Đề tài Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới

1. Tạp chí thương mại, số 1-12 năm 1996, 1997, 1998, 1999

2. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 1-12 năm 1996, 1997, 1998, 1999

3. Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam. Số 1-12 năm 1996, 1997,1998,1999.

4. Niên giám thống kê 1996, 1997, 1008, Tổng cục thống kê.

5. Thời báo kinh tế Việt Nam

6. Luật thương mại.

7. MM Cormark – Bí quyết thành công trên thương trường, Nxb Thống kê, 1994.

8. Michael E.Porter- Chiến lược cạnh tranh, Nxb Khoa học kỹ thuật, 1996

9. John Shaw - Chiến lược thị trường, Nxb Thế giới 1995

10. Chính sách thương mại và cạnh tranh

11. Đào DuyHuân - Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, Nxb Thống kê, 1996

12. Hà Bội Đức – Mưu lược cạnh tranh thương mại, Nxb Khoa học kỹ thuật 1995

13. Philip Kotler – Markrting cơ bản, Nxb Thông kê, 1994

 

MỤC LỤC

 

 

Phần mở đầu

Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh

1 .1 Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

1 .1 .1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

1 .1 .2 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

1 .1 .3 Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh

1 .2 Những hoạt động chủ yếu của cạnh tranh trong kinh doanh

1 .2 .1 Cạnh tranh về sản phẩm

1 .2 .2 Cạnh tranh về giá cả

1 .2 .3 Cạnh tranh trong thiết lập mạng lưới kênh phân phối

1 .2 .4 Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo

1 .2 .5 Cạnh tranh bằng các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau bán hàng

1 .3 Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

1 .3 .1 Các nhân tố khách quan

1 .3 .2 các nhân tố chủ quan

Chương 2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam

2 .1 Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam

2 .1 .1 Vai trò

2 .1 .2 Đặc điểm

2 .2 Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam

2 .2 .1 Về sản lượng

2 .2 .2 Về loại hình sở hữu

2 .2 .3 Đầu tư nước ngoài

2 .2 .4 Về thiết bị

2 .2 .5 Về lương

2 .2 .6 Về năng suất

2 .2 .7 Về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu

2 .3 Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam

2 .3 .1 Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam

2 .3 .2 Những vấn đề tồn tại

Chương 3 Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới

3 .1 Một số biện pháp chung

3 .1 .1 Đầu tư phát triển

3 .1 .2 Chính sách về thị trường xuất khẩu

3 .1 .3Về nguyên liệu và phát triển sản phẩm

3 .1 .4 Về phát triển sản phẩm

3 .1 .5 Về phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ

3 .1 .6 Về tổ chức quản lý

3 .1 .7 Chính sách về lao động, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

 

