Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn của ngân hàng thương mại 4
I/ Khái niệm cơ bản về vốn 4
1/ Vốn hiện vật . 4
2/ Vốn nhân lực 4
3/ Vốn tài chính 4
II/ Vốn và các hình thức tạo vốn của ngân hàng thưong mại trong nền kinh tế thị trường. 4
1/ Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàngthương mại. 5
2/ Két cấu và tính chất vốn kinh doanh của NHTM. 5
2.1/ Vốn tự có. 5
2.2. Vốn huy động. 6
2.3. Vốn đi vay. 8
2.4. Vốn khác. 9
3. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng. 10
3.1. Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. 10
3.2. Vốn của Ngân hàng sẽ quyết định quy mo hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của Ngân hàng. 10
3.3. Vốn của Ngân hàng quyết định năng lực cạnh tranh. 11
4. Các hình thức tạo vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 11
4.1. Tạo vốn qua huy động tiền gửi không kỳ hạn. 11
4.2. Tạo vốn qua huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. 12
4.3. Tạo vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm có mệnh giá lớn. 14
4.4. Tạo vốn qua đi vay. 14
4.5. Tạo vốn qua phát hành trái phiếu. 15
4.6. Các hình thức tạo vốn khác. 16
III. Vai trò của NHTM trong chiến lược tạo vốn. 16
66 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục đích của việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng là khách hàng muốn được hưởng những tiện lợi trong thanh toán: thanh toán tiền hàng cho người bán, nhận tiền bán hàng của người mua chuyển tới và trả các khoản chi phí khác cho các dơn vị tổ chức kinh tế mà đơn vị có dùng dịch vụ hàng hoá của họ. Số dư loại tài khoản của họ rất thất thường nhưng có lợi thế là khoản lãi cho khách hàng rất thấp và nó cũng chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Từ đó giúp cho Ngân hàng kéogiảm lãi suất đầu vào, có thêm ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi này đưa vào hoạt động kinh doanh của mình, áp dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích khách hàng thường xuyên gửi tiền nhàn rỗi vào tài khoản thanh toán: những đơn vị tổ chức có số dư trên tài khoản này cao và thường xuyên ổn định tại Ngân hàng sẽ được ưu tiên tiết giảm lãi suất tiền vay theo tỷ lệ tương ứng.
Một ưu thế có tính chất quyết định đến việc huy động vốn thông qua các hình thức khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng là các chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã áp dụng triển khai đồng loạt máy vi tính vào công tác thanh toán liên hàng điện tử, cải tiến chế độ luân chuyển chứng từ nội bộ, đối với thái độ phục vụ khách hàng, cải tiến công tác thu chi tiền mặt nhanh chóng thuận lợi và đáp ứng nhu cầu của khách hàng mọi lúc mọi nơi. Đến nay công tác thanh toán liên hàng điện tử, rút ngắn thời gian chu chuyển chứng từ trước đây từ 1,2 ngày còn 1-2 giờ. Chuyển công tác đối chiếu liên hàng về từng cơ sở, vốn được điều chuyển ngay trong ngày về tại NHNN Láng Hạ rồi chuyển lên NHNN Việt nam giúp cho việc điều hành vốn được thuận lợi, nhanh chóng, tăng nhanh vòng quay của vốn. Nhờ có ứng dụng trên mà đã tăng lưu lượng chứng từ qua Ngân hàng.
- Tăng cường khai thác vốn trung hạn thông qua phát hành kỳ phiếu và vay nợ các tổ chức nước ngoài.
Trong mấy năm gần đây do thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước vì vậy nguồn kỳ phiếu trái phiếu mà Ngân hàng huy động có biến động mạnh. Năm 1998 nguồn này đã tăng 412% so với năm 1997 và giảm chỉ còn 97% đến cuối năm 1999 năm 2000 giaem xuống còn 8% so với năm 1999.
