Đề tài Một số biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020

Cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng có những thay đổi quan trọng trong 10 năm qua. Năm 1985 khu vực Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu còn chiếm tới 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta. Đến năm 1990 tỷ lệ này hạ xuống còn 42,4%, năm 1991 giảm mạnh xuống 11,1%, năm 1995 còn 2,5% và đến năm 2000 chỉ còn chiếm 1,2% kim ngạch xuất khẩu. Các nước Châu Á nổi lên đóng vai trò chính. Tỷ trọng của Châu Á trong năm 1991 (năm ta mất thị trường XHCN) lên gần 77% nhưng những năm sau, nhờ nỗ lực khai thông hai thị trường mới là Châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ trọng của Châu Á đã giảm dần nhưng vẫn còn cao.

 

doc100 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu dùng lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ và cũng là nước nhập khẩu lớn. Nhập khẩu của Nhật Bản tăng trung bình 21%/năm, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp. Nguồn nhập khẩu của Nhật Bản tập trung chủ yếu từ các nước đang phát triển lớn hơn là các nước công nghiệp phát triển. Người tiêu dùng Nhật Bản được đánh giá là người tiêu dùng khắt khe nhất. Họ đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy của sản phẩm. Nhiều người rất nhạy cảm với thay đổi theo mùa, nhất là hàng quần áo và đồ nội thất. Họ thường chọn nhiều loại sản phẩm nên người bán cần cung cấp thông tin cụ thể về sản phẩm như catalog có ghi giá và hình ảnh sản phẩm, mẫu hàng, lượng tối thiểu chấp nhận được (số lượng và giá trị), nhận đặt hàng theo các thông số cụ thể, giao hàng đúng thoả thuận, giới thiệu về công ty và dịch vụ hậu mãi. Hệ thống phân phối của Nhật Bản có sự tham gia của các công ty thương mại, các nhà buôn và các nhà bán lẻ. Bên cạnh đó, hoạt động và chức năng của các công ty thương mại giữ một vai trò quan trọng: nhà trung gian; cung cấp vốn, gánh chịu rủi ro, phát triển nguồn nhân lực, buôn bán, tổ chức và đầu tư. Ngoài ra, các công ty thương mại còn có chức năng cung cấp thông tin. Hầu hết các hàng nhập khẩu vào Nhật Bản là tự do không cần xin phép Bộ Công nghiệp và Thương mại. Đối với nông sản nhập khẩu, cho đến nay, Nhật Bản vẫn đang cố gắng để tự do hàng nhập khẩu và mở rộng thị trường cho các nông sản. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu của ta vẫn cần áp dụng các biện pháp quản lý các tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt vì chất lượng là yếu tố quyết định, cơ bản mà bất cứ người tiêu dùng nào của Nhật Bản cũng không thể bỏ qua. Bên cạnh đó, thời gian giao hàng cũng cần được thực hiện đúng, việc giao hàng tin cậy và cung cấp hàng ổn định. 2.2.2. Quy mô, tốc độ xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất Việt Nam mặc dù tỷ lệ có giảm. Kể từ ngày 26/5/1999, Nhật Bản và Việt Nam đã dành cho nhau MFN. Tuy nhiên, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 15% năm 1999 lên 17% năm 2000, thấp hơn so với dự kiến trước đó là 22%. Nguyên nhân là do sức mua của Nhật Bản tăng chậm. Hiện nay, khoảng 50% hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản dưới dạng thô và sơ chế, sau đó lại được tái chế và xuất khẩu sang các nước khác. Thời gian tới cần xuất khẩu trực tiếp không qua trung gian. Bảng 19: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản Đơn vị: triệu USD Năm Tổng KNXK cả nước Trị giá xuất khẩu Tỷ trọng(%) Tốc độ tăng, giảm(%) 1995 5448,9 1461,0 26,81 - 1997 9185,0 1675,4 18,24 +14,67 1998 9361,0 1514,5 16,18 -9,60 1999 11541,4 1786,2 15,48 +17,94 2000 14482,7 2575,2 17,78 +44,17 2001 15030,0 2509,8 16,70 -2,54 Nguồn: Tổng cục Hải quan và Kỷ yếu 55 năm ngành thương mại. Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong 7 năm 1995 – 2001 không ổn định do Nhật Bản bị ảnh hưởng trầm trọng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Năm 1997, xuất khẩu tăng 14,67% so với năm 1995 nhưng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cả nước lại giảm xuống mức thấp nhất –9,6%, đây cũng là năm khó khăn nhất của nền kinh tế Nhật Bản, suy thoái kinh tế trầm trọng. Mặc dù vậy vẫn chưa thoát khỏi giai đoạn đen tối của nền kinh tế Nhật Bản song kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2000 đã tăng tới 44,17%, nâng tỷ lệ tổng KNXK của cả nước lên 17,78% nhưng vẫn thấp hơn con số năm 1997. Sang năm 2001, do nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới tiếp tục bị suy thoái, chưa khôi phục nên xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản lại gặp khó khăn, kim ngạch giảm 2,54% so với năm 2000 và chỉ đạt 2509,8 triệu USD. Tốc độ tăng bình quân KNXK Việt Nam sang Nhật Bản trong giai đoạn 1995 – 2001 chỉ đạt 10,77% với tổng kim ngạch của 7 năm là 11522,1 triệu USD – con số và tốc độ này không tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam cũng như khả năng của thị trường Nhật Bản, thị trường đã từng đứng đầu về xuất khẩu của Việt Nam. 2.2.3. Một số mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang Nhật Bản Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản là các mặt hàng chủ yếu sau: Dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản, giáy dép, và linh kiện điện tử. Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2000 và năm 2001 đã có những tiến bộ, đã được đa dạng hoá, trong đó những mặt hàng đạt kim ngạch khác như dây điện và dây cáp điện (145,66 triệu USD); gỗ (100,39 triệu USD); nhựa (28,27 triệu USD) nhưng các mặt hàng chủ lực như dầu thô, giầy dép, dệt may, thuỷ sản, linh kiện điện tử lại giảm mạnh làm cho KNXK năm 2001 giảm. Bảng 20: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản của Việt Nam Đơn vị: Triệu USD Mặt hàng 1997 1998 2000 2001 Dầu thô 416,47 294,31 502,39 384,69 Hàng dệt may 325,05 320,92 619,58 519,50 Thuỷ sản 360,41 347,10 488,02 474,76 Giầy dép - 27,38 78,15 64,40 Linh kiện điện tử - - 78,42 50,82 Than đá 46,86 46,78 34,76 35,59 Rau quả 1,96 8,48 11,73 14,53 Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải quan 1997, 1998, 2000, 2001 Hàng rau quả Rau quả gồm chủ yếu là hành, bí ngô, bắp cải, suplơ xanh… Thời tiết và thời vụ có ảnh hưởng rất lớn đến việc nhập khẩu rau qua tươi của Nhật Bản. Rau quả tươi nhập khẩu vào Nhật Bản chịu sự kiểm tra theo luật bảo vệ thực phẩm. Ngoài ra tất cả các loại rau quả nhập khẩu chịu sự kiểm tra theo quy định của luật vệ sinh thực phẩm. Thị trường rau quả tươi của Nhật Bản có tính ổn định. Những nước cung cấp rau quả chủ yếu cho Nhật Bản là Mỹ(42%), Trung Quốc (30%), Đài Loan (8%), Thái Lan (6%), New Zealand (4%). Đây đều là những nhà xuất khẩu cạnh tranh của Việt Nam nên Việt Nam cần đa dạng hoá mặt hàng trên cơ sở lợi thế về điều kiện tự nhiên của mình và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Hàng thuỷ hải sản Nhật Bản là nước nhập khẩu các sản phẩm ngư nghiệp lớn nhất thế giới với khoảng trên 25% tổng sản lượng thuỷ sản nhập khẩu trên toàn thế giới. Tôm hùm đen đông lạnh là lượng tôm nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản còn nhập cả tôm pan dan nuôi. Hầu hết lượng tôm, mực đông lạnh chào hàng của ta đều được khách hàng Nhật Bản đặt mua. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản từ 1997 – 1999 liên tục giảm. Năm 1997 đạt 360,41 triệu USD, đến năm 1999 chỉ còn 340,80 triệu USD, giảm 19,61 triệu USD, tương đương 5,4%. Tuy nhiên sang năm 2000, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đã tăng trở lại 43,2% và chiếm tới 37% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Thị trường Nhật Bản tuy vẫn tăng về giá trị nhưng tỷ trọng giảm dần từ 42,3% năm 1998 xuống còn 26,14% năm 2001 và năm 2001 thị trường này tụt xuống vị trí thứ 2 sau Mỹ. Hàng dệt may Thị trường Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch tăng rất nhanh đặc biệt từ 1994. Năm 1997 Việt Nam trở thành 1 trong 7 nước xuất khẩu lớn nhất vào Nhật Bản. Trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của hầu hết các nước sang thị trường Nhật Bản giảm sút thì xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng. Hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản không chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại. Các loại áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe, áo sơ mi,… là những mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng nặng nề tới xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản tuy nhiên, những năm sau kim ngạch xuất khẩu lại gia tăng mạnh mẽ, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này đạt trên 600 triệu USD. Bảng 21: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản Đơn vị: Triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch 352,3 441,9 501 400 573,645 619,580 591,501 Nguồn: Vụ XNK Bộ Thương mại Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Nhật Bản chiếm tỷ trọng nhỏ, năm 1998 là 3% so với 7,4% của ý; Trung Quốc 67,9%. Nhật Bản là thị trường hàng may mặc lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Họ thường chú ý đến các chi tiết như đường chỉ, đường khâu ẩn,… Các nhà cung ứng hàng may mặc phải tránh những sai phạm tối kỵ như: màu sắc không chuẩn, sai kích cỡ, không đủ số lượng hoặc giao chậm… Hiện có 3 cách chính để thâm nhập vào thị trường may mặc Nhật Bản. Thứ nhất, bán hàng cho một số khách hàng sau đó chọn một trong số đó làm đại lý. Thứ hai, thành lập chi nhánh ở Nhật Bản, cách này rất tốn kém nhưng kết quả cao hơn. Thứ ba, cho các công ty Nhật Bản sử dụng nhãn hiệu hàng của mình, tuy nhiên họ sẽ mất quyền kiểm soát về nhãn hiệu hàng hoá. Hàng giầy dép. Nhật Bản nhập khẩu 3 loại giầy chính là: giầy da, giầy thể thao và giầy vải. Hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu giầy vải nhiều sang Nhật Bản, chiếm 4% thị trường nhập khẩu giầy vải của Nhật Bản. Mỗi năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng từ 45 – 60 tỷ yên. thị trường giầy vải, theo số liệu thống kê tương đối ổn định nhưng lại có chiều hướng giảm sút. Nguyên nhân là do sự giảm sút dân số ở độ tuổi đến trường ở Nhật Bản, lực lượng tiêu dùng lớn của mặt hàng này. 2.3. Thị trường Trung Quốc 2.3.1 Thị trường