Qua vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, qua trình bày và phân tích một cách chi tiết và có hệ thống tại các chương, mục luận văn đã thực hiện và làm rõ được một số điểm cơ bản sau đây:
1. Hệ thống hoá một số vấn đề về lý luận liên qua đến việc đưa lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Đó là các khái niệm cơ bản có liên quan như: nguồn nhân lực, nguồn lao động, nhân lực, lao động, sức lao động, việc làm, di dân quốc tế, nhập cư, xuất cư, lao động xuất khẩu, di chuyển lao động, thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế.
2. Làm rõ sự hình thành của hàng hoá sức lao động cũng như sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động, đồng thời cũng chỉ rõ sự cần thiết khách quan và vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
3. Trình bày được sơ đồ quy trình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đưa ra kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở một số quốc gia trong cùng khu vực và một số bài học kinh nghiệm rút ra từ các quốc gia đó.
69 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
so với tổng số lao động đưa đi.
Như vậy, qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã cho thấy, chất lượng lao động xuất khẩu của ta đã được nâng lên rõ rệt, điều này được thể hiện qua kết quả xuất khẩu tăng dần từng năm, khẳng định lao động Việt Nam đã có thể đáp ứng nhu cầu về lao động của nước tiếp nhận trong nhiều lĩnh vực.
2.2.2 Thời kỳ (1991 – 1995).
2.2.2.1 Chủ trương và mục tiêu.
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước XHCN ở Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động lớn về chính trị, kinh tế xã hội. Nhiều nước ở Châu Phi có lao động Việt Nam làm việc cũng gặp khủng hoảng kinh tế xã hội và chính trị, còn ở Trung Đông lại phải đối đầu với cuộc chiến tranh Iraq. Vì vậy mà hầu hết các nước này không còn nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam, thậm chí có tiếp nhận nhưng đứt quãng và số lượng cũng không đáng kể. Trước những biến động bất ổn đó, để có thể tiếp tục duy trì và phát triển xuất khẩu lao động, Chính phủ đã khẳng định: phải tiếp tục mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế, trong đó hợp tác về xuất khẩu lao động vẫn được coi như là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia.
Chủ trương.
Mở rộng và hướng xuất khẩu lao động sang các nước trong khu vực và trên thế giới, đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động việc làm quốc gia.
Ngày30/6/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Chỉ thị số 108/CT – HĐBT về việc mở rộng hợp tác lao động, là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Ngày 20/01/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 07/NĐ - CP đã khảng định: Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết đúng đắn
Mục tiêu.
Nhằm duy trì xuất khẩu lao động, phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyêt việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Đất nước.
2.2.2.2 Kết quả xuất khẩu lao động.
Khác với thời kỳ đầu, cơ chế xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã được đổi mới, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất xuất khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế được nhà nước cấp giấy phép thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng ký kết với bên nước ngoài. Do vậy mà khắc phục được những khó khăn và đạt được một số kết quả khích lệ bước đầu và điều này được thể hiện rõ qua bảng số (4) kết quả xuất khẩu lao động dưới đây.
Bảng số (4): Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam từ 1991 - 1995.
Đơn vị tính: (Người).
Năm
Số lượng
Lao động XK
Nữ
Tỷ lệ (%) Nữ
Lao động
có nghề
Tỷ lệ (%)
lao động có nghề
Tiền gửi về (USD)
1991
1.022
133
34,05
520
51,00
7.971.600
1992
810
79
33,33
423
52,22
14.289.600
1993
3.960
480
33,58
2.341
59,16
45.177.600
1994
9.230
980
41,60
4.679
50,69
109.200.000
1995
10.050
1.715
46,26
5.489
54.61
181.272.000
Tổng
25.072
3.387
13,51
13.452
53,65
357.910.800
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Hình (2): Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam
thời kỳ (1991 - 1995).
