a. Củng cố các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu lao động. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiên trực tiếp xuất khẩu lao động dưới các hình thức nhận thầu công trình, đưa lao động đi làm việc trong các xí nghiệp của nước ngoài Khuyến khích các tổ chức và cá nhân đang đi làm việc ở nước ngoài tìm việc và thu nhận thêm lao động từ trong nước.
b. Thí điểm một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đủ điều kiện, trước hết là các doanh nghiệp thuộc đoàn thể Trung ương như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam được hoạt động xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của các đoàn thể và Nhà nước.
c. Xuất khẩu lao động và chuyên gia theo hướng ưu tiên như sau:
- Đi tập thể, do các doanh nghiệp tổ chức dưới các hình thức nhận thầu xây dựng công trình công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, dân dụng ở nước ngoài.
- Chuyên gia trên một số lĩnh vực mà ta có điều kiện như y tế, giáo dục, tin học
- Công nhân có tay nghề làm việc theo hợp đồng ký giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
90 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57
12456
6428
685
0
0
68
56
0
1762
Công nghiệp nhẹ
67.169
2064
24060
11905
21107
5999
515
0
0
44
19
0
1456
Xây dựng
60.250
25871
11028
2145
8573
3542
0
6630
0
50
0
0
2411
Dịch vụ
6.320
755
0
320
0
0
3258
0
365
0
0
0
1622
Nông nghiệp
90
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
45
45
Lâm nghiệp
17.720
17465
255
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Các ngành khác
45.212
11872
8702
9010
10630
207
2485
0
204
131
59
12
1900
Tổng
245.034
62321
56512
33437
52766
16176
6943
6630
569
293
134
57
9196
Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Qua bảng số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên đây thời kỳ 1996 – Nay cho thấy:
Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu tập chung vào các lĩnh vực chính đó là Công nghiệp và Xây dựng. Các ngành khác như: Dịch vụ, Lâm nghiệp, Nông nghiệp có số lượng lao động làm việc không đáng kể. Ngành có số lượng lao động tập trung ít nhất là lĩnh vực Nông nghiệp với số lượng không đáng kể, khoảng 90 lao động, bằng 0,036%, cho thấy đây là ngành kém hấp dẫn và nhu cầu tiếp nhận không nhiều. Lĩnh vực có số lượng lao động tập trung cao nhất phải nói đến là Công nghiệp, khoảng 115.442 lao động, chiếm 47,11% trong tổng số lao động các ngành nghề. Ngoài ra Xây dựng là ngành có số lượng lao động làm việc đứng thứ hai, khoảng 60.250 lao động, chiếm 24,58%. Bên cạnh đó, các ngành khác chiếm một lượng lao động cũng khá đông, khoảng 45.212 lao động, chiếm 18,45%. Số liệu cũng cho thấy, các ngành Công nghiệp, xây dựng có số lượng lao động tập trung đông, chủ yếu ở các nước: Lào, Malaysia, Hàn quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Libya. Các nước còn lại là không đáng kể.
2.3 Thành công và hạn chế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2.3.1 Những thành công.
Thực tiễn cho thấy công tác xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời gian qua là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội, đóng một vai trò quan trọng, thiết thực trong chương trình quốc gia về giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Qua đó được thể hiện và ghi nhận trong các điểm sau:
2.3.1.1 Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm.
Thực tế cho thấy, thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hàng năm Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trung bình khoảng 30.630 người/năm(1) Số liệu được tính từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2003.