Năm 1998 chi nhánh có thực hiện huy động kỳ phiếu 13 tháng có mục đích, lãi suất trả trước vì vậy nguồn kỳ phiếu của Ngân hàng đã tăng lên rất mạnh. Tuy nhiên bước sang năm 1999, bên cạnh nguồn kỳ phiếu ngắn hạn (6 tháng) đã được thanh toán hết, và các loại kỳ phiếu khác như kỳ phiếu 12 tháng trả lãi trước kỳ phiếu có mục đích 13 tháng của Ngân hàng, kỳ phiếu ³ 12 tháng thông thường khác phần lớn đã được Ngân hàng thanh toán hết cho khách hàng, thì nguồn huy động hộ Ngân hàng nhà nước của Ngân hàng đã hoàn thành và chuyển giao là nguyên nhân cho sự giảm Ngân hàng sút hết sức nhanh chóng của tổng nguồn này.
Lãi suất trái phiếu NHNN được tính trên cơ sở gồm lãi suất cơ bn cộng với chỉ số trượt giá do Tổng giám đốc NHNN quyết định trong khung lãi suất của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hai loại: lãi suất cố định trong suốt thời hạn của trái phiếu và lãi suất có điều chỉnh hàng năm cho từng đợt phát hành.
Hình thức trái phiếu được đông đảo quần chúng dân cư hưởng ứng vì một phần do lãi suất được tính toán trên cơ sở tính lãi thị trường vốn ngắn hạn tại thời điểm phát hành phù hợp với chính sách lãi suất của nhà nước.
Trái phiếu NHNN được dùng để thế chấp, cầm cố, để bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng kể cả các chi nhánh trong tổ chức NHNN nếu được tổ chức tín dụng cho vay chấp nhận. Nó là chứng từ có giá, có khả năng chuyển nhượng trong thời hạn lưu hành của trái phiếu. Riêng loại trái phiếu có ghi tên được phép mua bán tại thị trường chứng khoán. Người chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng sang tên một trái phiếu tối đa là 3 lần và thực hiện tại chi nhánh NHNN phát hành trên cơ sở ( giấy chuyển nhượng trái phiếu). Ngân hàng xoá tên người chủ sở hữu cũ và đăng ký lại tên chủ sở hữu mới trong sổ theo dõi của Ngân hàng.
NHNN Láng Hạ đã phát hành loại kỳ phiếu có mục đích và kỳ phiếu đảm bảo theo giá trị vàng và ngoại tệ. Lãi suất được trả tức là người trả chỉ trả cho Ngân hàng số tiền thấp hơn mệnh giá của kỳ phiếu, khi đến hạn người chủ sở hữu của kỳ phiếu, được hưởng đúng mệnh giá ghi trên kỳ phiếu đó. Nhờ sử dụng hình thức phát hành kỳ phiếu và trái phiếu này đã tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp có được nguồn vốn tương đối ổn định để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế.
- Tăng cường huy động ngoại tệ.
Những giải pháp mà NHNN Láng hạ áp dụng để thu hút vốn ngoại tệ đó là hình thức hấp dẫn và hết sức thuận lợi đối với người gửi: tỷ giá hối đoái linh hạot, phù hợp, gửi, rút, thu đổi ngoại tệ nhanh chóng tiện lợi, chính xác. Với những hình thức trên NHNN Láng Hạ không những thu hút nguồn vốn ngọai tệ trong nước của dân cư mà còn thu hứt được ngoại tệ của các công ty nước ngoài các xí nghiệp lien doanh và các cá nhân nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam. Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọgn nhỏ trong tổng nguồn vốn, nhưng nó giúp NHNN Láng Hạ nắm giữ được khách hàng bởi vì NHNN Láng hạ có thể phục vụ khách hàng theo yêu cầu cả về nột tệ lẫn ngoại tệ phần lớn Ngân hàng huy động vốn ngoại tệ nhờ vào nguồn tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ, kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích đảm bảo bằng ngoại tệ.... Khi chủ sở hữu đến lĩnh tiền Ngân hàng có thể trả theo yêu cầu của khách hàng bằng nội tệ hay ngoại tệ. Tính đến 31 -12 - 2000 nguồn vốn huy động ngoại tệ của NHNN Láng Hạ chiếm 17,3 % trong tổng nguồn vốn huy động. Để đáp ứng nhucầu vốn ngoại tệ cho các doanh nghiệp mở rộng thanh toán quốc tế.