Qua kết quả xuất khẩu lao động thời kỳ từ 1991 – 1995 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau:
Nhìn chung, số lượng lao động xuất khẩu của ta đưa đi hàng năm là rất thấp so với các năm xuất khẩu trong thời kỳ trước, đồng thời số lượng lao động xuất khẩu cũng không cố định mà luôn có sự biến đổi theo từng năm cụ thể. Số lượng lao động xuất khẩu thấp nhất trong thời kỳ này là năm 1992, ta chỉ đưa đi được 810 lao động; trong đó có 79 người là lao động Nữ, chiếm 33,33% và 423 lao động đã có tay nghề, chiếm 52,22% trong tổng số lao động được đưa đi năm 1992. Năm 1991 được coi là năm có tiến bộ hơn, nhưng số lượng lao động đưa đi cũng chỉ dừng lại ở con số 1.022 lao động; Trong đó, 133 lao động Nữ, chiếm 34.05% và 520 người là lao động đã qua đào tạo, chiếm 51% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1991. Tình trạng trì trệ này đã được khắc phục bằng các kết quả số lượng lao động xuất khẩu tăng dần trong các năm từ 1993 – 1995. Năm 1993 ta xuất khẩu được 3.960 lao động; trong đó có 480 lao động Nữ, chiếm 33,58% và 2.341 lao động có nghề, chiếm 59,16% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1993. Năm 1994 ta xuất khẩu được 9.230 lao động; trong đó có 980 lao động Nữ, chiếm 41,60% và 5.489 lao động có tay nghề, chiếm 50,69% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1994. 10.050 là con số lao động xuất khẩu cao nhất mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được trong cả thời kỳ; trong đó có 1.715 người là lao động Nữ, chiếm 46,26% và 5.489 lao động đã có nghề, chiếm 54,61% trong tổng số lao động đã được đưa đi trong năm 1995.
Số liệu cũng cho thấy: tỷ lệ (%) lao động Nữ còn rất thấp so với tổng số 25.072 lao động được đưa đi trong cả thời kỳ, khoảng 3.387 người, chiếm 13,51%. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động có tay nghề lại tăng lên đáng kể, khoảng 13.452 người, chiếm 53,65%. Như vậy, tỷ lệ lao động có tay nghề trong thời kỳ này cao hơn hẳn so với thời kỳ đầu 1980 – 1990 là 11,59% còn tỷ lệ (%) lao động Nữ lại giảm xuống, khoảng 24,75% so với thời kỳ đầu.
Về phân bố của lao động Việt Nam tại thị trường các nước trên, được thể hiện qua bảng số(5) dưới đây:
Bảng số (5): Phân bố lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1991 - 1995.
Đơn vị tính: (Người).
Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Tổng số
Lao động tiếp nhận
Trong đó
Nữ
Tỷ lệ (%) Nữ
Lao động
có nghề
Tỷ lệ (%)
lao động có nghề
Hàn Quốc
11.512
2.603
22,61
5872
51,00
Libya
6.183
0
0
3287
53,16
Lào
2.966
166
5,59
2370
79,90
Nhật Bản
1.499
145
9,67
97
6,47
LB Nga
750
0
0
525
70,00
CH Séc
433
212
48,96
345
79,67
Ăngôla
157
57
36,30
157
100
Singapore
163
23
14,11
125
76,68
Li Băng
123
116
94,30
79
64,22
Đài Loan
124
0
0
75
60,48
Malaysia
70
58
82,85
43
61,42
Ba Lan
41
7
17,07
21
51,21
Các nước khác
1.051
0
0
456
43,38
Tổng
25.072
3.387
13,51
13452
53,65
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Có thể nói, mật độ phân bố của lao động Việt Nam ta trên các thị trường là khá đa dạng. Trong đó bao gồm cả những nước trước kia vốn dĩ là thị trường truyền thống của ta và lao động Việt Nam bước đầu đã tiếp cận được với các thị trường mới trong khu vực cũng như trên thế giới.