doc73 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%)… Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua ngững vấn đề sau: 2 .2.1 .Về sản lượng. Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%). Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993 sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu (xem bảng 1) Bảng 1: Sản lượng của ngành dệt may 1991-1997. Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 -Số liệu về sản lượng sản phẩm. Sợi (1000 tấn) 40 44 38 44 50 57 Vải (triệu mét) 180 272 215 228 221 281 Quần áo (triệu cái) 100 104 91 121 127 200 -Giá trị tổng sản lượng (tỷ đồng- giá cố định) Dệt 2.859 3.800 5.278 6.853 9.361 10518 11317 May 585 700 1.350 3.411 3.411 4.270 5.125 Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ công nghiệp. 2 .2.2 . Về loại hình sở hữu: Đối với ngành dệt, doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 60% tổng sản lượng của ngành năm 1996, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 24% và đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% . Ngành may, đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ tương tự là 15 %, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và doanh nghiệp Nhà nước chiếm 36% . Nét đặc trưng không bình thường của tỷ trọng chia theo loại hình sở hữu đó là khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt Nam. Tại phần lớn các nước có nền kinh tế thị trường , khu vực này thường chi phối ngành công nghiệp dệt may. Đồng thời vẫn còn có sự tồn tại của bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, điều này phản ánh dấu tích một thời của nền kinh tế kế hoạch tập trung cùng với những tính chất cũ của chúng trong thời kỳ đổi mới. Như vậy, việc cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may. 2 .2.3 . Đầu tư nước ngoài : Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may. Sau 10 năm ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD. Trong đó: +Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt vải, dệt kim ; 10 dự án dệt vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm hoàn tất; 3 dự án dệt tơ tằm, lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự án dệt len, thảm. Trong các dự án trên có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự án ) đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư 1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang xây dựng cơ bản và 35 dự án đã đưa vào hoạt động . Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi. Nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đầu tư lên tới677,268 triệu USD; Malaysia – 4dự án với tổng số vốn đầu tư 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu tư 137,162 triệu USD, các dự án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam – 37 trong tổng số 40 dự án đang hoạt động, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự án với vốn đầu tư 723,429 triệu USD, và Đồng Nai- 9dự án với vốn đầu tư 735,875 triệu USD. Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào sản xuất, còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản. Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà chỉ theo hai hình thức – Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Với ưu thế đầu tư của 17 nước, trong đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu tư 56,43 triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với tổng số vốn đầu tư là 21,843 triệu USD, Nhật Bản 10 dự án với tổng số vốn đầu tư 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với số vốn đầu tư 19, 206 triệu USD, Đức 4 dự án với vốn đầu tư 29,058 triệu USD. Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2 triệu USD. . . 2 .2.4 Về thiết bị Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ PE) với chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải kỹ, 43200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí nghiệp Quốc doanh địa phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm . Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường … Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hangf như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ... Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trong bị thêm máy mọc mới với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất. Về công nghệ: Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi, trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trường: trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị Computer đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Trong lĩnh vực may, công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ ( 25-26 máy ) , sử dụng 34-38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai xót ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là hết diện tích, đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin học đã được đưa vào một số khâu thiết kế ở một số công ty lớn. 2 .2.5 Về lương Đầu những năm 1990 mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong những mức lương thấp nhất ở các nước Châu á . Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ lương ở Việt Nam đã tăng (lương trung bình là 58USD / tháng ), cao hơn Trung Quốc. Gần đây, sự giảm giá của một số đồng tiền tại Đông Nam á làm cho mức lương của một số nước trở nên thấp hơn mức lương của Việt Nam, đặc biệt năm 1998 mức lương của Inđônêxia thấp hơn một nửa mức lương của Việt Nam. Bảng 2: Trả lương theo lao động: USD/Năm Năm Việt Nam Trung Quốc Inđônêxia Malaixia Hàn Quốc Đài Loan Singapore 1992 210 - 720 2.970 8730 10380 8610 1993 340 - 730 3.100 9590 10710 8820 1994 370 420 760 3.440 10550 10960 9990 1995 450 500 930 3.810 12930 11620 11190 1996 550 540 940 3.990 11270 11460 11430 1997 650 550 980 3.840 11230 11120 10890 1998 690 570 330 2.780 7820 10260 10210 Bảng 3: Giá trị gia tăng theo lao động (giá so sánh-USD) Năm Việt Nam Trung Quốc Inđônêxia Malaixia Hàn Quốc Đài Loan Singapore 1992 520 1400 3000 6800 24100 21600 14060 1993 570 2260 3600 7260 24090 22300 13960 1994 990 1580 4600 8750 29900 20000 14840 1995 1380 1490 3900 9890 37870 20300 16230 1996 1720 1490 4000 10450 37210 22500 16270 1997 1720 1650 3700 10700 33160 22900 16190 1998 1770 1760 1100 7980 20510 21100 15560 Nguồn: Ước tính của các chuyên gia dự án 2 .2 .6. Về năng suất năng suất trong ngành dệt may Việt Nam được tính bằng giá trị gia tăng theo lao động là rất thấp trong đầu những năm 1990 so với các nước trong nghiên cứu (xem bảng 3), đặc biệt so với Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, những trong những năm gần đây, giá trị gia tăng theo lao động đã đuổi kịp Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính làm thay đổi giá trị gia tăng tính theo USD trong năm 1997 và 1998, đặc biệt đối với Inđônêxia, năng suất lao động được tính giá trị gia tăng theo lao động bằng USD đã giảm đột ngột. Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể được xem như là đại diện cạnh tranh quốc tế về chi phí. Chỉ số này của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc, Iđônêxia, Malaixia và Hàn Quốc, nó chỉ ra rằng ngành dệt của Việt Nam cạnh tranh thấp hơn so với các nước đã nói trên. 2 .2 .7 về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may vẫn tăng lên mạnh mẽ, điều này một lần nữa lại cho thấymối liên quan chặt chẽ giữa cải cách kinh tế với kết quả xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 43 triệu USD trong năm 1988 lên 1,3 tỷ USD vào năm 1996 (bảng 4). Tuy điểm khởi đầu của ngành là rất nhỏ bé nhưng những thành tích đạt được là rất ấn tượng. May mặc là ngành quan trọng hơn, trong những năm 1990 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đã vượt kim ngạch xuất khẩu ngành dệt khoảng 6 lần. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt cũng tăng, đặc biệt là từ năm 1991. Dệt may là ngành chế tác có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam do lợi nhuận lớn, trong thời kỳ đầu xuất khẩu, nó tạo nên 60% tổng giá trị xuất khẩu. Như đã dự báo, tỷ lệ này giảm dần xuống khi quá trình đa dạng hoá xuất khẩu bắt đầu có kết quả. Tuy vậy ngành dệt may vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 1996, ngành chiếm 1/5 tổng kim ngạch. Bảng 4 : Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt và may mặc của Việt Nam 1985-1986 (đơn vị : triệu USD ) Năm Dệt May Dệt may Tỷ trọng% của dệt may trong Tổng KNXK Ngành CN 1985 6,5 21,1 27,5 7,9 55,0 1986 11,1 36,0 47,1 11,9 54,4 1987 13,3 27,4 40,6 9,1 57,1 1988 15,8 27,0 42,8 7,9 53,5 1989 25,1 68,1 93,1 8,4 56,1 1990 27,8 90,7 118,5 7,9 56,4 1991 29,4 142,9 172,3 9,9 61,8 1992 39,6 357,2 396,8 15,6 62,2 1993 61,7 521,6 582,7 17,8 52,9 1994 107,8 691,6 799,4 17,8 49,3 1995 147,8 878,8 1026,6 18,2 49,3 1996 175,5 1162,7 1338,2 19,8 41,3 Ghi chú: Hàng dệt may và may mặc được phân loại là SITC 65 và 84. Hai cột cuối cùng thể hiện tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và kim ngạch xuất khẩu của ngành chế tác. Nguồn : Số liệu Thương mại của LHQ . Với những thành tựu đã đạt được cũng cần lưu ý một thực tế là từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã phải chuyển quan hệ thương mại từ khối các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây (COMECOM) sang hướng khác. Đây là điều quan trọng cần tính đến trong ngành dệt may với quy định chặt chẽ trên thị trường quốc tế hiện nay. Trong thời kỳ hậu COMECOM, vào tháng 12 năm 1992, Việt Nam đã đàm phán Hiệp định về buôn bán hàng dệt đầu tiên và đã kỹ một khuôn khổ về buôn bán hàng dệt với EU, cho phép lần đầu tiên Việt Nam được hưởng hạn ngạch MFA ( Hiệp định đa sợi ). Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được với thị trường Mỹ rộng lớn, và là một nhà xuất khẩu non trẻ, nên ngành dệt Việt Nam buộc phải tiến vào các thị trường phi hạn ngạch có tính cạnh tranh rất cao, chủ yếu là ở Đông á . Phần lớn hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng hợp đồng gia công, trong đó người mua cung cấp cho người sản xuất trong nước vải nhập khẩu, sau đó mua lại thành phẩm. Trong thương mại, hình thức này được gọi tắt là CMT (Cắt, May và Tô điểm ). Cũng có trường hợp người mua cung cấp cả máy móc và vốn. Ban đầu, loại hợp đồng này tỏ ra có lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam do còn thiếu kiến thức về Marketing trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay lợi ích của cách tiếp cận với xuất khẩu một cách thụ động này đang được đặt thành dấu hỏi. Người xuất khẩu bị mắc vào cái bẫy là tạo ra giá trị gia tăng thấp, đặc biệt trong tình hình khủng hoảng vừa qua ở Châu á, khi người mua đòi hạ giá cả trong hợp đồng xuống 20% so với 12 tháng trước. Phần lớn các nhà sản xuất thậm chí cả các nhà sản xuất lớn đều thiếu kinh nghiệm và nguồn lực để tiến hành các chương trình tiếp thị mạnh mẽ. Gần đây, một số doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân đã bắt đầu tiến hành thăm dò các thị trường mới, như Tổng công ty dệt may Việt Nam ( VINATEX) – Tổng công ty lớn của Nhà nước chiếm khoảng một nửa giá trị xuất khẩu của ngành dệt may tỏ ra chưa chuẩn bị cho thách thức này. Để có được cái nhìn về kết quả hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam là xem xét giá trị xuất khẩu ròng (Xuất – Nhập ) và tỷ số thương mại ròng NTR( tỷ lệ xuất khẩu ròng trong tổng thương mại). Việt Nam nhập khẩu ròng lớn về hàng dệt. Trong suốt hơn 10 năm qua, tỷ lệ thương mại ròng của Việt Nam luôn âm ở trị số cao. Điều này cho thấy thực tế ngành dệt đã và đang tiếp tục là ngành có mức độ nhập khẩu cao. Tỷ số NTR với ngành dệt không giảm xuống có thể được giải thích theo hướng tích cực là ít nhất nguồn hàng nhập khẩu cung cấp cho các nhà sản xuất hàng may mặc không bị gián đoạn, do đó hỗ trợ cho khả năng cạnh tranh Quốc tế. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là quá trình thay thế nhập khẩu trong ngành dệt , đặc biệt là trong những lĩnh vực có hàm lượng cao đã không được tiếp tục thực hiện. Điều này là bằng chứng cho tính không hiệu quả thâm căn cố đế trong ngành công nghiệp này. Khi đem so sánh trong ngành may mặc, trong những năm 1990 xu hướng xuất khẩu mạnh mẽ đã được duy trì và NTR gần như không thay đổi. Tất nhiên điều này một phần phản ánh cơ chế thương mại hạn chế của Quốc gia, ngoại trừ việc các nhà sản xuất hàng may mặc được miễn thuế. Rõ ràng cần phải lưu ý rằng số liệu trên gồm khối lượng hàng may mặc rất quan trọng được nhập lậu từ Trung Quốc. Kết hợp hai chuỗi số này có thể thấy Việt Nam nổi lên như một nước