- Chiến lược khách hàng của NHNN Láng Hạ.
Trong nền kinh tế thị trường, một điều kiện tiên quyết quyết định đén sự thành công của công tác kinh doanh tại Ngân hàng đó là chiên lược con người và chíen lược khách hàng. Con người là yếu tố quan trọgn nhất tạo nên thành công. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng phải đáp ứng được yêu cầu mới. Vì vậy trong thời gian qua Ngân hàng luôn phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Cán bộ Ngân hàng phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, có phong cách giao dịch phục vụ khách hàng tốt.
Ngay từ khi thnh lập chi nhánh NHNN Láng Hạ đã có nơi làm việc khang trang. Các quỹ tiết kiệm đảm bảo, nhân viên làm vịec trong điều kiện thoải mái, từ đó làm tăng năng suất lao động của nhân viên. tăng thêm lòng tin của khách hàng vào sự phát triển của NHNN Láng Hạ, đay là một yếu tố có tác dụng hấp dẫn khách hàng.
Chiến lược khách hàng của NHNN Láng hạ xuất phát từ nhu cầu đổi mới cán bộ, tăng cường đầu tư cán bộ có năng lực, có trách nhiệm tiếp cận và phục vụ khách hàng. Một mặt Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ khuyến khích các đơn vị phải tổ chức kinh tế gửi tiền vào tài khoản thanh toán tại Ngân hàng. Mặt khác Ngân hàng khuyến khích những khách hàng lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả Ngân hàng sẽ thự hiện giảm lãi suất tiền vay và trả lãi gửi cao hơn cac đơn vị khác.
Tuy nhiên, không vì thế mà bất cứ một khách hàng nào đến với Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đều được đón tiếp như nhau, trong chiến lược khách hàng có nêu: phải phân biệt đối xử với khách hàng thiện chí, quan hệ hai bên cùng có lợi, những khách hàng đến có chủ ý lừa đảo cần phải đề phòng thận trọng hơn trong giao dịch. Chọn lọc khách hàng để có chính sách đãi ngộ đối xử đúng đắn, tạo thêm uy tín và củng cố uy tín của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ. Ngân hàng thực sự coi: “Khách hàng là thượng đế” và lấy đó là phương châm hoạt động “đảm bảo an toàn chất lượng và hiệu quả”.
2.2. Tình hình quản lý vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
+ Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Hoạt động của Ngân hàng bao gồm hai khâu cơ bản đó là huy động vốn và sử dụng vốn. Việc quản lý vốn tại Ngân hàng không những bao gồm tổ chức huy động thật nhiều vốn vào Ngân hàng mà còn tiến hành tìm nơi cho vay và đầu tư có lợi nhất, đảm bảo nguyên tắc của Ngân hàng là “đảm bảo an toàn và hiệu quả”.
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau, giải quyết mối quan hệ này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn. Thực hiện tốt công tác quản lý vốn tạo điều kiện cho thu nhập không ngừng được nâng cao. Trong quá trình kinh doanh, Ngân hàng cần phải cân đối được nguồn vốn hiện có với nhu cầu sử dụng vốn và đảm bảo hiệu quả, trên cơ sở đó mới có điều kiện bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Nếu Ngân hàng đầu tư có trọng điểm sẽ giúp các đơn vị tổ chức làm ăn có lãi, thu nhập của người lao động được nâng cao có điều kiện tích luỹ từ đó sẽ tạo tiền đề cho việckhởi tăng nguồn vốn của Ngân hàng và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong những năm qua tình hình kinh tế nói chung ổn định và phát triển, tốc độ phát triển kinh tế cao, cùng với hính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, chính sách tiền tệ của Ngân hàng tiếp tục được đổi mới, cung ưứng tiền tệ chủ động linh hoạt theo tín hiệu của thị trường hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ cũng được đổi mới về mọi mặt, nguồn vốn kinh doanh đa dạng, kết quả tài chính có nhều tiến bộ nộp ngân sách ngày càng tăng.