Số liệu cũng cho thấy lao động của ta chủ yếu tập trung ở một số các thị trường mới(1) Từ 1000 lao động trở lên.
như: Hàn Quốc 11.512 lao động, Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 và Nhật Bản là 1.499 lao động. Trong các thị trường còn lại, riêng hai thị trường Đài Loan và Malaysia tuy số lượng lao động tiếp nhận chưa nhiều song cũng cho thấy đây là hai thị trường rất có triển vọng đối với lao động Việt Nam.
Cũng giống như thời kỳ đầu, độ tuổi lao động xuất khẩu Việt Nam đã đưa đi trong thời kỳ này, vẫn chủ yếu nằm trong độ tuổi khoảng từ 18 – 40.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên, được phản ánh trong bảng số (6) dưới đây:
Biểu bảng (6): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia từ
1991 - 1995 theo các nhóm ngành chính.
Đơn vị tính: (Người).
Ngành nghề
Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Tổng LĐ
Lào
Hàn
Quốc
Li
bya
Nhật
Bản
LB
Nga
CH
Séc
Singapore
Ăn
gôla
Đài
Loan
Li
Băng
Malay
sia
Ba
Lan
Các
NK
Công nghiệp
12831
450
9678
0
1225
327
256
38
0
75
20
43
41
678
CN nặng
1991
150
572
0
850
125
76
15
0
20
7
13
17
146
CN nhẹ
10840
300
9106
0
375
202
180
23
0
55
13
30
24
532
Xây dựng
8918
1125
1200
6183
150
100
120
0
0
25
0
15
0
0
Dịch vụ
197
0
0
0
0
45
0
85
0
0
35
0
0
32
Nông nghiệp
170
0
0
0
0
0
0
0
125
0
45
0
0
0
Lâm nghiệp
1275
1275
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Các ngành khác
1681
116
634
0
124
278
57
40
32
24
23
12
0
341
Tổng
25072
2966
11512
6183
1499
750
433
163
157
124
123
70
41
1051
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Qua số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia thời kỳ 1991 – 1995 trên đây cho thấy:
Nhìn chung, phần lớn cơ cấu ngành nghề chưa đa dạng hơn so với thời kỳ đầu từ 1980 – 1990. Lao động Việt Nam vẫn chủ yếu tập chung làm việc trong các lĩnh vực: Công nghiệp(1) Bao gồm cả Công nghiệp nặng và Công nghiệp nhẹ.
) 1.2831 lao động, Xây dựng 8.918 lao động, Lâm nghiệp 1.275 lao động. Lao động làm việc trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, Dịch vụ và các ngành khác là không đáng kể. Trong đó số lao động có nghề chiếm tỷ lệ khoảng 53,65%, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Xây dựng và Công nghiệp. Số còn lại là lao động không nghề, chiếm 46,35% chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực(1) Bao gồm cả các lĩnh vực như Công nghiệp, Xây dựng, Lâm nghiệp, Dịch vụ...
, phần công việc ít đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Các quốc gia có số lượng lao động tập trung lớn là: Hàn Quốc 11.512 lao động, tiếp đến là Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 lao động
2.2.3 Thời kỳ 1996 đến nay.
2.2.3.1 Chủ trương và mục tiêu.
Bắt tay vào thời kỳ mới có tính quan trọng, vai trò của xuất khẩu lao động lại càng được coi trọng và tiếp tục được khảng định trong các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị định, Nghị quyết và Chỉ thị của Đảng và Nhà nước. Thể hiện chủ trương, mục tiêu chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của xuất khẩu lao động.
Chủ trương.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Nghị quyết TW 4 khoá VIII cũng chỉ rõ; mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế trong nước tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật, dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, đồng thời kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động trái với những quy định của nhà nước.
Ngày 20/9/1999 Chính phủ ra Nghị định số 152/NĐ - CP(2) Xem phụ lục số (3).
về việc khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức Việt Nam trong nước và ngoài nước thông qua các hoạt động của mình, tham gia tìm kiếm, khai thác việc làm ở ngoài nước để mở rộng xuất khẩu lao động.