xuất khẩu ròng về hàng dệt may. Kết luận này – Giá trị xuất khẩu ròng về hàng may mặc chỉ cao hơn giá trị nhập khẩu ròng dệt một chút ít – là điều gây ngạc nhiên. Khi so sánh cho thấy Trung Quốc, Indonesia và Thailand đều là nước xuất khẩu ròng. Tất cả các nước trên bao gồm cả Việt Nam, giá trị xuất khẩu ròng về hàng dệt may rất thấp – gần bằng không so với các nước khác. Không phải khi nào NTR cũng cao, nhưng trong những ngành có hàm lượng lao động cao như ngành dệt may tại các nước có mức thu nhập thấp, được coi là lợi thế so sánh, mà NTR thấp, nghĩa là có sự cản trở rất nghiêm trọng về mặt cung trong nước. Thực tế thấy rằng các nước giống như Trung Quốc, Indonesia, Thailand đều có một ngành dệt với quy mô xuất khẩu lớn, do đó với một môi trường chính sách hợp lý, Việt Nam cũng có thể đi theo hướng này. Như đã nêu ở trên, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam chủ yếu là sang thị trường Châu Âu và Nhật Bản, hai thị trường này chiếm 43% và 42% tổng xuất khẩu trong năm 1996. Đây là mô hình không bình thường về xuất khẩu. Nét đặc trưng trong giai đoạn đầu về xuất khẩu hàng may mặc của Đông á là phụ thuộc chủ yếu vào thị trường Mỹ, trong khi đó thị trường Nhật Bản đóng vai trò không quan trọng. Mỹ là một thị trường rộng lớn, có thể tiêu thụ hàng hoá của hầu hết các loại thị trường (về mặt giá cả, chất lượng và mode) và khi được đảm bảo bằng hạn ngạch, đó là một thị trường tương đối mở và không phức tạp. mặc dù không có hạn ngạch, Nhật Bản được xem như một thị trường khó thâm nhập hơn về mặt tiêu chuẩn chất lượng và do các kênh tiếp thị phức tạp. Những khác biệt giữa các thị trường đang được thu hẹp dần, nhưng trên thực tế mô hình xuất khẩu của Việt Nam hoàn toàn khác so với các nước láng giềng. Các nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ, ban đầu là do chưa có quan hệ ngoại giao và gần đây là do chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc của thị trường nay ( Most Favour Nation ). Chính vì vậy hàng Việt Nam bán sang Mỹ mới chỉ chiếm 2% giá trị xuất khẩu. Ngược lại, Nhật Bản là một thị trường lớn của Việt Nam ngay từ khi bắt đầu xuất khẩu trong những năm 90s kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam rất gây ấn tượng. Tuy được hưởng chế độ hạn ngạch khá ưu đãi của EU, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu lớn và không được hưởng một lợi thế nào về hạn ngạch XNK trên thị trường Đông á . Bảng 5 : Những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam (đơn vị : triệu USD) Thị trường 1997 1998 9T/1999 Thị trường không Quota Nhật Bản 325 252 280 Đài Loan 198 200 160 Nga 42 52 53 Hàn Quốc 76 40 31 Singapore 56 26 38 Mỹ 23 24 23 Australia 17 10 14 Hồng Kông 27 13 7 Malaixia 8 4 6 Ba Lan 10 14 16 Lào 3 3 5 Thuỵ Sỹ 34 22 20 Thị trường cần Quota nước nhập khẩu Đức 165 182 177 Pháp 32 55 40 Anh 32 55 40 Hà Lan 43 43 35 Bỉ 18 25 32 Italia 27 30 22 Tây Ban Nha 14 24 20 Canada 18 22 18 Thuỵ Điển 11 11 10 Đan Mạch 6 19 7 Na Uy 6 6 4 2 .3 Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam 2 .3.1 Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam -Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành dệt may Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4.9.1998 , mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là : Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu trong nước về số lượng, chất lượng, giá cả và chủng loại, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm , thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước. Quan điểm chung về phát triển ngành dệt may Việt Nam là : +Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình CNH-HĐH đất nước. +Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu nội địa, thay thế nhập khẩu kết hợp với hướng ra xuất khẩu, hoà nhập vào sự phát triển thị trường khu vực và thế giới. +Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp may và một số doanh nghiệp dệt. +Phát triển công nghiệp dệt may gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế khác: Trồng bông, dâu tơ tằm, ngành hoá chất, cơ khí… Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu phát triển chung, các