. Trong đó, năm 1996 đưa đi được 12.660 người, năm 97 là 18.470 người bằng 145,89% so với năm 96, năm 98 là 12.240 người bằng 66,27% so với năm 97, năm 99 là 21.810 người bằng 178,18% so với năm98, năm 2000 là 31.500 người bằng 144,4% so với năm 99, năm 2001 là 37.000 người bằng 117,4% so với năm 2000, năm 2002 là 46.122 người bằng 123,65% so với năm 2001, năm 2003 dự kiến đưa đi 50.000 người bằng 108,4% so với năm 2002. Tuy nhiên tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2003 số lao động ta đưa đi đã vượt quá con số lao động dự kiến xuất khẩu trong năm, bằng 143,23% so với năm 2002, đưa tổng số lao động Việt nam đang làm việc ở nước ngoài lên khoảng 40 vạn tại 40 nước và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề thuộc các lĩnh vực: Xây dựng, Cơ khí, Điện tử, Dệt may, Chế biến hải sản, Vận tải biển, Đánh bắt hải sản, Dịch vụ, Chuyên gia y tế, Giáo dục, Nông nghiệp
Song song với việc giải quyết việc làm cho chính người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chính xuất khẩu lao động cũng là tác nhân tích cực kích cầu trong sản xuất và tiêu dùng trong nước. Với hơn 4,6 vạn lao động dưa đi trong năm 2002, đã kéo theo giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động trong nước do mua sắm tư trang: đồ may mặc, giầy dép, va ly, túi xách tay chỉ riêng chi phí cho tư trang trước khi xuất cảnh, xuất khẩu lao động đã đóng góp cho sản xuất trong nước khoảng hơn 25 tỷ đồng(2) Báo lao động xuân 2003.
, chưa kể đến chi phí cho đi lại, vân chuyển bằng hàng không. Bên cạnh đó, sau khi hết hạn trở về, một số bộ phận người lao động dựa vào vốn tự kiếm được và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình tự hành nghề, lập xưởng sản xuất, lập trang trại, mua sắm tàu thuyền đánh bắt hải sản tự quản lý, sản xuất, kinh doanh tạo thêm nhiều việc làm cho người khác.
Như vậy bằng xuất khẩu lao động, đã góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ người lao động trong nước, làm giảm được sức ép thất nghiệp, ở nông thôn cũng như thành thị.
2.3.1.2 Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập cho người lao động và ngoại tệ cho đất nước.
Người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thường có thu nhập cao, khoảng từ 6 - 10 lần so với thu nhập từ việc làm trong nước.
Bình quân thu nhập cầm tay(1) Kể cả tiên lương làm thêm giờ.
của người đi xuất khẩu lao động khoảng 400USD/tháng. Ước tính từ năm 1996 đến nay, số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế mới đã chuyển về nước khoảng 220 triệu USD/năm. Ngoài ra, còn có khoảng 20 vạn lao động đang làm việc ở nước ngoài gồm những nước đi lao động theo hiệp định cũ (1980 - 1990), những người sang Liên Xô cũ và Đông Âu làm việc theo nhiều hình thức khác nhau đã chuyển về nước khoảng 1 tỷ USD/năm.
Đời sống của người đi xuất khẩu lao động được cải thiện và cũng là giải pháp nhanh nhất để xoá đói giảm nghèo.
2.3.1.3 Xuất khẩu lao động góp phần tiết kiệm chi phí đào tạo, nâng cao tay nghề và phát triển nguồn nhân lực.
Trong điều kiện hiện tại, thời gian đổi mới nền kinh tế của Việt Nam chưa lâu, điều kiện kinh tế nước nhà còn hạn hẹp, hàng năm nhà nước phải bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng kinh phí cho đào tạo nghề nghiệp và nâng cao tay nghề cho người lao động. Hàng loạt các trung tâm, các trường trung học dạy nghề được mở ra xong vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế nên ta chưa có điều kiện để đào tạo cho hầu hết mọi đối tượng lao động trong nước. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu lao động ngoài mục đích giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người lao động còn có một số nhiệm vụ quan trọng khác là: qua lao động ở nước ngoài, người lao động tiếp thu kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến, nâng cao, trình độ tay nghề, nghiệp vụ của mình cũng như rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, kể cả trình độ ngoại ngữ, góp phần cải thiện và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Sau khi về nước chính họ sẽ trở thành một nguồn lao động có kỹ năng, trình độ nghề nghiệp cao bổ sung vào lực lượng lao động có trình độ cho các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trong nước
2.3.1.4 Xuất khẩu lao động góp phần củng cố các mối quan hệ và hội nhập Quốc tế.
Ngoài những giá trị thiết thực mang lại cho đất nước, xuất khẩu lao động còn góp phần tích cực, quan trọng trong việc củng cố các mối quan hệ tại những nơi lao động ta đến làm việc. Thông qua người lao động, công nhân các nước cùng làm việc và người dân bản xứ có thể tìm hiểu về đất nước, con người cũng như truyền thống văn hoá Việt Nam. Từ đó làm cho các mối quan hệ ngày càng trở nên gắn bó mật thiết hơn. Ngoài các mối quan hệ của người lao động ra thì các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa nhà nước với nhà nước cũng không ngừng được cải thiện. Do vậy xuất khẩu lao động một mặt đem lại những lợi ích kinh tế, xã hội to lớn, nhưng mặt khác lại góp phần củng cố các mối quan hệ hợp tác cũng như hội nhập quốc tế.