Để nắm rõ hơn tình hình huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ trong những năm gần đây chúng ta xem xét và phân tích một cách chi tiết các chỉ tiêu sau:
Bảng 1 : tình hình huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
Đơn vị: tỷ đồng.
Năm
Nguồn vốn
1997
1998
1999
2000
1. Tiền gửi tiết kiệm
22
86
231
1103
- Tiền gửi không kỳ hạn
4
8
11
453
- Tiền gửi có kỳ hạn
18
78
220
650
2. tiền gửi của các tổ chức kinh tế
173
53
234
800
- Tiền gửi không kỳ hạn
173
53
132
200
- Tiền gửi có kỳ hạn
0
0
102
600
3. tiền gửi khác (tiền vay, kỳ phiếu...)
41
744
679
97
Tổng cộng
236
883
1144
2000
Nguồn số liệu trên được trích từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh từ 1997 - 2000 của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
Trước hết chúng ta nghiên cứu tình hình huy động trong từng năm. Năm 1997 Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ chỉ huy động được 22 tỷ tiền gửi tiết kiệm, 173 tỷ tiền gửi của các tổ chức kinh tế, 41 tỷ tiền gửi khác tổng cộng nguồn vốn huy động chiếm 73,11%. Điều này dễ hiểu bởi lẽ mới bước vào giai đoạn đầu hoạt động dân chúng còn chưa biét đến sự xuất hiện của Ngân hàng và còn e dè trong việc gửi tiền, bên cạnh đó thì nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm ưu thế với tỷ trọng lớn. Bởi vì mới thành lập phương châm hoạt động là an toàn trong thời gian đầu nên khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn có uy tín và hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Sang năm 1998 có sự gia tăng maạnh mẽ của tiền gửi tiết kiệm và tìen gửi khác như: tiền gửi của các tín dụng, tiền vay của các tổ chức tín dụng, tiền kỳ phiếu, trái phiếu trong khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế giảm mạnh so với năm 1997. tiền gửi tiêết kim tăng 64 tỷ chiếm 9,3% trong tổng nguồn vốn huy động năm 1998. tiền gửi của các tổ chức kinh tế giảm 120 tỷ tương đương với 73% so với năm 1997 và chỉ chiếm 6,4% trong tổng nguồn vốn huy động. Nhưng tiền gửi khác tăng rất mạnh là 703 tỷ nên chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn. Nguyên nhân của tiền gửi của các tổ chức kinh tế giảm so với năm 1997 là vì tiền gửi của các tổ chức kinh tế vào Ngân hàng hoàn toàn là tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng không an tâm gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng. Do tình hình biến động kinh tế xã hội trước sự ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ĐNá và bên cạnh đó cả nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cho hoạt động cuối năm tăng lên đã dẫn đến nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế bị giảm sút mạnh. Bên cạnh đó nguồn tiền gửi tiết kiệm tăng rất nhanh chóng lên tới 86 tỷ đồng, (tăng 281% so với năm 1997) mặc dù về tỷ trọng trong tổng nguòn Việt Nam vẫn còn hạn chế. Nguồn tiền gửi khác tăng lên mạnh mẽ là do nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng tăng mạnh bao gồ tiền gửi có kỳ hạn và kông kỳ hạn của các tổ chức tín dụng, đây là nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức tín dụng khác gửi vào chi nhánh Ngân hàng nhằm nhận được khoản thu nhập và tránh tình trạng ứ động vốn của họ. Ngân hàng còn đi vay của các tổ chức tín dụng khác.