Ngày 22/9/1998 Bộ Chính trị cũng đã ban hành chỉ thị số 41/CT – TW(3) Xem phụ lục số (4).
về xuất khẩu lao động. Chỉ thị đã khảng định: xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế – xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.
Tại hội nghị về xuất khẩu lao động tháng 6/2000 được tổ chức tại Hà Nội, do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải chủ trì, một lần nữa quan điểm của Đảng và Nhà nước lại tiếp tục được khảng định và nhấn mạnh: xuất khẩu lao động đối với chúng ta là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Do đó, phải coi xuất khẩu lao động là một vấn đề quan trọng lâu dài của đất nước.
Như vậy, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xuất khẩu lao động là hoàn toàn rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước và cũng là phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm hướng tới mục tiêu kinh tế là phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Mục tiêu.
Đưa xuất khẩu lao động trở thành một lĩnh vực kinh tế xã hội, góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và đặc biệt là xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.
2.2.3.2 Kết quả xuất khẩu lao động.
Thực hiện cơ chế đổi mới xuất khẩu lao động trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam đã đạt được một số thành tích đáng kể. Lao động Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường như Đông Bắc á, Đông Nam á, Trung Đông, Châu Phi, một số đảo thuộc Nam Thái Bình Dương và một số khu vực trên biển. Số lượng lao động đưa đi hàng năm tăng đều, từ 1996 đến tháng 10 năm 2003 xuất khẩu lao động Việt Nam đã đưa đi được tổng cộng 245.034 lao động, trong đó có 52.583 lao động Nữ, chiếm 21,46% trong tổng số lao động xuất khẩu và 129.184 lao động có tay nghề, đạt tỷ lệ 52,72% trong tổng số 245.034 lao động xuất khẩu trong cả thời kỳ.
Tiến độ xuất khẩu được thể hiện cụ thể qua kết quả xuất khẩu lao động hàng năm trong bảng số (7) dưới đây.
Bảng số (7): Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam từ 1996 đến nay.
Đơn vị tính: (Người).
Năm
Số lượng
Lao động XK
Nữ
Tỷ lệ (%)
Nữ
Lao động
có nghề
Tỷ lệ (%)
lao động có nghề
Tiền gửi về (USD)
1996
12.660
2.088
16,49
7.251
57,27
249.139.800
1997
18.470
2.081
11,27
9.457
51,20
321.205.000
1998
12.240
1.447
11,82
6.178
50,47
341.874.000
1999
21.810
2.302
10,55
11.457
52,53
404.578.200
2000
31.500
4.165
13,22
16.412
52,10
505.950.400
2001
36.168
7.704
21,30
18.426
50,95
689.660.400
2002
46.122
10.556
22,89
26.875
58,27
1.400.000.000
2003
66.064
22.240
33,66
33.128
50,15
(*) Con số dự kiến đạt được trong năm 2003.
1.500.000.000
Tổng
245.034
52.583
21,46
129.184
52,72
5.412.407.800
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Hình (3): Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam
Thời kỳ (1996 - Nay).
Qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ từ 1996 – 2003 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau:
Nhìn chung, kết quả xuất khẩu lao động của ta trong thời kỳ này là tốt hơn so với các thời kỳ trước. Số lượng lao động xuất khẩu giữa các năm không cố định, năm sau tăng cao hơn năm trước trung bình khoảng 27,54%. Mặc dù vậy, song xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này không phải là không gặp những khó khăn riêng do chịu tác động từ các yếu tố khách quan, dẫn tới làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xuất khẩu lao động của ta. Năm phải chịu tác động mạnh và có số lượng lao động xuất khẩu thấp nhất trong cả thời kỳ phải nói đến là năm 1998, chúng ta chỉ xuất khẩu được 12.240 lao động; trong đó có 1.447 người là lao động Nữ, chiếm 11,82% và 6.178 lao động có nghề, chiếm 50,47% trong tổng số lao động đưa đi năm 1998. Bên cạnh đó các năm: 1996, 1997 số lượng lao động xuất khẩu có cao hơn nhưng cũng không đáng kể.