2.3.2 Những tồn tại và hạn chế trong quá trình thực hiện xuất khẩu lao động trong những thời kỳ qua.
2.3.2.1 Những hạn chế về chính sách xuất khẩu lao động.
Ngoài những kết quả tích cực đã đạt được trong thời gian qua, công tác xuất khẩu lao động Việt Nam vẫn còn chưa tương xứng với yêu cầu và tiềm năng vốn có của ta do những nguyên nhân đã và đang tồn tại sau:
Về quản lý Nhà nước.
Hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu một số chính sách, cơ chế cụ thể để điều chỉnh và quản lý chặt chẽ xuất khẩu lao động như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, nhất là tiếp cận các thị trường mới, chính sách tín dụng cho người lao động khi tham gia xuất khẩu, chính sách miễn giảm thuế nên dẫn tới việc kém thu hút mọi tầng lớp tham gia xuất khẩu.
Việc tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan chức năng. Các Bộ ngành, Địa phương chưa quan tâm quản lý, chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực thuộc. Vẫn còn tồn tại tình trạng cạnh tranh không lành mạnh: Tranh giành đối tác bằng cách phá giá giữa các doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động và lợi ích quốc gia.
Chưa phát hiện và xử lý kịp thời tình trạng dẫn dắt, “cò mồi” tiêu cực, lừa đảo diễn ra trên nhiều địa bàn gây xôn xao dư luận.
Chưa đầu tư thoả đáng cho khâu phát triển thị trường: Nhà nước, các Bộ, Ngành, Địa phương chưa thực sự quan tâm, đầu tư tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia như đầu tư xuất khẩu hàng hoá, mà đáng lẽ nó phải được quan tâm và đầu tư hơn nữa.
Khả năng tiếp cận với nước ngoài của ta đã còn yếu, thị phần của ta còn rất nhỏ bé so với thị phần của các nước có lao động xuất khẩu khác.
Thủ tục hành chính còn rườm rà: Việc thực thi công vụ của một số cán bộ ở địa phương, chưa thực sự tận tâm, thậm chí có nơi còn gây khó dễ, tốn kém, tiêu cực cho người lao động nhất là ở khâu xác nhận thủ tục giấy tờ lý lịch tư pháp và thủ tục xin cấp hộ chiếu.
ở nước ngoài còn thiếu một hệ thống tùy viên lao động tại những địa bàn có nhiều lao động làm việc hoặc có khả năng tiếp nhận lao động.
Công tác thông tin tuyên truyền về xuất khẩu lao động còn hạn chế dẫn đến tình trạng phần đông người lao động bị thiếu thông tin nên khả năng người lao động tự liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động là khó khăn, dẫn tới tình trạng là doanh nghiệp cần tuyển người thì không có trong khi đó người cần đi xuất khẩu lao động thì không biết đâu có nhu cầu để mà đến tuyển nên không ít trường hợp đáng tiếc người lao động bị kẻ xấu lừa đảo đã xảy ra gây tâm lý hoang mang cho người lao động và xã hội.
Về các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn thụ động, trông chờ vào đối tác, thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm về quản lý lao động, thị trường. Chưa chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về chế độ tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng, công khai tài chính, quản lý và bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Việc tuyển chọn lao động tại một số doanh nghiệp còn quá vòng vèo, phải qua nhiều khâu trung gian, thậm chí cả “cò mồi” làm cho người lao động phải chịu nhiều chi phí trái với quy định.
Về chất lượng nguồn lao động và công tác đào tạo.
Phần lớn chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta còn thấp so với yêu cầu của chủ sử dụng lao động, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại. Một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu tuyển dụng nhưng ta vẫn chưa có đủ để đáp ứng. Một bộ phận người lao động của ta còn chưa ý thức rõ được mối quan hệ chủ – thợ, ý thức kỷ luật lao động và chấp hành hợp đồng đã ký kết kém, nhiều trường hợp đã tự bỏ hợp đồng lao động trốn ra ngoài sống và lao động bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động và thị trường lao động của Việt Nam.