Năm 1999 có sự gia tăng đáng kể của tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của các tổ chức kinh tếso với năm 1998 tiền gửi tiết kiệm tăng 145 tỷ, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 181 tỷ nhưng tiền gửi khác giảm 65 tỷ nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn.
Năm 200o tổng nguồn vốn đến 31/12/2000 đạt 2000 tỷ, tăng 857 tỷ và bằng 175% so với năm 1999. Nguồn tiền gửi tiết kiệm tăng lên mạnh mẽ lên tới 1103 tỷ chiếm 55% trong tỏng nguồn vốn. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên mạnh mẽ lên tới 800 tỷ trong khi đó tiền gửi khác giảm xuống là 97 tỷ. Để đạt đư[cjk kết quả trên là nhờ chi nhánh tiếp tục phát triển mối quan hệ chặt chẽ đối với các đon vị kách hàng truyền thống như BHXH, BHYT, quỹ hỗ trợ phát triển đồng thời mở rộng quan hệ với khách hàng mới như kho bạc nhà nước, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển thanh toán trong hệ thống. Mặt khác tiếp tục phát triển số lượng tài khoản cá nhân tại chi nhánh thông qua việc làm tốt công tác dịch vụ thanh toán.
Như vậy xét về mặt tổng thể thì tổng nguồn vốn liên tục gia tăng với tốc độ cao. Năm 1997 là 236 thì tới năm 1998 là 883 tỷ. Năm 1999 là 1144 tỷ và tới năm 2000 là 2000 tỷ. ậ đây có một điểm chung là nguồn vốn huy động qua cac năm đều có sự đóng góp của sự gia tăng tiền gửi tiết kiệm thì sự gia tăng lại tập trung chủ yếu vào các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Trong hai năm 1998 và 1999 sau cuộ khuủng haỏg kinh tế trong khu vực các loại tiền gửi khác (tiền gửi của các tổ chức tín dung khác, tiền vay, cổ phiếu, trái phiếu) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Trong các loại tiền gửi thì tiền gửi có kỳ hạn luôn chiếm ưu thế tuyệt đối giao động từ 60 - 90% qua các năm. Điều đó sẽ làm tăng chi phí của Ngân hàng vì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. Song lại có ưu thế là Ngân hàng có biết trước thời điểm thanh toán cho người gửi từ đó có kế hoạch cho vay và trả lãi gốc đúng hạn.
Nguồn vốn huy động của Ngân hàng phát triển bền vững, Ngân hàng ngày càng chứng tỏ được vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng trên địa bàn thủ đô. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng đã, đang đạt được những kết quả hết sức khả quan.
Sự tăng trưởng về nguồn vốn khá nhanh chô thấy Ngân hàng đã áp dụng tốt chính sách khách hàng và các biện pháp huy động vốn phùg hợp với đặc iểm tình hình kinh tế trên địa bàn đã thu hút được nguồn vốn dồi dào không những phục vụ cho hoạt động của Ngân hàng mà còn hỗ trợ về vốn cho các chi nhánh khác cùng hệ thống qua phương thức điều chuyển.
