Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần Giầy Hà Nội

1. Tình hình gia công xuất khẩu của Công ty xuất khẩu giầy Hà Nội

1.1. Về cơ cấu sản phẩm và hoạt động sản xuất

b. Hoạt động sản xuất

1.2. Về doanh thu và lợi nhuận

1.3. Về thị trường và kim ngạch xuất khẩu

a. Thị trường xuất nhập khẩu.

b. Kim ngạch xuất nhập khẩu

2. Thực trạng hiệu quả gia công xuất khẩu ở công ty Cổ phần giày Hà Nội.

3.1. Phân tích hiệu quả gia công xuất khẩu của công ty theo từng năm

* Chỉ tiêu về tổng doanh thu

* Chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu

* Về chỉ tiêu lợi nhuận

3.2 Đánh giá hiệu quả GCXK theo các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả

a. Chỉ tiêu lợi nhuận trên doanh thu (tỷ suất lợi nhuận)

b. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên giá trị sản xuất công nghiệp danh mục số liệu để tính toán chỉ tiêu này bao gồm

c. Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn

d. Đánh giá chung

 

doc67 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần Giầy Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 213 Bậc 3 190 183 168 Bậc 4 78 76 70 Bậc 5 20 23 24 Bậc 6 8 9 9 Tổng số 860 813 764 Nguồn: Phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu Xét về cơ cấu nhân sự trong Công ty, qua bảng ta có thể thấy tỷ lệ lao động gián tiếp, không tham gia vào quá trình sản xuất chiếm tỷ trọng lớn. Điều này gây ra sự lãng phí trong công tác sử dụng nguồn nhân lực đồng thời làm bộ máy tổ chức của Công ty thêm kồng kềnh, làm việc kém hiệu quả. Cơ cấu quản lý của một Công ty là rất cần thiết, tuy nhiên có thể giảm thiểu bộ máy quản lý, đồng thời tuyển dụng nhân sự một cách có chọn lọc kỹ lưỡng để có được những người có trình độ cao, được đào tạo cơ bản, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Chất lượng lao động là vấn để rất cần thiết, để có thẻ phát huy hơn nữa năng lực sản xuất cũng như năng lực quản lý, đòi hỏi phải có kế hoạch sử dụng nhân sự một cách hợp lý, hiệu quả. Trên bảng thể hiện số công nhân sự lành nghề, có trình đọ chuyên môn cao chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng lao động trực tiếp sản xuất. Với tỷ trọng 10% thợ bậc cao trong tổng số công nhân đây là một con số khiêm tốn, vấn đề này cần được tháo gỡ để có thể phát huy tiềm lực sản xuất của Công ty và tận dụng tối đa nguồn lực hiện có của mình. Sở dĩ số lượng thợ bậc cao chiếm tỷ trọng thấp bởi trong hoạt động gia công xuất khẩu của Công ty, các thao tác làm trên các đây truyền, máy móc hiện đại đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao còn hạn chế mà hầu hết tập trung vào công đoạn máy ghép bán thành phẩm do đó có thể dễ hiểu tại sao lao động trong Công ty chủ yếu là thợ bậc thấp và hầu hết là nữ. Số còn lại là thợ bậc cao, phần lớn là công nhân kỹ thuật như công nhân cơ khí, điện. Họ thực hiện các công việc vận hành, sửa chữa và bảo dưỡng các dây truyền, thiết bị kỹ thuật, máy móc.. phục vụ sản xuất. Chính vì công nhân bậc thấp chiếm số đông nên tổng thu nhập theo đầu người của Công ty cũng thấp, kéo theo đó là thu nhập bình quân theo đầu ngưoiừ cũng thấp. Tính đến năm 2000-2001 thu nhập bình quân đầu người của công ty vào khoảng 600.000 đồng, đây là con số rất khiêm tốn, khó có thể đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống hàng ngày của người công nhân. Yêu cầu đặt ra với Công ty là phải nâng cao dần mức sống cũng