Về trách nhiệm của các Bộ, Ngành và Địa phương.
Thực tế đã chứng minh, trong một thời gian dài, các Bộ, Ngành và Địa phương chưa liên kết một cách chặt chẽ trong việc phối kết hợp cùng với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý, kiểm tra, thanh tra cũng như chấn chỉnh lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực thộc trong việc chấp hành pháp luật, quy định về xuất khẩu lao động và tổ chức thực hiện hợp đồng để uốn nắn hoặc xử lý kịp thời các vi phạm, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động và trật tự an ninh xã hội.
2.3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế.
Thủ tục hành chính còn rườm rà.
Chưa có sự phối kết hợp linh hoạt chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành và Địa phương.
Nhận thức của nhà quản lý còn giản đơn, chủ quan, chậm tổng kết rút kinh nghiệm để nhanh chóng thích ứng với tình hình mới.
Chưa thực sự chú trọng tới hoạt động Marketing phát triển và mở rộng thị trường ở nước ngoài cũng như tạo nguồn lao động trong nước phục vụ xuất khẩu.
Chương 3
một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam
trong những năm tới
3.1 Dự báo thị trường, cơ hội, thách thức và khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.1 Về tình hình thị trường lao động Quốc tế.
Trong những năm gần đây, vì những lý do khách quan khác nhau, thị trường sức lao động thế giới vẫn tồn tại và sẽ còn tiếp tục tồn tại trong một thời gian dài. Trước những biến động phức tạp do sự vận động, đổi mới không ngừng của cơ cấu nền kinh tế thế giới dẫn đến việc di chuyển vốn đầu tư và chính sách xuất nhập khẩu sức lao động của các nước cũng có nhiều thay đổi. Do vậy nên thị trường sử dụng lao động nước ngoài trong khu vực và trên thế giới trong những năm qua và thời gian gần đây đã có những thay đổi căn bản về nhu cầu sử dụng cũng như chất lượng và cơ cấu lao động tiếp nhận. Điều này, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất:
Hầu hết các nước tiếp nhận lao động nước ngoài đều thường xuyên quan tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tập trung đầu tư đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất. Đòi hỏi cần phải có đội ngũ lao động có trình độ, chất lượng tương ứng để vận hành và sản xuất. Do vậy đã dẫn tới một hệ quả là: Làm giảm đáng kể nhu cầu về sử dụng lao động giản đơn của nước ngoài nên giá thuê nhân công cũng sẽ bị giảm theo.
Thứ hai:
Vì mục tiêu siêu lợi nhuận và do giá thuê nhân công nội địa cao, hầu hết các nước phát triển đã và đang chuyển dịch đầu tư vốn và công nghệ sản xuất sang các nước có trình độ, công nghệ sản xuất kém hơn và giá nhân công, dịch vụ thấp hơn.
Thứ ba:
Thị trường lao động quốc tế vẫn có và tiếp tục có nhu cầu lớn về sử dụng nguồn lao động nước ngoài. Tuy nhiên phần lớn chỉ tập trung chủ yếu vào một số các lĩnh vực là:
Lao động giản đơn (lương thấp).
Lao động nặng nhọc (môi trường làm việc kém vệ sinh).
Lao động dịch vụ và giúp việc gia đình.
Lao động kỹ thuật cao và chuyên gia trong một số ngành sản xuất kinh doanh, kể cả chuyên gia phần mềm tin học
Lao động trên biển gồm Sỹ quan, Thuỷ thủ vận tải biển và Lao động đánh bắt hải sản.
Thứ tư:
Các nước đang phát triển có lao động dư thừa sẽ tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nên sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng trở nên gay gắt.