Nâng cao chất lượng nguồn vốn huy động bằng cách tăng tỷ trọng nguồn tiền gửi có lãi suất thấp của các tổ chức kinh tế trên cơ sở định hướng đúng đắn chiến lược huy động vốn, bằng nhiều hình thức trong tiếp thị với khách hàng thuộc mọi ngành thành phần kinh tế với nhiều mức lãi suất thiích hợp nên đã từng bước thu hút được nguồn vốn lớn từ các cấp chủ quản.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay luôn có sự cạnh tranh gay gắt thì chỉ khi sản xuất kinh doanh phát triển, tiền gửi thanh toán qua Ngân hàng mới dồi dào, phong phú. Lúc này các doanh nghiệp sẽ mở tài khoản để thanh toán với người cung cấp với bạn hàng hay cán bộ công nhân viên chức. Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ hoạt động trên một đại bàn đặc thù của khu sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của thành phố. Nơi đây có khá nhiều nhà máy xí nghiệp lớn của nhà nước và hợp tác tiểu thủ công nghiệp. Đặc điểm nổi bật của các doanh nghiệp là vốn tự có thấp, trang thiết bị, dây truyền sản xuất phầnlớn cũ kỹ lạc hậu, hoạt động sản xuất cầm chừng và vẫn còn trong giai đoạn tìm kiếm một hướng đi đúng đắn. Trong số dó không ít doanh nghiệp đã tìm cách tháo gỡ được khó khăn đi vào sản xuất kinh doanh ổn định nhưng vẫn còn một số doanh nghiệp trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả. Từ đó dẫn đến khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế tuy có chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn nhưng không đồn đều qua các năm. Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã vất bvả nhằm cố gắng thu hút tối đa nguồn tiền gửi này vì đây là nguồn tiền huy động có chi phí thấp nhất bởi mục đíchgửi tiền là để thanh toán chứ không phải sinh lời. Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã đơn giản hoá các thủ tục mở tài khoản, đổi mới phong cách làm việc, vận dụng marketing trong kinh doanh, thực hiện thanh toán đúng chính xác đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng sec hoặc tiền mặt hay chuyển tiền ddiện tử... tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái, tin tưởng khi đến giao dịch với Ngân hàng. Ban lãnh đạo luôn nhạy bén sáng tạo trong chiến lược kinh doanh, luôn nắm chắc quy định chung của toàn ngành thực hieenj đúng, chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng.
Trong chiến lượnc cạnh tranh, ngoài việc đổi mới phong cách làm việc, phục vụ tối đa nhu cầu khách hàng, trong khuôn khổ khung lãi suất của Ngân hàng cáp trên cho phép, ban lãnh đạo chi nhánh đã kịp thời đưa ra mức lãi suất phù hợp nhằmthu hút tiền gửi vào Ngân hàng, khuyến khích và tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế làm ăn có hiệu quả đến vay vốn, giải quyết đầu ra tốt.
Bảng 2: Bảng lãi suất hiện tại của NHNN Láng hạ.
Lãi suất
VND/tháng
USD/tháng
Không kỳ hạn
0,15%
1,5%
3 tháng
0,3%
3,5%
6 tháng
0,4%
4,0%
9 tháng
0,5%
4,2%
12 tháng
0,5%
4,2%
Số liệu trên được lấy từ bảng lãi suất hiện tại của NHNN Láng Hạ.
Trong mấy năm gần đây nhịp độ phát triển kinh tế đất nước ngày càng tăng, đời sống không những ổn định mà còn được nâng cao rát nhiều so với năm trước. Mức sông ngày càng tăng dần với tỷ lệ tích luỹ trong dân chúng ngày càng nhiều và tuy mức lãi suáat tiền gửi vào tiết kiệm gần đây không cao nhưng nguồn huy động tiền gửi vào tiết kiệm đã đạt được những kết quả đáng kể và tiền gửi của các tổ chức kinh tế gia tăng với tốc độ cao tạo cho Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ huy động được nguồn vốn lớn trong mấy năm gần đây.
Tình hình sử dụng vốn:
Song song với công tác huy động vốn, việc đầu tư tín dụng vẫn là công tác mũi nhọn của chi nhánh NHNN Láng Hạ.