như thu nhập cho người công nhân, theo đó cũng cải thiện tay nghề trình độ sản xuất của họ để có thể tăng năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng, tạo uy tín trong hoạt động gia công xuất khẩu của Công ty ngày một lớn mạnh. c. Công nghệ – trang thiết bị kỹ thuật sản xuất. Trong vòng 3 năm trở lại đây, Công ty hầu như không nhập thêm một dây truyền, trang thiết bị sản xuất nào mà chủ yếu chỉ thay thế các bộ phận động cơ vận hành trong các dây truyền sản xuất. Tuy nhiên tính đến năm 2001 tổng số máy móc dây chuyền sản xuất đã lên tới 590 chiếc được nhập vào cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90. Riêng năm 1998 đã nhập 6 máy xén da + 1 dây truyền bồi vải cắt viền. Do yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển nên việc trang bị máy móc, thiết bị, đặc biệt là các dây chuyền, công nghệ sản xuất ngày càng được Công ty chú trọng đầu tư đối mới. Tình hình máy móc thiết bị của Công ty được thể hiện trong bảng sau. Bảng 3: Tổng hợp các loại máy móc thiết bị sản xuất hiện có tính đến 31/12/2001. Đơn vị tính: (chiếc) TT Chủng loại – tính năng máy móc thiết bị Nước sản xuất Năm nhập Số lượng Giá trị còn lại (%) 1 Máy may bàn 1 kim Tiệp – Nhật 1989 304 40 2 Máy may bàn 2 kim Tiệp – Nhật 1989 85 40 3 Máy trụ 1 kim Tiệp – Nhật 1990 72 60 4 Máy trụ 2 kim Tiệp – Nhật 1991 11 60 5 Máy viên ống Tiệp – Nhật 1992 35 60 6 Máy zich zắc Tiệp – Nhật 1994 22 60 7 Máy chặt LX-Đài Loan 1994 17 70 8 Máy dẫy LX-Nhật 1994 21 60 9 Máy gấp mép Đài Loan 1995 9 70 10 Máy xén Đài Loan 1998 6 70 11 Máy vắt sổ Tiệp 1995 5 50 12 Dây chuyền sản xuất giày nữ Thái - Đài Loan 1996 1 70 13 Dây chuyền sản xuất túi, cặp cao cấp ý 1996 1 80 14 Dây chuyền bồi vải, cắt viền Đài Loan 1998 1 90 Nguồn: Phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu. Qua bảng có thể nhận thấy các máy móc, thiết bị sản xuất của Công ty phần lớn đã lạc hậu, giá trị còn lại thấp, khó có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất trong điều kiện phát triển về quy mô sản xuất và với số lượng đơn đặt hàng tăng thì không thẻe đáp nhu cầu sản xuất để có thể trả hàng đúng thời điểm và đảm bảo về mặt chất lượng sản phẩm. Tỷ lệ các dây chuyền sản xuất hiện còn quá nhỏ chưa thể đảm bảo mức độ sản xuất các sản phẩm cao cấp, có chất lượng kỹ thuật cao. Nhìn chung về công nghệ kỹ thuật, trang thiết bị của Công ty còn thiếu thốn rất nhiều, đòi hỏi phải được nâng cấp thêm. Tuy nhiên với 590 máy móc, thiết bị sản xuất mà Công ty được thừa hưởng từ Công ty giầy Hà Nội, thì đây cũng là một lợi thế đáng kể, góp phần làm giảm chi phí đầu tư vào máy móc thiết bị hơn rất nhiều lần nếu Công ty mới thành lập mà chưa có máy móc thiết bị nào. Để đảm bảo về tốc độ phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu về thị trường hàng hoá ngày một cao, vấn đề đặt ra với Công ty là cần phải thay thế, nâng cấp trang thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại, cơ cấu kỹ thuật chiếm tỷ trọng cao, đồng thời nhập thêm các dây truyền sản xuất sản phẩm mới để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường, tăng khả năng cạnh tranh. Bảng tổng hợp các loại thiết bị cũng thể hiện phần lớn các máy móc thiết bị nhập vào đã cũ và qua sử dụng rồi, năng suất thấp không phù hợp với công nghệ sản xuất của một Công ty. Bên cạnh đó các máy móc, thiết bị đã ít, chất lượng chưa cao thì lại rất lởn khởm về cơ cấu, không đồng