3.1.2 Về tình hình cụ thể của từng thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới.
3.1.2.1 Thị trường khu vực Đông Nam á.
Thị trường khu vực Đông Nam á là một thị trường gần gũi về khoảng cách địa lý, có nhiều điểm tương đồng về phong tục tập quán, hơn nữa Việt Nam lại là thành viên của hiệp hội tổ chức các nước ASEAN. Sự hợp tác giữa nước ta với các nước trong khu vực có nhiều thuận lợi và có chiều hướng phát triển khá tốt đẹp. Thị trường này được chia làm hai nhóm:
Nhóm các nước tiếp nhận lao động nước ngoài gồm: Malaysia, Singapore, Brunei, Lào và Campuchia.
Nhóm xuất khẩu lao động gồm: Philippin, Thái Land, Indonesia và Myanmar. Ngoại trừ thị trường Lào, các nước còn lại thường có chính sách ưu tiên tiếp nhận lao động theo đạo Hồi và có quan hệ lao động truyền thống. Tuy nhiên, tình trạng này đã được cải thiện bước đầu do các nước tiếp nhận lao động đã có chính sách tiếp nhận thí điểm lao động Việt Nam, đặc biệt là thị trường Malaysia. Cho đến nay, thị trường Malaysia đã kết thúc tiếp nhận thí điểm lao động Việt Nam và đang bước vào giai đoạn tiếp nhận chính thức. Dự kiến nếu không có biến động khách quan, hàng năm thị trường này tiếp nhận khoảng 100.000 lao động/năm.
3.1.2.2 Thị trường khu vực Đông Bắc á.
Là một trong những khu vực có quy mô tiếp nhận lao động nước ngoài rất lớn và là nơi tập trung lao động của hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực. Điều đáng chú ý là cả 3 thị trường lao động: Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đều được các nước xuất khẩu lao động đặc biệt quan tâm, khai thác triệt để. Các thị trường này chủ yếu tiếp nhận lao động nước ngoài cho các lĩnh vực: Công nghiệp, xây dựng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản, giúp việc gia đình(1) Tên trong ngành thường gọi là (Ôsin).
, thu nhập cao, điều kiện làm việc, phong tục tập quán phù hợp với Việt Nam.
Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ – thuật giữa nước ta với khu vực này đang ở trong giai đoạn phát triển tốt đẹp. Điều này được thể hiện qua việc họ đã nhận một số lượng lớn lao động của Việt Nam, chiếm khoảng hơn 40% đứng đầu trong số các nước có lao động xuất khẩu vào thị trường này và hiện đang có khả năng tiếp nhận thêm nhiều lao động trong thời gian tới.
3.1.2.3 Thị trường khu vực Trung Đông.
Các nước nằm trong khu vực này hàng năm, có nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài rất lớn khoảng từ 9 – 10 triệu lao động. Tập trung chủ yếu vào các nước như: ả rập Sau đi, Tiểu Vương quốc ả rập thống nhất (UAE), Cô Oét, Li Băng, Irắc Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ các cuộc chiến tranh Irắc vừa qua đã làm cho khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài của các nước trong khu vực bị trững lại. Tuy nhiên, một khi chiến tranh kết thúc và đi vào ổn định thì các nước này lại có khả năng tiếp nhận trở lại với số lượng lao động lớn hơn, đặc biệt là thị trường Irắc do phải tái thiết lại đất nước sau chiến tranh.
Đặc điểm và yêu cầu của thị trường này:
Đa dạng về ngành nghề: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, may mặc, giúp việc gia đình...
Điều kiện làm việc khắt khe, khí hậu và môi trường sinh hoạt khắc nghiệt,
Lương thấp nhưng lại phải chịu nhiều loại thuế.
Phong tục tập quán: Đạo Hồi, phong tục nghiêm ngặt, khắt khe, hà khắc.
Quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các nước vùng Vịnh chưa phát triển.
3.1.2.4 Thị trường khu vực Châu Phi.
Hiện tại, thị trường này có khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài chủ yếu là thông các dự án xây dựng. Những nước có khả năng tiếp nhận lao động chủ yếu vẫn là Lybia và Angieri.
- Tại thị trường Libya: Ta có thể tiếp tục duy trì và mở rộng thêm số lượng lao động ta cung ứng cho các hãng thầu nước ngoài, đồng thời tìm kiếm nhận thầu hoặc thầu phụ công trình.