Từ năm 1999 trở đi, xuất khẩu lao động Việt Nam đã có dấu hiệu cho thấy dần ổn định trở lại và có xu hướng tăng trưởng mạnh và ổn định nhờ số lượng lao động đưa đi hàng năm không ngừng được nâng cao. Điều này thể hiện rất rõ nét trong hình (3) trên đây. Năm có số lượng lao động xuất khẩu cao nhất trong cả thời kỳ phải nói đến là năm 2002 với tổng số lao động xuất khẩu đạt được là 46.422 lao động; trong đó có 10.556 lao động Nữ, chiếm 22,89% và 26.875 lao động có nghề, chiếm 58,27% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 2002. Đặc biệt nhất là năm 2003, tính đến hết ngày 31 tháng 10 ta đã xuất khẩu được 66.064 lao động, cao nhất trong cả thời kỳ. Con số này sẽ còn bị thay đổi lớn trong vòng hai tháng cuối năm. Trong số 66.064 lao động đưa đi, có 22.240 lao động Nữ, chiếm 33,66% và 33.128 lao động đã qua đào tạo nghề, chiếm 50,15% trong tổng số lao động được đưa đi trong 10 tháng năm 2003.
Số liệu cũng cho thấy, số lượng lao động Nữ và lao động có tay nghề được đưa đi ngày một nhiều. Tuy nhiên, tỷ trọng giữa lao động Nữ so với tổng số lao động xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp, chiếm 21,46%, trong khi đó mục tiêu đặt ra là phải đưa tỷ trọng Nữ lao động trong lao động xuất khẩu lên mức từ 40 – 45%. Tỷ trọng giữa lao động có nghề và lao động không nghề vẫn được duy trì trong khoảng từ 50 – 55%. So với thời kỳ đầu (1980 – 1990) thì tỷ trọng này là khá cao và có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe thực tế của chủ sử dụng lao động và xu hướng của thị trường, đòi hỏi xuất khẩu lao động Việt Nam cần phải có những hướng phát triển cả về lượng và chất.
Bảng số (8): Phân bố lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1996 - Nay.
Đơn vị tính: (Người).
Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Tổng số
Lao động tiếp nhận
Trong đó
Nữ
Tỷ lệ (%) Nữ
Lao động
có nghề
Tỷ lệ (%)
lao động có nghề
Lào
62.321
690
1,11
41.568
66,69
Malaysia
56.512
11.336
20,06
35.622
63,03
Hàn Quốc
33.437
9.435
28,22
20.256
60,57
Đài Loan
52.766
24.101
45,68
11.871
22,49
Nhật Bản
16.176
5.444
33,65
12.567
77,68
LB Nga
6.943
17
0,245
1.762
25,37
Libya
6.630
0
0
4.510
68,02
Singapore
569
0
0
470
82,60
CH Séc
293
48
16,38
128
43,68
Ba Lan
134
30
22,39
45
33,58
Ăngôla
57
18
31,58
57
100
Các nước khác
9.196
1.464
15,92
328
3,56
Tổng
245.034
52.583
21,46
129.184
52.72
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Như vậy, qua số liệu phân bố của lao động Việt Nam tại các nước trong thời kỳ này trên đây cho thấy:
Các nước trước kia vốn là các thị trường truyền thống của lao động Việt Nam, thì nay đang có nguy cơ bị thu hẹp dần, do nhu cầu về lao động giảm, thậm chí một số nước trong những năm gần đây, đã ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam. Các nước khác vẫn còn tiếp nhận lao động Việt Nam nhưng với số lượng không đáng kể và mức độ tiếp nhận cũng không phải là thường xuyên.