mục tiêu cụ thể đặt ra cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 như sau : Bảng 6 : Chi tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 Đơn vị Năm 2000 2005 2010 +Sản xuất Vải lụa Triệu mét 800 1330 2000 Sản phẩm dệt kim Triệu sản phẩm 70 150 210 Sản phẩm may(quy chuẩn) Triệu sản phẩm 580 780 1200 +Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 2000 3000 4000 Hàng dệt Triệu USD 370 800 1000 Hàng may Triệu USD 1630 2200 3000 Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, Bộ công nghiệp. Để đạt được những mục tiêu này , từ nay tới năm 2005, ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm từ năm 2005 đến 2010 tăng trưởng 14%/năm. Về sản phẩm, các sản phẩm của ngành dệt may dự kiến sẽ phát triển theo sản lượng các loại. Các sản phẩm phải phấn đấu theo hướng đạt yêu cầu của ngành may xuất khẩu. Trong những năm tới tập trung vào sản xuất những mặt hàng cao cấp như: mặt hàng sợi bông 100%, sơ mi, T-shirt, Polo-shirt, Jean vải, hàng len và giả len… cho thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ … và nội địa, vải kỹ thuật, vải không dệt cho các nhu cầu đặc biệt và phụ liệu cho ngành dệt may, tạo điều kiện tăng tỷ lệ xuất khẩu FOB … Để đạt được những mục tiêu trên, ngành dệt may cần 3973,3 triệu USD bao gồm : 756,9 triệu USD đầu tư chiều sâu, trong đó 709 triệu USD cho nâng cấp thiết bị dệt và 47,9 triệu USD cho thiết bị may và 2516,4 triệu USD đầu tư mới, trong đó 2306,4 triệu USD cho lĩnh vực dệt và 210, 2 triệu USD cho may công nghiệp. Trong đó, từ nay đến năm 2000 tập trung đồng bộ thiết bị và hoàn chỉnh công nghiệp, tạo một số mặt hàng mũi nhọn có chất lượng, hiệu quả và uy tín trên thị trường, từ năm 2000-2005 là thời kỳ nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, đa dạng hóa mặt hàng, phấn đấu tạo bước chuyển về chất của thiết bị và công nghệ; từ năm 2005 – 2010 là giai đoạn đầu tư tổng thể, tập trung đầu tư vào phần mềm thiết kế và công nghệ, theo tiêu chuẩn ISO 9000. Trên cơ sở hiện trạng củng cố và phát triển các trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng và vùng duyên hải Miền Trung, các cơ sở may dự kiến được phân bổ rộng rãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại những vùng gần bến cảng, sân bay, trục giao thông chính thuận lợi cho xuất khẩu. -Về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố sau : +Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ: có thể nói đây là lợi thế nổi bật của ngành dệt may Việt Nam . Tính đến năm 1997, dân số Việt Nam đã lên tới 73,355 triệu người trong đó có trên 42 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay ở Việt Nam vẫn còn ở mức khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực. Theo số liệu điều tra của JETRO (Nhật Bản) năm 1997 mức lương ở một số thành phố trong khu vực Châu á , mức lương tối thiểu ở Hà Nội là 1,73USD / ngày, Jacácta là 1,65 USD / ngày, Băng Cốc 3,87 USD /ngày, Manila 5 USD/ ngày... Lao động dồi dào và tiềm năng lương thấp là lợi thế mạnh cơ bản của Việt Nam trong giai đoạn này để tiếp nhận sự chuyển dịch của ngành dệt may của các nước phát triển và các nước NICs , thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của ngành. Tuy cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998 đã làm cho Việt Nam mất đi phần nào lợi thế về giá nhân công so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong một hai năm tới lợi thế này có thể được khôi phục cùng với sự phục hồi kinh tế của các nước Châu á. Bên cạnh đó cũng cần phải nói rằng lợi thế về giá nhân công rẻ không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh. Khi trình độ khoa học kỹ thuật nâng cao, lợi thế về lao động sẽ không còn sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nữa. +Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá: Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, khu vực trong những năm đầu thập kỷ 90 có tốc tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6-8%/năm, trong những năm qua và cũng là khu vực có dân số đông nhất thế giới. Nền kinh tế phát triển nhanh d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0067.doc
Tài liệu liên quan