- Tại thị trường Angieri: Vẫn có nhu cầu tiếp nhận chuyên gia Ytế, giáo dục, nông nghiệp sử dụng tiếng pháp. Tại đây còn có rất nhiều công trình xây dựng lớn đang và sẽ được đấu thầu. Nếu các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam nhận thầu thì lao động của Việt Nam mới có khả năng tiếp cận vào thị trường này với số lượng lớn thông qua hình thức nhận thầu trên.
- Các nước Châu Phi khác: Angola, Congo, Madagasca, Senegal trước đây nhận lao động của ta trong các lĩnh vực: Y tế, giáo dục, nông nghiệp, tuy số lượng tiếp nhận không nhiều nhưng họ vẫn có nhu cầu tiếp nhận trở lại một khi tình hình chính trị của các nước ổn định trở lại.
3.1.2.5 Thị trường các khu vực trên Biển.
Nhu cầu sĩ quan và thủy thủ vận tải biển, thuyền viên đánh bắt thủy hải sản ngày một gia tăng ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả ở Châu á. Đây là loại hình lao động đặc thù, yêu cầu trình độ tay nghề cao và dầy dặn kinh nghiệm, chịu đựng được gian khổ, kỷ luật nghiêm ngặt, khả năng chịu đựng cao. Tuy nhiên, thu nhập lại khá cao, ổn định nhưng thời gian lao động lại không ổn định, công việc nặng nhọc, thường xuyên lênh đênh trên biển, ít có điều kiện tiếp xúc với cộng đồng nên rất dễ đưa người lao động đến chỗ buồn tẻ, nhàm chán công việc Có thể nói đây cũng là một thị trường đầy triển vọng đối với lao động Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.2.6 Thị trường các khu vực khác.
Các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ.
Các nước Liên Xô và Đông Âu cũ hiện đang có hàng chục vạn người Việt Nam sinh sống và làm việc. Một bộ phận trong số này đã tạo điều kiện cho thân nhân của họ sang làm ăn, buôn bán. Cần phải có những chính sách ổn định và phát triển theo hình thức cá nhân.
Các nước trong khối EU.
Các nước trong khối EU chỉ có chủ trương sử dụng lao động trong cộng đồng với các yêu cầu về chất lượng lao động rất cao, hơn nữa mới chỉ có 3 nước là Anh, Đức, Pháp hiện đang có chủ trương chính sách thu hút và tiếp nhận lao động lập trình viên quốc tế. Đức là nước đầu tiên, mở cửa tiếp nhận khoảng 20.000 lập trình viên và hiện đang cần tiếp nhận 1,5 triệu lao động lành nghề nước ngoài cho các lĩnh vực: Tin học, xây dựng, công nghiệp nặng và chuyên viên ytế. Pháp đã có Đạo luật cho phép lao động các nước Thuộc địa cũ như Việt Nam, Lào, Campuchia đến lao động tại Pháp mà không phải gặp trở ngại gì. Nhờ đạo luật này mà lao động Việt Nam đã tiếp cận được, nhưng số lượng đưa đi vẫn còn hạn chế. Hiện tại, lao động của Việt Nam ta chưa có khả năng thâm nhập rộng ra thị trường các nước trong EU. Theo dự báo của các chuyên gia thì, để đảm bảo cơ cấu lao động như hiện nay, các nước thuộc khối EU từ nay cho tới năm 2025 phải tiếp nhận thêm khoảng 159 triệu lao động. Như vậy thì lao động của ta có thể tiếp cận thị trường này sớm trong lĩnh vực công nghệ tin học nếu như Việt Nam có những ưu sách, chiến lược đầu tư và tiếp cận ngay từ bây giờ.
Khu vực Bắc Mỹ và các khu vực do Mỹ uỷ trị.
Đây là thị trường rộng lớn, tương đối chặt chẽ và rõ ràng về luật pháp, thu nhập đảm bảo. Đã và đang có một vài hợp đồng đưa lao động sang một số vùng lãnh thổ do Mỹ ủy trị nên rất có khả năng thí điểm và mở rộng trong thời gian tới. Tuy nhiên, lao động mà hai thị trường này tiếp nhận sẽ chủ yếu là lao động có trình độ cao, đặc biệt là chuyên gia công nghệ cao. Theo số liệu thống kê(1) Giáo trình Kinh doanh Thương mại Quốc tế trang “83” Trường ĐH Quản lý và Kinh doanh Hà Nội.
năm 96 – 97, thị trường Mỹ thiếu 1.700 chuyên gia công nghệ cao, năm 98 thiếu 450.000 và năm 99 thiếu 850.000. Con số lao động thiếu hụt này đang gia tăng và còn tiếp tục gia tăng cao trong nhiều năm tới. Có thể cho rằng, đây cũng là một thị trường mục tiêu đầy tiềm năng đối với lao động Việt Nam trong tương lai.