Số liệu cũng cho thấy, phần lớn lao động của ta chủ yếu tập trung tại các nước trong khu vực như: Lào 62.321 lao động; trong đó 680 người là lao động Nữ. Malaysia 56.512 lao động; trong đó 11.336 người là lao động Nữ. Đài Loan 52.766 lao động; trong đó 24.101 người là lao động Nữ. Hàn Quốc 33.437 lao động trong đó 9.435 người là lao động Nữ. Nhật Bản 16.176 lao động; trong đó 5.444 người là lao động Nữ. có thể coi đây là những thị trường chính, thu hút và tiếp nhận chủ yếu nguồn lao động xuất khẩu của Việt Nam hiện tại cũng như trong những năm tới.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên, được thể hiện trong bảng số (9) dưới đây:
Bảng số (9): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia từ
1991 - Nay theo các nhóm ngành chính.
Đơn vị tính: (Người).
Ngành nghề
Tổng LĐ
Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Lào
Malay
Sia
Hàn
Quốc
Đài
Loan
Nhật
Bản
LB
Nga
Libya
Singa
Pore
CH Séc
Ba
lan
Ăngô
la
Các
NK
Công nghiệp
115.442
6358
36527
21962
33563
12427
1200
0
0
112
75
0
3218
Công nghiệp nặng
48.291
4312
12467
10057
12456
6428
685
0
0
68
56
0
1762
Công nghiệp nhẹ
67.169
2064
24060
11905
21107
5999
515
0
0
44
19
0
1456
Xây dựng
60.250
25871
11028
2145
8573
3542
0
6630
0
50
0
0
2411
Dịch vụ
6.320
755
0
320
0
0
3258
0
365
0
0
0
1622
Nông nghiệp
90
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
45
45
Lâm nghiệp
17.720
17465
255
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Các ngành khác
45.212
11872
8702
9010
10630
207
2485
0
204
131
59
12
1900
Tổng
245.034
62321
56512
33437
52766
16176
6943
6630
569
293
134
57
9196
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Qua bảng số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên đây thời kỳ 1996 – Nay cho thấy:
Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu tập chung vào các lĩnh vực chính đó là Công nghiệp và Xây dựng. Các ngành khác như: Dịch vụ, Lâm nghiệp, Nông nghiệp có số lượng lao động làm việc không đáng kể. Ngành có số lượng lao động tập trung ít nhất là lĩnh vực Nông nghiệp với số lượng không đáng kể, khoảng 90 lao động, bằng 0,036%, cho thấy đây là ngành kém hấp dẫn và nhu cầu tiếp nhận không nhiều. Lĩnh vực có số lượng lao động tập trung cao nhất phải nói đến là Công nghiệp, khoảng 115.442 lao động, chiếm 47,11% trong tổng số lao động các ngành nghề. Ngoài ra Xây dựng là ngành có số lượng lao động làm việc đứng thứ hai, khoảng 60.250 lao động, chiếm 24,58%. Bên cạnh đó, các ngành khác chiếm một lượng lao động cũng khá đông, khoảng 45.212 lao động, chiếm 18,45%. Số liệu cũng cho thấy, các ngành Công nghiệp, xây dựng có số lượng lao động tập trung đông, chủ yếu ở các nước: Lào, Malaysia, Hàn quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Libya. Các nước còn lại là không đáng kể.
2.3 Thành công và hạn chế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2.3.1 Những thành công.
Thực tiễn cho thấy công tác xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời gian qua là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội, đóng một vai trò quan trọng, thiết thực trong chương trình quốc gia về giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Qua đó được thể hiện và ghi nhận trong các điểm sau:
2.3.1.1 Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm.
Thực tế cho thấy, thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hàng năm Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trung bình khoảng 30.630 người/năm(1) Số liệu được tính từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2003.
