Ø ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ,… Ø sắc + hỏi: nhắc nhở, sắc sảo,… Ø hỏi + hỏi: lỏng lẻo, thỏ thẻ, rủ rỉ,… — Trầm: Ø huyền + ngã: sẵn sàng, vồn vã, lững lờ,… Ø nặng + ngã: nhẹ nhõm, đẹp đẽ, lạnh lẽo,… Ø ngã + ngã: dễ dãi, nhõng nhẽo, …. + Để phân biệt các vần dễ lẫn: Một số vần có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, chệch choạng, … Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là “ng” hoặc “nh”: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, ăng ẳng, rang rắc, sằng sặc, eng éc, beng beng, reng reng, huỳnh huỵch, thùng thùng, thình thịch, rập rình, xập xình,…. Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân. 5) Làm các bài tập chính tả: Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chỉnh tả khác nhau để giúp học sinh vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút các chính tả để các em ghi nhớ. * Bài tập trắc nghiệm: Ø Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả: a. hướng dẩn b. hướng dẫn c. giải lụa d. dải lụa e. oan uổng g. oan uổn Ø Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả: rau muốn rau muống chải chuốc chải chuốt giặc quần áo giặt quần áo Ø Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B tạo thành những từ viết đúng chính tả: A B bênh trái bên vực bện tật bệnh tóc * Bài tập lựa chọn: Ø Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong câu sau: + ( sửa, sữa) : Cháu đang uống …… . + ( ngả, ngã ): Học sinh ……. mũ chào thầy giáo. + ( giày, dày ): Đôi ………… này đế rất ……….. . + ( xinh, sinh ): Sau khi …… con, chị ấy trông thật ……… * Bài tập phát hiện: Ø Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng: + Xuân Diệu là nhà thơ trử tình nổi tiếng. + Lá vàng bay liệng trong gió chiều. + Bức tườn bị nức ngang nức dọc. * Bài tập điền khuyết: Ø Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống: + Hắn bỡ …………. trước cuộc sống mới lạ. + Buổi trua hè, nắng chói …………. . + Dây leo chằng ……….. , chắn cả lối đi. + Tiếng gà kêu quang ……………. . * Bài tập tìm từ: Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa,…… Ø Tìm từ chứa tiếng có vần ươt hoặc ươc có nghĩa như sau: + Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ : ………… + Thi không đỗ : …………… + Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh : ……. Ø Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau: + Trái nghĩa với thật thà: ………… + Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố: …… + Cây trồng để làm đẹp: ……… + Khung gỗ để dệt vải: ……… * Bài tập phân biệt: Ø Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau: + chúc – chút + lục – lụt + ngả – ngã * Bài tập câu đố: Ø Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau: Mặt ….òn, mặt lại đỏ gay Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao Suốt ngày lơ lửng ….ên cao Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu ? ( Là gì ? ) Ø Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải câu đố sau: Cánh gì cánh chăng biết bay Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi. (Là gì ?) IV. Kết quả: Kết quả Đối tượng học sinh Trước khi áp dụng các giải pháp Sau khi áp dụng các giải pháp đã nêu trên 1 Thường sai 9, 10 lỗi 3, 4 lỗi 2 Thường sai 5, 6 lỗi 1, 2 lỗi Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Bản thân của các em cũng có ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10 lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi, những em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi, … Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả” là một quá trình lâu dài, song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình làm đã bước đầu có hiệu quả. - Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các biện phápkhắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy – học Tiếng Việt. Nhưng không phải đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là một quá trình lâu dài, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thận chí cả một học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại. Ngay từ khi các em mới bắt đầu “ làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ,… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,.. . Từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. - “Ở đâu có thầy giỏi, ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có hiệu quả. V. Kết luận: Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự động hoá, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả, không cần đến sự tham gia của ý chí. Để đạt được điều này, có thể tiến hành theo hai cách: “cách có ý thức và cách không có ý thức”. - Cách không có ý thức (còn gọi là phương pháp máy móc): Phương pháp này không cần biết đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu mối quan hệ giữa ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp của chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Cách dạy này tốn nhiều thì giờ, công sức và không thúc đẩy sự phát triển của tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định. - Cách có ý thức (còn gọi là phương pháp có ý thức, có tính tự giác): Phương pháp này bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó, tiến hành luyện tập và từng bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc hình thành các kĩ xảo bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả nhất. Đối với học sinh tiểu học, cần phải vận dụng cả hai cách nói trên. Trong đó, cách không có ý thức chủ yếu được sử dụng ở các lớp đầu cấp, còn cách có ý thức cần được sử dụng thích hợp chủ yếu ở các lớp cuối cấp. Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không tham vọng đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ xin nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích lũy được trong quá trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Người viết Hồ Thanh Ngào

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả.doc
Tài liệu liên quan