bộ dẫn đến hiệu quả sử dụng rất thấp.Có thể đánh giá về mặt kỹ thuật cũng như về mặt kinh tế, công nghệ kỹ thuật sản xuất của Công ty là chưa phù hợp với trình độ phát triển chung của nền sản xuất cũng như nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên do vốn cố định được cấp từ ngân sách Nhà nước với số lượng nhỏ vì vậy dễ hiểu tại sao công nghệ sản xuất của Công ty lại lạc hậu, không đồng bộ và ít được chú trọng đầu tư đối với đến như vậy. Mặc dù còn nhiều thiếu sót về vấn đề công nghệ sản xuất nhưng nếu xét về tiền thân của Công ty thì đây cũng là một nguồn lực tiềm năng đáng kể khi Công ty chuyển đổi cơ cấu sang hình thức Công ty cổ phần. Trong những năm tới, Công ty dự định sẽ đầu tư mạnh hơn vào trang thiết bị phục vụ sản xuất cao cấp mới như giấy dép da, túi cặp cao cấp, các sản phẩm gia công cho nước ngoài như: ý, Hàn Quốc, Thái Lan. 2. Những thành tựu đã đạt được. Sau gần 30 năm thành lập cho đến nay, Công ty đã trải qua biết bao thăng trầm chung của ngành giày da Việt Nam. Tuy nhiên trong suốt thời gian hoạt động của mình, Công ty cũng đạt được những thành quả đáng kể. Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1982 – 1990 đây là thời kỳ phồn thịnh của Công ty, Công ty đã có hàng xuất khẩu sang các nước Châu Âu, đánh dấu bước ngoặt phát triển của Công ty. Kể từ năm 1999 đến nay khi Công ty chuyển sang Công ty cổ phần giầy Hà Nội, cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ về cả cơ cấu hoạt động lẫn mức độ tăng trưởng. Sản phẩm của Công ty cũng dần chuyển đổi về tính chất lẫn cơ cấu, từ những sản phẩm cấp thấp, đáp ứng tiêu dùng nội địa, kém chất lượng chuyển sang hàng cao cấp, hầu hết là xuất khẩu và đạt chất lượng cao cũng như hoàn thiện hơn về chủng loại, mẫu mã. Công ty đã có thêm được những dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm mới phù hợp ò nhu cầu thị trường ngoài ưnớc. Nhìn chung sau khi loại bỏ một số chủng loại sản phẩm cấp thấp và thay vào đó là các sản phẩm cao cấp, cơ cấu sản phẩm của Công ty vẫn rất phong phú và đa dạng. Được kế thừa và phát triển trên nền tảng của Công ty cũ, Công ty cổ phần giầy Hà Nội nắm giữ trong tay một đội ngũ lao động rồi rào và ngày càng được chọn lọc kỹ lưỡng hơn. Trong suốt thời gian hoạt động, cho đến nay, Công ty đã sở hữu trong tay 590 máy móc, thiết bị sản xuất, đặc biệt có một số dây truyền sản xuất tương đối hiện đại và đồng bộ như: Dây chuyền sản xuất giầy nữ mới nhập năm 1996, hiện còn 70% giá trị còn lại, dây truyền sản xuất túi cặp cao cấp của ý nhập năm 1996, giá trị còn lại đạt 80% dây truyền bồi vải cắt viền nhập năm 1998, giá trị còn lại đạt 905. Về máy móc công nghệ sản xuất nói chung hiện có của Công ty tuy chưa nhiều nhưng ngay từ khi chuyển đổi sang Công ty cổ phần giầy Hà Nội, được 3 năm đến nay có thể coi là một nguồn tải sản tự có và ngày càng được nâng cấp dần. Một trong những thành tựu quan trọng mà Công ty đạt được trong những năm gần đây là Công ty đã tự mình đặt quan hệ trực tiếp với khách hàng, hầu hết c đơn đặt gia công của nước ngoài được ký kết trực tiếp với Công ty mà không trải qua một bươchính sách trung gian nào. Có được thành tựu này là do Công ty đã thực sự lớn mạnh trên thị trường đồng thời do nổ lực bản thân Công ty trong công tác thâm nhập thị trường, tìm kiếm nguồn khách hàng tiềm năng, tạo dựng uy tín cho mình và phát huy sức mạnh cạnh tranh trong ngành giầy da