Trung Quốc đại lục a. Đặc điểm thị trường Trung Quốc đại lục Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới với KNXK chiếm 47% GDP. Trung Quốc và Việt Nam có nhiều nét tương đồng về thể chế và trình độ phát triển. Trung Quốc vừa là bạn hàng quan trọng đầy tiềm năng, vừa là đối thủ cạnh tranh đặc biệt sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Nhu cầu của thị trường trong nước khá đa dạng và được xem như là một thị trường dễ tính do có nhiều tầng lớp dân cư với mức thu nhập khác nhau. Trên thị trường cũng tồn tại nhiều loại hàng hoá quy cách, chất lượng khác nhau xa đến mức chênh lệch giá đến tới hàng chục hàng trăm lần. Thị trường Trung Quốc là nơi cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp nội địa với các hãng nước ngoài, giữa các hãng trong nước với nhau. Thực tế cho thấy nhu cầu tiêu dùng của người Trung Quốc ngày càng cao, nhất là các mặt hàng thực phẩm, việc kiểm tra đối với hàng nhập khẩu ngày càng trở nên khắt khe hơn. Do đó các nhà xuất khẩu Việt Nam không thể không chú trọng đến chiến lược, kế hoạch xuất khẩu của mình sang thị trường Trung Quốc. Trong quan hệ với Việt Nam, các doanh nhân Trung Quốc thích làm biên mậu vì Chính phủ Trung Quốc khuyến khích biên mậu thông qua việc giảm 50% thuế nhập khẩu và thuế GTGT. Vì vậy, các doanh nhân Trung Quốc thường sẵn sàng mua hàng biên mậu giá cao hơn chính ngạch. Tuy nhiên, kiểu kinh doanh này có thể gây rủi ro cho các nhà xuất khẩu vì họ không được thanh toán thông qua ngân hàng. b. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc Bảng 22: Tỷ trọng KNXK của Việt Nam sang Trung Quốc Đơn vị: Triệu USD 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng KNXK 9.185,00 9.360,30 11.541,40 14.482,70 15.030,00 KNXK sang Trung Quốc 521,38 487,93 858,87 1.400,00 1.418,10 Tỷ trọng (%) 5,68 5,21 7,44 9,67 9,44 Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải Quan năm 1997- 2001. Năm 1998 KNXK sang Trung Quốc có giảm nhưng sang năm 1999 lại tăng mạnh, từ 787,93 triệu USD lện 1.400 triệu USD. Thời kỳ 1991 – 1995 tỷ trọng KNXK sang Trung Quốc trung bình đạt 5,3%, đến năm 2000 con số này tăng lên 9,67%. Mặc dù tỷ trọng này không cao bằng tỷ trọng KNXK sang Nhật nhưng cũng là con số không nhỏ so với Mỹ (7%). Nếu xét về thị trường quốc gia thì Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn th ứ 4 của Việt Nam sau Nhật, Singapore và Đức. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và Trung Quốc tương tự nhau nhưng chính điều đó giúp Việt Nam thâm nhập vào thị trường này được thuận lợi hơn. Đối với biên mậu các doanh nghiệp Việt Nam cần rất thận trọng trong việc chọn đối tác để đảm bảo khả năng thanh toán, quan hệ lâu dài. Bảng 23: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc Mặt hàng 1997 1998 2001 Cà phê 3,56 2.028.887 2.606.057 Dầu thô 92,39 64,83 51,22 Gạo 87,77 86,72 591,44 Hải sản 3281 5154 240,01 Hàng dệt may 2,60 639,46 15,26 Hàng rau quả 24,85 10,45 15,26 Hạt điều 87,22 58,61 30,65 Than đá 19,12 5,23 18,65 Giày dép - 1,90 5,07 Tổng 521,38 487,93 1.418,10 Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải quan năm 1997, 1998, 2001. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc phần lớn là hàng nông sản như cao su, điều, rau quả. KNXK nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tuy chưa lớn song Trung Quốc lại là thị trường xuất khẩu số một của chúng ta (đặc biệt là cao su). Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định Biên Mậu (2/1999); Trung Quốc đã đồng ý nhập khẩu chính ngạch cao su Việt Nam. Năm 2001, chúng ta chỉ xuất được 51,22 triệu USD bằng 55,44% năm 1997. Hiện nay, Trung Quốc đã bổ sung hạn ngạch nhập khẩu cao su của Việt Nam lên 50.000 tấn, điều này đã có những ảnh hưởng tích cực tới ngành cao su Việt Nam . Năm 1998, kim ngạch của các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc đều giảm mạnh nhất là gạo từ 3,18 triệu USD năm 1997 xuống chỉ còn 0,33 triệu USD; hàng dệt may từ 2,60 triệu USD xuống còn 0,37 triệu USD; hàng rau quả từ 24,85 triệu USD xuống 10,45 triệu USD; chỉ có mặt hàng hải sản là giữ được tốc độ tăng trưởg xuất khẩu cao, sang năm 2001 đã đạt 240,01 triệu USD. Năm 2001 KNXK sang Trung Quốc đã tăng đạt 1,418 tỷ USD đó là do sự gia tăng của các mặt hàng dầu thô, gạo, hải sản, rau quả, than đá, giày dép, dệt may. 2.3.2 Thị trường Hồng Kông a. Đặc điểm thị trường Hồng Kông Thị trường Hồng Kông là một thị trường chuyển khẩu, tái xuất lớn của thế giới (lượng tái xuất chiếm tới 85% tổng KNXK của nước này). Đây là nền kinh tế mở, dựa chủ yếu vào XNK nên khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở khu vực thì xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nước này giảm hẳn kéo theo sự suy thoái của nền kinh tế và làm cho nhập khẩu giảm. triển vọng thương mại của Hồng Kông sẽ phụ thuộc vào việc Trung Quốc, thị trường chính của Hồng Kông, có thể phục hồi được nhu cầu trong nước và sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ trong thời gian tới, Do vầy, Hồng Kông chắc chắn sẽ có các hàn rào phi thuế quan để cản trở các hàng cạnh tranh với hàng đại lục, nên khi xuất hàng hoá sang thị trường này Việt Nam nên chú ý tới các tiêu chuẩn vệ sinh và chất lượng. Thị trường Hồng Kông là thị trường gần Việt Nam, vận tải thuận tiện, nhu càu nhập khẩu đa dạng với số lượng không lứon lắm, hoàn toàn miễn thuế xuất nhập và các doanh nghiệp Việt Nam hiểu khá rõ về thị trường này nên chúng ta vẫn cần duy trì, thúc đẩy quan hệ với họ, cần coi Hồng Kông là thị trường bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khác như Trung Quốc( đặc bệt là miền Nam), Đông Bắc á, Trung Cận Đông, Châu Âu và Mỹ vì Việt Nam còn gặp khó khăn khi xuất khẩu trực tiếp sang thị trường này. b. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Hồng Kông Việt Nam có thể thúc đẩy xuất khẩu sang Hồng Kông các mặt hàng: Hải sản, gạo, rau quả, nước mắm, hạt điều, dược liệu, đặc sản rừng và đồ trang sức. Các sản phẩm dệt may, giầy dép và các sản phẩm da của Việt Nam nhìn chung sẽ phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc gần như đang độc chiếm thị trường Hồng Kông. KNXK sang Hồng Kông tuy tăng đều từ năm 1991 (223 triệu USD) đến 1997 (472 triệu USD) giảm chút ít năm 1998 và 1999 chỉ đạt 235,7 triệu USD; năm 2000 và 2001 đã lấy được đà tăng trưởng (315,9 và 317,2 triệu USD). Nhưng tỷ trọng lại giảm từ 10,7% năm 1991 xuống 3,5% năm 1998 và năm 2001 chỉ còn 2,11%. Một mặt do sức mua của người dân Hồng Kông phục hồi chậm. Mặt khác do các doanh nghiệp Việt Nam đang dần tiếp cận trực tiếp với bạn hàng nước ngoài, không cần thông qua môi giới với thương nhân Hồng Kông như trước nữa, như vậy đây là điều đáng mừng. Một số hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông mang tính chất thời vụ, nên tham tán thương mại của Việt Nam ở Hồng Kông nên cung cấp các thông tin kịp thời và đầy đủ về lịch tiêu thụ này để Việt Nam có thể ký kết hợp đồng và chuẩn bị giao hàng cho kịp. Phương thức thanh toán tiền hàng của Việt Nam còn cứng nhắc, chủ yếu chỉ sử dụng phương thức thanh toán bằng L/C. Việt Nam có thể nghiên cứu sử dụng phương thức thanh toán gửi bán hoặc D/A, D/P. Bảng 24: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Hồng Kông Đơn vị: Triệu USD Mặt hàng 1997 1998 2000 2001 Cao su 2,32 0,54 5,42 2,86 Gạo 23,70 31,58 45,62 7,66 Hải sản 85,20 85,97 70,18 94,38 Dệt may 26,63 14,62 9,83 43,05 Hàng rau quả 1,79 5,09 3,32 4,33 Thủ công mỹ nghệ - - 12,11 7,82 Hạt điều 4,17 4,86 2,26 13,59 Giầy dép - 23,62 7,50 8,60 KNXK sang Hồng Kông 472,35 317,24 315,36 317,24 Tổng kim ngạch xuất khẩu 9,19 9,36 1448,30 1503,00 Tỷ lệ % 5,14 3,50 2,18 2,11 Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải quan năm 1997, 1998, 2000, 2001 2.3,3 Thị trường Đài Loan Nếu không tính Trung Quốc thì Đài Loan là nước có mức tăng GDP cao nhất hiện nay ở khu vực Đông nam á. Do thị trường xuất khẩu chính ở Đài Loan là Mỹ và các nước Châu Âu nên KNXK của Đài Loan không bị ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng Châu á. Đài Loan đang dần chuyển đổi nền kinh tế sang sản xuất với công nghệ cao. Quan hệ thương mại với Việt Nam: Đài Loan là bạn hàng xuất khẩu quan trọng thứ ba của Việt Nam sau Nhật Bản và Singapore. Giống Hàn Quốc, Đài Loan thường tạm nhập hàng của Việt Nam và xuất đi các nước thứ ba, đặc biệt là hai mặt hàng dệt may và giầy dép. Trong giai đoạn 1999 – 2000, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Đài Loan tăng lên rõ rệt. Thứ nhất, do nền kinh tế Đài Loan đang và sẽ tăng trưởng mạnh, nhu cầu trong nước cao. Thứ hai, Đài Loan coi Việt Nam là một trọng điểm quan hệ kinh tế đối ngoại của mình theo chính sách “Nam tiến, Đông hiệp”: dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế đối đẳng (MFN); dự thảo các hiệp định như Hiệp định thương mại, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định lao động. Thứ ba, hiện nay do giá nhân công trong nước cao nên Đài Loan di chuyển các ngành sản xuất cần nhiều lao động ra nước ngoài đặc biệt tới các nước Đông Nam á. Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để đẩy nhanh xuất khẩu của mình. Ngoài ra, Đài Loan đã trở thành thành viên của WTO nên đã có những cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Trong giai đoạn tới, Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Đài Loan các mặt hàng: sản phẩm gỗ – thuế nhập khẩu được duy trì ở mức thấp nhất (0,25%) và không có yêu cầu khắt khe về bảo vệ rừng nhiệt đới; hải sản (hiện tại thuế vẫn còn hơi cao 35 – 40%); cao su; dệt may ( mức thuế thấp 12,5%); giầy dép (mức thuế thấp 55); rau quả; chè (mức thuế 25% có thể giảm xuống). B. Châu Mỹ 2.4. Thị trường Mỹ 2.4.1. Đặc điểm thị trường Mỹ Mỹ là thị trường đầy tiềm năng đối với tất cả các nước xuất khẩu. Mỗi năm thị trường Mỹ tiêu thụ gần 1500 tỷ USD hàng hoá, chiếm 68%GDP và 40% thu nhập dân cư, gồm nhiều loại hàng hoá khác nhau, từ hàng máy móc thiết bị đến hàng da giầy may mặc, nông sản, thực phẩm,… trong đó có nhiều nhóm hàng mà Việt Nam có thể xuất khẩu vào Mỹ với số lượng đáng kể. Trong lĩnh vực thương mại Mỹ chiếm 