. Trong đó, năm 1996 đưa đi được 12.660 người, năm 97 là 18.470 người bằng 145,89% so với năm 96, năm 98 là 12.240 người bằng 66,27% so với năm 97, năm 99 là 21.810 người bằng 178,18% so với năm98, năm 2000 là 31.500 người bằng 144,4% so với năm 99, năm 2001 là 37.000 người bằng 117,4% so với năm 2000, năm 2002 là 46.122 người bằng 123,65% so với năm 2001, năm 2003 dự kiến đưa đi 50.000 người bằng 108,4% so với năm 2002. Tuy nhiên tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2003 số lao động ta đưa đi đã vượt quá con số lao động dự kiến xuất khẩu trong năm, bằng 143,23% so với năm 2002, đưa tổng số lao động Việt nam đang làm việc ở nước ngoài lên khoảng 40 vạn tại 40 nước và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề thuộc các lĩnh vực: Xây dựng, Cơ khí, Điện tử, Dệt may, Chế biến hải sản, Vận tải biển, Đánh bắt hải sản, Dịch vụ, Chuyên gia y tế, Giáo dục, Nông nghiệp
Song song với việc giải quyết việc làm cho chính người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chính xuất khẩu lao động cũng là tác nhân tích cực kích cầu trong sản xuất và tiêu dùng trong nước. Với hơn 4,6 vạn lao động dưa đi trong năm 2002, đã kéo theo giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động trong nước do mua sắm tư trang: đồ may mặc, giầy dép, va ly, túi xách tay chỉ riêng chi phí cho tư trang trước khi xuất cảnh, xuất khẩu lao động đã đóng góp cho sản xuất trong nước khoảng hơn 25 tỷ đồng(2) Báo lao động xuân 2003.
, chưa kể đến chi phí cho đi lại, vân chuyển bằng hàng không. Bên cạnh đó, sau khi hết hạn trở về, một số bộ phận người lao động dựa vào vốn tự kiếm được và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình tự hành nghề, lập xưởng sản xuất, lập trang trại, mua sắm tàu thuyền đánh bắt hải sản tự quản lý, sản xuất, kinh doanh tạo thêm nhiều việc làm cho người khác.
Như vậy bằng xuất khẩu lao động, đã góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ người lao động trong nước, làm giảm được sức ép thất nghiệp, ở nông thôn cũng như thành thị.
2.3.1.2 Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập cho người lao động và ngoại tệ cho đất nước.
Người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thường có thu nhập cao, khoảng từ 6 - 10 lần so với thu nhập từ việc làm trong nước.
Bình quân thu nhập cầm tay(1) Kể cả tiên lương làm thêm giờ.
của người đi xuất khẩu lao động khoảng 400USD/tháng. Ước tính từ năm 1996 đến nay, số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế mới đã chuyển về nước khoảng 220 triệu USD/năm. Ngoài ra, còn có khoảng 20 vạn lao động đang làm việc ở nước ngoài gồm những nước đi lao động theo hiệp định cũ (1980 - 1990), những người sang Liên Xô cũ và Đông Âu làm việc theo nhiều hình thức khác nhau đã chuyển về nước khoảng 1 tỷ USD/năm.
Đời sống của người đi xuất khẩu lao động được cải thiện và cũng là giải pháp nhanh nhất để xoá đói giảm nghèo.
2.3.1.3 Xuất khẩu lao động góp phần tiết kiệm chi phí đào tạo, nâng cao tay nghề và phát triển nguồn nhân lực.
Trong điều kiện hiện tại, thời gian đổi mới nền kinh tế của Việt Nam chưa lâu, điều kiện kinh tế nước nhà còn hạn hẹp, hàng năm nhà nước phải bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng kinh phí cho đào tạo nghề nghiệp và nâng cao tay nghề cho người lao động. Hàng loạt các trung tâm, các trường trung học dạy nghề được mở ra xong vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế nên ta chưa có điều kiện để đào tạo cho hầu hết mọi đối tượng lao động trong nước. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu lao động ngoài mục đích giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người lao động còn có một số nhiệm vụ quan trọng khác là: qua lao động ở nước ngoài, người lao động tiếp thu kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến, nâng cao, trình độ tay nghề, nghiệp vụ của mình cũng như rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, kể cả trình độ ngoại ngữ, góp phần cải thiện và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ Côn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0032.doc