Việt Nam và trên thị trường quốc tế. Những khách hàng thường xuyên đặt gia công của Công ty có thể kể đến như ý, Nhật, Hàn Quốc, ALGIERIA. Tính đến năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã đạt đến 4229,230 ngàn USD, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu, bán thành phẩm đạt 2663,267 ngàn USD. Thông qua tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có thể thấy lợi nhuận của Công ty đạt tương đoío cao, cụ thể vào khoảng 265 triệu đồng. Đây là thành tựu đáng kể góp phần thúc đẩy sự phát triển của Công ty. Bên cạnh những thành tựu đó còn phải kể đến tổng sản phẩm được sản xuất hàng năm hay tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Đến năm 2001, tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 42644,664 triệu đồng, một con số khổng lồ từ trước đến nay. Điều này chứng tỏ nền sản xuất của Công ty ngày càng hiệu quả và càng có nhiều hợp đồng đặt gia công hơn. Cụ thể về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty được thể hiện trong bảng 4. Do tổng giá trị sản xuất công nghiệp cao dẫn đến doanh thu lớn theo đó lợi nhuận của Công ty tăng làm thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng dẫn được cải thiện. Với mức thu nhập bình quân đầu người là khoảng 600.000/người/tháng, đây là con số tuy còn thấp nhưng với tình hình thực tế của Công ty thì không phải Công ty nào cũng đạt được. Tuy chưa có được sự lớn mạnh thực sự nhưng với những thành tựu đã đạt được là cả một sự nổ lực vươn lên của Công ty trong bối cảnh nền kinh tế thị trường còn rất mới mẻ ở nước ta. Kết quả này chính là động lực để Công ty phát huy hết nguồn lực tiềm năng của mình góp phần vào công cuộc tăng trưởng phát triển nền kinh tế và gây dựng những thành tựu to lớn hơn nữa. III. Thực trạng Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu của Công ty cổ phần giầy Hà Nội. 1. Tình hình gia công xuất khẩu của Công ty xuất khẩu giầy Hà Nội. 1.1. Về cơ cấu sản phẩm và hoạt động sản xuất. Trong 3 năm vừa qua ngay khi chuyển sang Công ty cổ phần giày Hà Nội, kể từ năm 1999, Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể trong hoạt động gia công xuất khẩu. Đặc biệt là sự chuyển đổi về cơ cấu sản phẩm, thay thế những sản phẩm chất lượng thấp bằng những sản phẩm cao cấp, có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường đồng thời chuyển dịch từ sản phẩm phục vụ quốc phòng và sản phẩm nội địa sang hầu hêtải sản là sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể, cơ cấu sản phẩm của Công ty có sự chuyển biến rõ rệt như những năm trước năm 1999, Công ty thường sản xuất những sản phẩm cấp thấp, chủ yếu tiêu thụ trong nước như giầy thể thao, bóng đá bóng chuyền giầy dép nội địa. Tính đến hết năm 2001 Công ty đã loại bỏ những sản phẩm này và thay vào đó là các sản phẩm cấp cao, có giá trị xuất khẩu như: giầy nam, cặp túi Hàn Quốc, dây lưng da.. với số lượng ngày càng được cải thiện và lượng đơn đặt gia công cũng ngày càng được cải thiện và lượng đơn đặt gia công cũng ngày càng tăng. Chỉ tính riêng năm 2000 Công ty bắt đầu đi vào sản xuất thêm sản phẩm giầy nam với số lượng 8500 đôi, dây lưng da 88.613 chiếc đến năm 2001 Công ty đã sản xuất hai loại sản phẩm này với số lượng tăng tương ứng là 19000 đôi và 200.000 chiếc. Đây là kết quả đáng khích lệ góp phần thúc đẩy Công ty chuyển dịch dần sang sản xuất những sản phẩm cao cấp với quy mô ngày càng lớn, chất lượng