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được Ngân hàng tioến hành phân phối sử dụng nguồn vốn đó. Do vậy sử dụng vốn là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết điịnh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời huy động và sử dụng vốn phải luôn được chú trọng, quan tâm làm sao vừa đáp ứng được nhu cầu về lợi nhuận Ngân hàng, vừa phải an toàn về vốn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Bảng 3: Kết quả sử dụng vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
Năm
Khoản mục
1997
1998
1999
2000
1. Vốn bảo đảm thanh toán
53
155
276
531
2. Dư nợ cho vay.
55
81
520
661
3. Sử dụng khác
128
647
348
808
Tổng
236
883
1144
2000
Nguồn: Số liệu trên được trích từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1997-2000 của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Qua bảng 3 ta thấy, hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng chủ yêu alf phục vụ cho hoạt động sử dụng khác, trong đó là hoạt động điều chuyển tron hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Sử dụng khác cho kinh doanh ngoai tệ và mua sắm tài sản cố định chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vấn đề nguồn vốn điều chuyển lớn là do tốc độ huy động vốn của Ngân hàng tăng nhanh trong khi hoạt động cho vay của Ngân hàng còn hạn chế. Đây là dáu hiệu chưa thật tốt trong hoạt động kinh doanh tín dụng thể hiện thị trường cho vay của Ngân hàng công nghệ nhiều hạn chế. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu kỹ hơn nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng để đưa ra những giải pháp cho phù hợp nhằm mở rộng cho vay, tạo cơ sở tăng lợi nhuận cho Ngân hàng.
Tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ được thành lập trong điều kiện kinh tế không mấythuận lợi, nền kinh tế nước ta nói chung và nền kinh tế thủ đô nói riêng đã phải chịu ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế khu vực mà cho đến nay những tác động này vẫn còn. Trong hai năm đầu công tác tín dụng của Ngân hàng đã gặp nhiều khó khăn, tâm lý cán bộ Ngân hàng còn ngại cho hoạt động của Ngân hàng chủ yếu trong giai đoạn tìm hiểu thị trường, khách hàng còn ít và chưa có nhiều khách hàng có quy mô hoạt động lớn nên tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng mới dừng lại ở con số khiêm tốn. Năm 1997 tổng dư nợ mới đạt 55 tỷ đồng và năm 1998 là 81 tỷ đồng (tăng 45,9%) nhưng dư nợ vẫn còn thấp. Bước sang năm 199 khi nền kinh tế khu vực và kinh tế trong nước có xu hướng ổn định lại tì hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng,năm 1999tổng dư nợ đạt tới 520 tỷ tăng 544,3% so với năm 1998. Đạt được kết quả như trên là nhờ chi nhánh đã kiên trì thực hiện đúng chiến lượ khách hàng với mục tiêu xây dựng và phát triển quan hệ với các doanh nghiệp lớn củ nhà nước (Tổng Công ty 90-91) năm 1999 còn là năm một số khách hàng lớn có uy tín đã về với Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ như: Tổng Công ty xang dầu Việt Nam... và với khối lượng tín dụng lớn với những khách hàng này là nguyên nhân cho sự tăng trưởng nhanh chóng cuả tổng dư nợ. Năm 2000 tổng dư nợ của Ngân hàng vẫn duy trì ở mức ổn định và tăng trưởng. Tổng dư nợ là 661 tỷ đồng tăng 141 tỷ so vớii năm 1999 và bằng 127%. Dưới góc độ cho vay với các thành phần kinh tế theo bảng sau:
Bảng 4: Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế.
Thời gian
Khoản mục
1997
1998
1999
2000
1. Khoản cho doanh nghiệp nhà nước:
46
71
518
630
- Cho vay ngắn hạn
38
52
184
223
- Cho vay trung dài hạn
8
19
334
377
2. Cho vay ngoài quốc doanh
9
10
2
31
- Cho vay ngán hạn
5
8
2
19
- Cho vay trung dài hạn
4
2
0
12
Tổng
55
81
520
661
**************
Sơ đồ cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế.
*********
Nguồn số liệu trên được lấy từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1997-2000 của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Từ bảng số liệu 4 ta thấy cho vay doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số dư nợ qua các năm. Nếu như năm 1997 tỷ trọng nguồn này là 84% và tăng lên 88% năm 1998 tì cuối năm 1999 nguồn này đã chiếm tỷ trọng rất cao (99,6) và giảm nhẹ vào năm 2000 (95,5).
Đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước là lĩnh vực đầu tư mà ngay từ đầu tập thể ban lãnh đạo Ngân hàng đã bám sát định hướng của Tổng giám đốc, chú trọng đầu tư cho các doanh nghiệp thành lập theo nghị định 90-91/TTg nằm trong đầu tư trọng điểm của nhà nước vì:
- Các doanh nghiệp nhà nước lớn có vị trí quan trọng chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân hầu hết là những doanh nghiệp xvững mạnh làm ăn có lãi, được sự đầu tư của chính phủ. Việc đâudf tư cho những doanh nghiệp này hâu như không có rủi ro.
- Các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu về vốn tín dụng cao nên họ có thể cùng lúc quan hệ với nhiều Ngân hàng, sẵn sàng chịu sự kiểm tra giám sát của nhiều cơ quan chức năng cũng như nhiều chủ thể kinh tế khác nhau, thông tin về các doanh nghiệp này khá đầy đủ, vì vậy việc kiểm tra giám sát ít tốn kém hơn với các doanh nghiệp khác. Hơn nữa việc đầu tư có trọng điểm cho một số doanh nghiệp lớn có giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều so với việc đầu tư cho nhiều doanh nghiệp nhỏ với nhu cầu tín dụng cũng nhỏ.
Năm 1997, Ngân hàng đầu tư tín dụng chủ yếu cho các tổng Công ty lớn hư: Tổng Công ty thép, Tổng Công ty công trình giao thông 4, Tổng Công ty xây dựng Sông Đà... đông thời tập trung đâu tư cho các ngành chế biến và xuất khẩu nông sản. Năm 1998 phát triển một số khách hàng lớn như Tổng Công ty bưu chính viễn thông, Ngân hàng đã hạn chế và giảm dư nợ đối với ngành sản xuất thép, các doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả khác. Chính vì vậy làm cho dư nợ quốc doanh tăng chưa cao và dẫn đến tổng nguồn cũng trong cùng tình trạng. Bước sang năm 1999, Ngân hàng tiếp tục thẩm định một số dự án đầu tư, hạn chế những dự án không khả thi, rủi ro cao và bên cạnh đó tập trung đầu tư vào các dự án mới như dự ánđầu tư nâng cấp tổng đài điện thoại của Tổng Công ty bưu chính viễn thông (Ngân hàng cho vay 226 tỷ) dẫn đến tốc độ tăng cho vay doanh nghiệp nhà nước rất cao và tổng dự nợ tăng đến 544,3% so với năm 1998. Năm 2000 Ngân hàng tiếp tục thúc đẩy các hoạt động cho những dự án này và cũng có bước tăng trưởng mạnh.
Tỷ trọng cho vay ngắn hạn đang giảm nhanh chóng qua các năm và bên cạnh đó cho vay trung dài hạn đang dần chiếm ưu thế trong tổng dư nợ. Điều này chứng tỏ Ngân hàng dang chuyển dịch cơ cấu sang cho vay trung - dài hạn tăng cường khả năng tham gia vào các chương trình, dự án lớn hơn, dài hạn hơn. Vhi nhánh đã nắm bắt kịp thời nhu cầu đầu tư trung dài h ạn của một số doanh nghiệp lớn. Vềm ặt số lượng, một món tiền vay trung - dài hạn lớn hơn hiều so với món vay ngắn hạn nên chỉ cần tăng thêm mộtmón vay trung dài hạn thì tỷ trọng nguồn này đã tăng lên đáng kể.
Trước nhu cầu vốn cho CNH-HĐH đất nước, chi nhánh NHNN&PTNN láng Hạ đã tích cực triển khai đê có bước chuyển dịch về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỷ trọng cho vay trung-dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, cải tiến, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36912.doc