25% giá trị tổng kim ngạch ngoại thương thế giới. Thị trường Mỹ là thị trường có dung lượng lớn nhưng cũng là thị trường khó tính, mặc dù có ít khắt khe hơn thị trường EU và Nhật Bản, đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng, bảo đảm vệ sinh công nghiệp. Trên thị trường Mỹ có hầu hết các loại sản phẩm, hàng hoá cạnh tranh có xuất xứ từ nhiều châu lục. Các doanh nghiệp Mỹ không thích làm việc qua trung gian, coi trọng luật lệ và luôn đòi hỏi trả lời nhanh chóng, rõ ràng. Mặc dù chủ trương tự do hoá thương mại nhưng Mỹ hiện nay có rất nhiều luật lệ quy định về kỹ thuật và chất lượng tạo thành các hàng rào phi thuế quan đối với hàng nước ngoài. Ngoài ra, Mỹ còn có các hiệp hội ngành hàng như Hiệp hội cà phê, Hiệp hội các nhà nhập khẩu hàng dệt may, Hiệp hội giày dép, hiệp hội chế biến kinh doanh hàng gia vị,… việc tham gia hoạt động của các Hiệp hội này có thể được xem là một biện pháp thâm nhập vào thị trường Mỹ hiệu quả nhất. Thông qua hiệp hội, các công ty xuất khẩu của Việt Nam có thể được tiếp xúc với các công ty thành viên qua mạng Internet, họp mặt, thư từ,… và điều quan trọng nhất là doanh nghiệp còn được cung cấp các số liệu về tình hình kinh doanh, xu hướng giá cả cũng như các giải pháp giải quyết các vướng mắc về thủ tục kinh doanh. 2.4.2. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Bảng 25: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ Đơn vị: Triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cà phê 3,25 73,23 86,31 59,21 69,93 60,02 Cao su 0,13 0,70 0,67 1,61 1,56 2,13 Gạo 100,24 63,50 39,03 4,95 10,66 7,16 Giầy dép - - 99.313,00 102.692,00 87,79 114,23 Thuỷ sản 28,53 42,55 81,55 125,60 304,36 482,42 Dệt may 8,74 23,04 26,34 34,71 49,57 47,46 Rau quả 1,23 5,03 2,56 - - 1,97 Hạt điều 12,48 14,65 16,73 21,18 44,70 44,07 Hoa quả - - - 3,21 2,18 - Dầu thô - - - 99,60 91,37 225,16 Loại khác 52,90 123,56 116,12 109,92 20,75 189,34 KNXK sang Mỹ 207,47 346,53 468,63 563,25 732,44 1.065,33 Tổng KNXK 7.260,00 9.185,00 9.361,00 11.540,00 14.480,00 15.030,00 Tỷ trọng % 2,86 3,77 5,00 4,88 5,06 7,09 Tốc độ tăng - 67,03 35,23 20,19 30,04 45,45 Nguồn: Cục diện KTTG và Việt Nam năm 2000 Thống kê của Tổng cục hải quan. Hàng năm, KNXK của Việt Nam sang Mỹ chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng KNXK của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu của thị trường Việt Nam sang Mỹ năm 1996 mới chỉ đạt 207,468 triệu USD – một con số không nhỏ sau khi Mỹ mới xoá bỏ cấm vận Việt Nam. Các năm sau, tốc độ tăng KNXK của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh: Năm 1997 tăng 67,03% so với năm 1996 đạt 346,543 triệu USD, nâng tỷ trọng trong tổng KNXK lên 3,77% từ 2,86% năm 1996. Năm 1998 và 1999 mặc dù nền kinh tế thế giới suy giảm mạnh mà đặc biệt là nền kinh tế Mỹ Nhưng KNXK của Việt Nam sang Mỹ vẫn đạt tốc độ cao. Năm 2001 đanh dấu sự kiện KNXK xuất khẩu sang Mỹ vượt quá con số 1 triệu USD. Đây là cố gắng của cả các nhà xuất khẩu lẫn nhập khẩu Mỹ. Trong việc thực thi HĐTM song phương Việt Mỹ. Tốc độ tăng năm 2001 đạt 45,45% so với năm 2000. 2.4.3. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ Hiện nay Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ các mặt hàng chủ yếu như cà phê, giầy dép, may mặc,… Việt Nam hiện đứng thứ 7 về giá trị xuất khẩu và thứ 5 về số lượng trong các nước xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ. KNXK mặt hàng cà phê của Việt Nam snag Mỹ là 86,3 triệu USD năm 1998 và giảm xuống còn 60,02 triệu USD năm 2001 do giá cà phê trên thị trường thế giới sụt giảm mạnh. Thị trường Mỹ chủ yếu tiêu thụ cà phê Arabica (70%). Mặt hàng dệt may của Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ là găng tay sợi bông (19,86%), quần sợi nhân tạo (6,8%), áo dệt kim (7,55%), áo sơ mi vải bông (33,8%), vải tơ tằm (5,17%), thảm len và thảm từ sơ dừa (26,82%). Năm 1998, mặc dù nhiều thị trường phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ vẫn ổn định và đạt kim ngạch 26,4 triệu USD. Tuy nhiên con số này vẫn còn rất nhỏ bé, năm 1997 chỉ bằng 0,04% tổng KNNK hàng dệt may của Mỹ. Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt và may Hoa Kỳ là hệ thống hạn ngạch. Hiện nay phía Mỹ đang soạn thảo hiệp định buôn bán hàng dệt may với Việt Nam. Sau khi hiệp định Thương mại Việt Mỹ được phê chuẩn, KNXK giầy dép của Việt Nam sang Mỹ không tăng mạnh (năm 1998 đạt 99 triệu USD và tăng lên 114 triệu USD năm 2001), do chênh lệch giữa thuế ưu đãi và không ưu đãi không lớn. Ngoài ra, do khả năng cạnh tranh của mặt hàng này không cao nên phải nhường thị phần cho nước láng giềng Trung Quốc (hiện Trung Quốc đang là nước đứng đầu các nước xuất khẩu giầy dép sang Mỹ). Việt Nam hiện nay chủ yếu sản xuất hàng gia công cho các nhãn hiệu nổi tiếng như Nike, Reebok… Việt Nam nhập khẩu từ Mỹ hàng nguyên phụ liệu và tái xuất khẩu giày dép thành phẩm sang Mỹ. Phần tái nhập vào Mỹ được hải quan Mỹ tính rất chi li để không phải đánh thuế nhập khẩu. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đang vấp phải đạo luật không chấp nhận các Basa và các Tra của Việt Nam được mang tên trong danh mục các lưu thông thông thường trên thị trường Hoa Kỳ. Bảng 26: 10 mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam có giá trị xuất khẩu cao nhất vào thị trường Mỹ năm 2001 Mặt hàng Giá trị (USD) Tôm 38.1504.383 Cá Basa và cá Tra 21.509.704 Cá ngừ 18.743.242 Cua, ghẹ 15.094.026 Mực ống 2.935.935 Sò điệp 2.045.463 Cá bơn dẹt 1.775.655 Cá thu 1.198.227 Nghêu 1.107.019 Đùi ếch 1.102.726 Nguồn: Ngoại thương, số 1 tháng 04/2002, trang 1 Bảng 27: Tỷ trọng các sản phẩm tôm trong mặt hàng tôm xuất khẩu sang Mỹ năm 2001. Mặt hàng Tỷ trọng (%) Tôm bóc vỏ đông lạnh 41,1 Tôm đông lạnh chế biến 20,7 Tôm nguyên vỏ đông lạnh các cỡ 37,1 Tôm đóng hộp 0,9 Các dạng tươi, khô, muối khác 0,1 Nguồn: Ngoại thương, số 1 tháng 04/2002, trang 12 Tổng nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam của Hoa Kỳ năm 2000 đạt 302 triệu tăng 2,5 lần (bằng 245% so với năm 1999, chiếm 25,1% trong tổng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam). Sang năm 2001, Việt Nam xuất được 482 triệu USD hàng thuỷ sản, chiếm 28% thị phần xuất khẩu của Việt Nam và đưa thị trường Hoa Kỳ lên đầu danh sách thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ gồm trên 30 loại với trên 100 sản phẩm chế biến khác nhau như đông lạnh, ướp muối, sấy khô, ăn liền, đóng hộp, hun khói và dạng tươi, sống. Tôm và cá là hai loại thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tới thị trường Mỹ: Tôm các loại (33.268 tán); các Basa và các Tra (7.765,3); các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý luận chung liên quan đến phát triển thị trường.doc
Tài liệu liên quan