này càng cao. Ngoài ra Công ty vẫn còn giữ lại những sản phẩm cao cấp đã chuyển đổi từ trước năm 1999 vẫn đảm bảo về mặt chất lượng cũng như về mặt phù hựop với nhu cầu thị trường như: giầy nữ, cặp túi cao cấp, găng tay da.. với số lượng tăng dần qua các năm, cơ cấu sản phẩm được thể hiện trong bảng sau. Bảng 4: Tổng hợp cơ cấu sản phẩm năm 1999 – 2001 TT Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 1 Túi Hàn Quốc Chiếc 622935 298019 2 Giầy thể thao, dép Đôi 14.680 3 Găng tay Đôi 85.554 104960 4 Giầy nam Đôi 8500 19000 5 Cặp túi Chiếc 174.627 13536 6 Dây lưng da Chiếc 88613 2000 7 Giày nữ Đôi 357.910 537687 391035 8 Cặp túi cao cấp Chiếc 37.623 87691 116376 9 Mũ, đế lắp ráp giầy Đôi 27610 88613 149625 Nguồn: Phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu Qua bảng cho thấy chủng loại sản phẩm của Công ty rất phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như các nước đặt gia công. Đặc biệt các sản phẩm mang phong cách ý, Hàn Quốc ngày càng được ưu chuộng cả ở thị trường trong và ngoài nước. Hiểu rõ về điều này, Công ty cũng chú trọng đến lợi thế điểm mạnh của mình và ngày càng đẩy mạnh những thế mạnh tiềm năng thông qua việc lập riêng ra những xưởng chuyên sản xuất sản phẩm của ý, xưởng Hàn Quốc. Để có được thành tựu này, Công ty đã phải bỏ ra không ít công sức để học hỏi kinh nghiệm sản xuất và thâm nhập cũng như tìm kiếm bạn hàng, thị trường trực tiếp. Đây cũng là kết quả đáng khích lệ trong sự nghiệppt của Công ty. b. Hoạt động sản xuất: Hoạt động sản xuất của Công ty được phân công lao động rõ rệt theo từng khâu từng phân xưởng sản xuất được chuyên môn hoá. Do tài chính về chủng loại sản phẩm nên đã hình thành các xưởng riêng chỉ chuyên môn làm về sản phẩm thuộc chủng loại nhất định. Có thể kể đến các phân xưởng ứng với từng loại sản phẩm như phân xưởng ý, chuyên sản xuất các sản phẩm giá ý và các sản phẩm gia công thuê theo đơn đặt hàng của ý. Phân xưởng Hàn Quốc, chuyên môn sản xuất các sản phẩm của Hàn Quốc. Ngoài ra còn có các xưởng cắt, xưởng may thực hiện chức năng cắt, ghép các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, tạo dáng tạo hình sản phẩm. Quá trình sản xuất trong Công ty từ khi chuyển sang Công ty cổ phần đến nay, diễn ra thường xuyên mà luôn đảm bảo đúng tiến độ giao hàng, đồng thời đảm bảo về mặt chất lượng sản phẩm. Năng suất lao động cũng dần được nâng cao do Công ty chú trọng hơn về tay nghề cũng như trình độ sản xuất của công nhân. 1.2. Về doanh thu và lợi nhuận. Trong 3 năm vừa qua, tổng giá trị sản xuất công nghiệp có những bước tăng trưởng nhảy vọt. Đặc biệt là năm 2000 so với năm 1999, tốc độ tăng trưởng đạt tới tỷ lệ 120% vượt chỉ tiêu, kế hoạch đã đề ra của Công ty. Cụ thể năm 2000 tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 12098 nghìn đồng trong khi năm 1999 chỉ giữ ở ứmc 36074,939 nghìn đồng. Tuy nhiên năm 2001 lại có dấu hiệu chững lại, tổng giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt 42644,664 ngàn đồng, tỷ lệ tăng trưởng so với năm 2000 là 101,30%, một con số khiêm tón trong quá trình hoạt động của Công ty, thể hiện sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và thâm hụt so với kế hoạch đã đề ra. Nguyên nhân của sự giảm sút ngày là do kim ngạch xuất khẩu của năm 2001 thấp hơn so với năm 2000. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 4617,07 ngàn USD thì năm 2001 chỉ đạt 4229,230 ngàn USD. Sự giảm sút về kim ngạch xuất khẩu này thể hiện rằng năm 2000 Công ty có nhiều hợp đồng đặt gia công hơn so với năm 2001. Chính vì vậy có ít đơn đặt hàng hơn dẫn đến quá trình sản xuất ngừng trệ, dư thừa nguồn lực làm tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo đó cũng giảm. Trên thực tế doanh thu sản xuất kinh doanh của Công ty được chia làm 2 loại, đó là doanh thu sản xuất kinh doanh không có nguyên liệu gia công và doanh thu sản xuất kinh doanh có nguyên liệu gia công. nhìn chung về tổng doanh thu của Công ty trong 3 năm vừa qua cũng có sự biến động không ngừng. Điều này cũng được thể hiện thông qua tổng giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Có thể biểu diễn doanh thu và giá trị sản xuất công nghiệp của Công ty trong 3 năm vừa qua trên biểu đồ. Biểu đồ 1: Giá trị sản xuất công nghiệp và tổng doanh thu thời kỳ 1999 - 2001 Tỷ đồng 80 64,177172 76,16546 42,098 74,8991 42,644664 40 36,074.939 0 1999 2000 2001 Năm Tổng giá trị sản xuất công nghiệp Tổng doanh thu Sự tăng trưởng đáng kể của năm 2000 so với năm 1999 và sự giảm sút của năm 2001 so với năm 2000 chứng tỏ một thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty thường xuyên biến động gia công thuê, chính vì vậy mà quá trình sản xuất gia công phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thị trường, tức là phụ thuộc vào số lượng đơn đặt gia công và quy mô của nó. Để tháo gỡ tình trạng này, đòi hỏi Công ty phải có biện pháp tích cực trong khâu thu hút thị trường và nguồn khách hàng tiềm năng. Doanh thu là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do đó sự biến dodọng về doanh thu cũng là nguyên nhân dẫn đến sự biến động của lợi nhuận. Cùng với sự tăng nhảy vọt về doanh thu của năm 2000 so với năm 1999 lợi nhuận đạt 167,23 triệu đồng thì năm 2000 đạt 261,58 triệu đồng, tăng gấp 2 lần. Tuy nhiên năm 2001 lại thể hiện sự giảm sút lợi nhuận chỉ đạt 233,47 triệu đồng. Nhìn chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, lợi nhuận chưa cao dẫn đến khó khăn cho quá trình mở rộng quy mô cũng nhưg nâng cấp và phát triển hoạt động gia công xuất khẩu. 1.3. Về thị trường và kim ngạch xuất khẩu. a. Thị trường xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua, thị trường chủ yếu của Công ty là Châu Âu, Hàn Quốc, ý, Liên Xô... đây là những khách hàng quen thuộc, thường xuyên có đơn đặt hàng đến Công ty và doanh thu, cũng như lợi nhuận mà Công ty thu được cũng chủ yếu từ thị trường các nước này. Vì tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là gia công thuê do đó Công ty không tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm trực tiếp mà chỉ nhận nguồn nguyên vật liệu từ những nước đặt gia công, sau đó sản xuất ra sản phẩm và trả lại cho nước đặt gia công đó. Việc phân phối sản xuất trực tiếp đến tay người tiêu dùng do bên thuê gia công đảm nhiệm. Chính vì vậy mà dễ hiểu vì sao Công ty không có được những thị trường rộng lớn và công tác tìm kiếm thâm nhập thị trường cũng rất hạn chế. Về vấn đề thị trường, đối vớii Công ty chỉ quan tâm đến những đối tác đặt gia công, vì vậy công tác thị trường của Công ty là tìm kiếm các đối tác thuế gia công là chủ yếu. Cho đến nay Công ty vẫn chưa có phòng Marketing, cũng chưa đưa ra một hình thức quảng cáo, khuếch trương nào để có thể thu hút các nhà đầu tư cũng như các đối tác có khả năng hợp tác và trở thành bạn hàng của Công ty. Đây