3.1.3 Những cơ hội, thách thức và khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam.
Trước những biến động phức tạp kể cả về kinh tế lẫn chính trị trên thế giới và xu thế Toàn cầu hoá trong những năm qua đã tác động mạnh mẽ tới chính sách, xuất khẩu lao động của các nước có lao động xuất khẩu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, những tác động này cũng sẽ mang đến cho xuất khẩu lao động Việt Nam nhiều cơ hội tốt, tạo điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu lao động của mình. Bên cạnh đó, không phải là không có những khó khăn, thách thức nhất định, làm ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh và mở rộng hợp tác trao đổi lao động giữa Việt Nam và các nước tiếp nhận trong khu vực cũng như trên thế giới.
3.1.3.1 Những cơ hội.
Với lợi thế lớn về nguồn nhân lực: quy mô đứng thứ 120 trong gần 200 nước trên thế giới. Dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo, thông minh, nhanh nhẹn, khéo tay, cần cù chịu khó và có trình độ học vấn tương đối cao so với lao động của các nước cùng xuất khẩu. Hơn nữa, hình ảnh người lao động Việt Nam được giới chủ đánh giá rất cao so với lao động của các nước khác.
Bằng những ưu điểm nổi trội này, chúng ta hoàn toàn có thể có khả năng đáp ứng được xu hướng cũng như nhu cầu khá khắt khe về lao động chất lượng cao, hiện tại cũng như trong thời gian tới nếu như chúng ta có những bước chuẩn bị hợp lý ngay từ bây giờ.
3.1.3.2 Thách thức.
Do phải chịu áp lực rất lớn từ sự suy giảm kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, đã làm cho nhu cầu về lao động giản đơn giảm đáng kể, dẫn tới nhiều cơ hội việc làm ngoài nước của lao động giản đơn Việt Nam sẽ không còn. Hơn nữa lợi thế về giá nhân công Việt Nam rẻ đang bị mất dần(2) Xem phụ lục 2.
và những hạn chế về thể lực, trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật lao động của lao động Việt Nam kém ngày càng trở nên là yếu điểm lớn so với lao động cùng loại của các nước. Để có thể có được việc làm phù hợp với trình độ, tất yếu dẫn đến cạnh tranh và sự cạnh tranh này càng trở nên gay gắt giữa lao động giản đơn của ta với lao động giản đơn của các nước. Đòi hỏi chúng ta phải có những đối sách khắc phục hợp lý và kịp thời.
3.1.3.3 Khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam.
Qua những phân tích, dự báo trên đây, đối chiếu với tình hình thực tại của lao động xuất khẩu Việt Nam cho thấy: khả năng tiếp cận các thị trường (EU, Bắc Mỹ, Singapore) của lao động Việt Nam không phải là không có, nhưng không phải là trong ngày một ngày hai. Chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được mọi yêu cầu cũng như những tiêu chuẩn khắt khe của họ đặt ra, xong để làm được điều này vẫn còn phải phụ thuộc vào chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho các thị trường trên như thế nào mà thôi. Tuy nhiên, trước mắt và trong một vài năm tới, lao động của ta sẽ vẫn tiếp tục tập trung duy trì và mở rộng chủ yếu ở thị trường Đông Bắc và Đông Nam á. Trong đó thị trường (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia) vẫn được coi là những thị trường chính đối với lao động Việt Nam, ít nhất là trong thời gian hiện tại.
3.2 Phương hướng xuất khẩu lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong những năm tới.
3.2.1 Phương hướng nhiệm vụ.
Xuất khẩu lao động là nhiệm vụ Kinh tế, Chính trị có ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta và xu thế toàn cầu hoá đồng thời, cũng là vấn đề bức xúc trước mắt về lao động và việc làm.
Để có thể mở rộng xuất khẩu lao động với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0093.doc