là một sự thiếu sót đáng kể, bởi để có thể phát triển thị trường, tìm kiếm thêm bạn hàng thì Công ty cần thiết phải có phòng Marketing để chủ động thu hút nguồn khách hàng tiềm năng, mở rộng thị trường. Việc tìm hiểu thị trường cũng rất cần thiết bởi mỗi thị trường ở mỗi nước cũng có quy mô, tính chất khác nhau và theo đó sản phẩm cũng có sự khác biệt rõ rệt. Hiện nay đối với thị trường ý, và Hàn Quốc, Công ty chủ yếu gia công về các sản phẩm túi, cặp da cao cấp, trong khi đó đối với thị trường châu Âu và Nhật thì Công ty chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm giầy da và găng tay. Những nước đặt gia công thường xuyên của Công ty theo hình thức giao nguyên vật liệu và nhận thành phâMarketing, boa gồm cóThái Lan, Hàn Quốc, Italia. Đây cũng chính là nguồn nhập nguyên vật liệu chủ yéu của Công ty. Mảng thị trường này nhìn chung vẫn nhỏ, chưa đáp ứng hết năng lực sản xuất cũng như trình độ phát triển của Công ty. b. Kim ngạch xuất nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu theo hình thức gia công thuê là hoạt động chủ yếu của Công ty. Kể từ năm 1982 trở đi là thời kỳ khởi sắc trong quá trình kinh doanh ngoại thương của Công ty. Đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng về quy mô và cơ cấu. Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng về quy mô và cơ cấu. Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng về quy mô và cơ cấu. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty được thể hiện dưới bảng sau. Bảng 5: Tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu thời kỳ 1999 - 2001 Chỉ tiêu Luỹ kế đến hết tháng báo cáo 1999 Luỹ kế đến hết tháng báo cáo 2000 Luỹ kế đến hết tháng nghiên cứu 2001 Số lượng Thành giá Cước phí Số lượng Thành giá Cước phí Số lượng Thành giá Cước phí a- Tổng kim ngạch xuất khẩu 4229,230 534,611 Italy 1001,1 130,973 1253,909 151,030 1712,593 181,817 Châu Âu 150,27 383,187 2067,677 220,929 1733,178 237,522 Liên Xô (trả nợ) Nhật Hàn Quốc 1691,589 265,139 1254,335 231,996 Algerla (trả nợ) 783,459 135,242 (Mặt hàng/nước) Túi/ Italy 57799 856,967 101,156 87691 1189,353 129,216 140703 1687,378 171,232 Găng/ Italy 137185 115,233 29,318 104900 69,922 21,989 508000 25,215 10,615 Giầy nữ/ Châu Âu 418681 1796,275 353,184 535187 2067,877 290,929 435229 1733,178 237,522 Găng/Châu Âu Túi/ Hàn Quốc 196190 1681,589 265,139 622935 1054,325 231,996 308134 703,959 135,242 Mũ giầy/ Nhật Giầy TT /Algerla b. Tổng kim ngạch NK 2455,686 1962,814 266,267 (Mặt hàng/nước) Nhập NL gia công túi. Hàn Quốc 749,516 959,849 Nhập nhiên liệu gia công túi/ Italy 930,63 251,922 1516,500 Nhập NL gia công giầy/T.Lan 164,855 949,220 654,873 Nhập kinh doanh 13,695 652,172 32,045 Qua bảng tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu của Công ty ta có thể thấy. Tổng kim ngạch xuất khẩu cảu năm 1999 đạt 4479,564 ngàn USD, một số kỷ lục từ trước đến nay, trong khi đó năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 42098 ngàn USD, tăng hơn so với năm 99 là 110%. Điều này thể hiện dấu hiệu đi lên của kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên năm 2001 với tổng kim ngạch xuất khẩu là 4229,23 ngàn USD giảm so với năm 2000 và vẫn còn thấp hơn năm 1999 có thể thaýa được sự giảm sút trong kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ 2000-2001, nguyên nhân do số lượng đơn đặt hàng giảm điều này thông qua tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2000 tổng kim ngạch nhập khẩu là nhỏ nhất so với năm 1999 và năm 2001 chứng tỏ số lượng đơn đặt gia công của năm 2000 là nhỏ nhất, tuy vậy sản phẩm sản xuất ra lại xuất khẩu đi với số lượng lớn nhất. Điều này còn phụ thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố hàng tồn kho. Chính vì sản phẩm tồn kho nhiều dẫn đến tình trạng nhập nguyên vật liệu nhiều nhưng xuất sản phẩm đi ít. Trên bảng tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu cũng thể hiện rõ về cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty đối với từng sản phẩm, từng nước, khu vực khác nhau, chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu thể hiện những nước, thị trường tiêu thụ sản phẩm do Công ty sản xuất ra. ở đây bao gồm cả việc tiêu thụ trực tiếp và gián tiếp thông qua các khâu trung gian nước ngoài. Chỉ tiêu tổng kim ngạch nhập khẩu cho biết những nước cung cấp nguyên vật liệu cho Công ty, tức những nước đặt gia công, bao gồm Itlia, Hàn Quốc, Thái Lan. Nhìn chung về cơ cấu sản phẩm xuất nhập khẩu không có sự biến động mà thường giữ nguyên chủng loại sản phẩm đối với từng thị trường nhất định. Bên cạnh đó lại thường xuyên có sự biến động về số lượng các sản phẩm xuất nhập khẩu ở mỗi nước, mỗi thị trường trong từng năm. Chính sự biến động này dẫn đến sự thay đổi, tăng giảm về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. 2. Thực trạng hiệu quả gia công xuất khẩu ở công ty Cổ phần giày Hà Nội. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh từ năm 1999 đến nay, Công ty đã đạt được nhiều kq quan trọng, góp phần thúc đẩy sự tiến triển mạnh mẽ trong hoạt động gia công xuất khẩu của mình, đồng thời mở rộng về quy mô sản xuất cũng như quy mô thị trường và nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Về vốn, hiện tại Công ty nắm giữ trong tay một lượng vốn đáng kể được đưa vào thực hiện trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như hoạt động gia công xuất khẩu nói riêng. Tổng số vốn thực hiện của Công ty, tính đến năm 2001 đã đạt tới 11,744 tỷ đồng, một con số tuy chưa phải là lớn nhưng nếu so với quy mô va tính chất hoạt động cũng như tình hình thực tế thì đây là con số đáng kể. Bên cạnh đó tốc độ chu chuyển hàng hoá, hay vòng quay vốn đạt tới 7 lần/năm, cho thấy hoạt động chu chuyển hàng hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là khá lớn. Với tốc độ này, Công ty có khẳ năng thu hồi vốn nhanh để tiếp tục đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh tránh tình trạng ứ đọng vốn, theo đó hiệu quả sản xuất kinh doanh được đẩy mạnh hơn. Kết quả này không phải nghiễm nhiên và có được, đó là nỗ lực đẩy nhanh hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời là những bước đột phá nâng cao về uy tín cũng như hoạt động của mình trên trường quốc tế. Cũng có thể kể đến vố cố định của Công ty, năm 2001 vốn cố định là 4098,52 triệu đồng, một tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số vốn thực hiện của Công ty. Con số này đảm bảo cho Công ty có khả năng hoạt động về lâu dài, có thể nâng cấp về công nghệ sản xuất, cũng là điều kiện dẫn tới sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện tại Công ty đang nắm giữ 590 máy móc thiết bị sản xuất, cùng tổng đội ngũ cán bộ nhân viên là 764 người, đã được chọn lọc và nâng cao chất l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0442.doc
Tài liệu liên quan