Đề tài Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG I : VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG

 CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

I - KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:

II - VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG NHTM ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ:

III - CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI :

IV - CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM :

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI

 NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

I - KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM :

II - HOẠT ĐỘNG CHUNG CỦA NGÂN HÀNG

 CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM :

III - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN

 CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM :

1) Nguồn vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm:

2) Thực trạng của hoạt động huy động vốn của

 Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm:

CHƯƠNG III : MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN

 TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

I. NHỮNG MẶT CÒN TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN

 Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

II. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN

CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM TRONG THỜI GIAN TỚI.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG

 CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM TRONG THỜI GIAN TỚI:

1.Về phía Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm

2) Về phía Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng

 công thương trung ương:

PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỤC LỤC

 

 

doc57 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày nay đa số công nhân viên chức đều có tài khoản tiết kiệm bởi vì một mặt các công ty, xí nghiệp hợp lý nhất là trả lương không bằng tiền mặt, thêm vào đó ngân hàng thương mại lại có rất nhiều dịch vụ giúp cho chủ tài khoản thanh thanh toán kịp thời nhanh chóng các tài khoản chi tiêu thường kỳ của họ như : tiền thuê nhà, thuê bao điện thoại, nộp thuế ... Do đó tiền gửi không kỳ hạn đã trở thành một nguồn cho vay hết sức quan trọng đồng thười cũng đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng. Tiền g ửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi không dùng để thanh toán mà chủ yếu là để kiếm lời cao. So với tiền gửi vãng lai thì loại tiền gửi này có thời hạn gửi tiền dài hơn thông thường ít nhất là 1 tháng. Tiền gửi có kỳ hạn đối vơi snhh là số tiền gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho Ngân hàng nắm được vốn trong các thời kỳ đã có kế hoạhc cho vay không phải tồn quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường. Đo đó việc sử dụng nguồn vốn này cho vay rất hiệu quả, vì vậy lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. Đối với tiền có kỳ hạn đến hạn mới được lấy ra, nếu xét về nguyên tắc. Tuy nhiên trong trường hợp ngoại lệ người gửi muốn rút tiền ra trước thời hạn, trong trường hợp này có 2 cách giải quyết. Hoặc người gửi tiền ấy được vay của Ngân hàng một khoản tiền mà họ cần, sau đó khi đến hạn trả tiền sẽ sử dụng tiền đó để hoàn trả cho Ngân hàng. Hoặc thoả thuận với Ngân hàng rút trước thời hạn nhưng hưởng lãi suất thấp. Ta thấy trong mọi trường hợp thì Ngân hàng luôn tự chủ được về thời hạn hoàn trả tiền ký gửi cho khách hàng, vì vậy đấy là một nguồn rất quan trọng, có độ ổn định cao của Ngân hàng. b) Tiền gửi tiết kiệm: ở các nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp hoá phát triển tiền tiết kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này được coi như là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Gửi tiết kiệm là những người có được một số tiền tích luỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất định và muốn tích luỹ số tiền này theo kiểu “tích tiểu thành đại”, Hoặc do số tiền của họ không đủ lớn để đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc người chủ không có khả năng hoặc không thích kinh doanh, khi đó họ sẽ đến Ngân hàng để gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm chia làm 2 loại : - Gửi tiền có kỳ hạn. - Gửi tiền không kỳ hạn. Gửi tiền có kỳ hạn : nghĩa là gửi tiền theo một thời gian nhất định đến một ngày mới trả lại cho người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng... Với loại tiền gửi này tuỳ theo pháp luật của từng nứoc mà sẽ có những quy định cụ thể khác nhau về việc rút tiền. Đối với loại gửi tiền này thì người gửi tiền và quỹ tiết kiệm không phải thoả thuận trước về thời hạn rút tiền mà cả hai bên đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật. Ví dụ như : trong một thời hạn nhất định người gửi tiền chỉ được rút ra một số tiền nhất định, muốn rút số tiền lớn hơn phải báo trước cho Ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định được quy định. Gửi tiền không kỳ hạn : đây là hình thức gửi tiền mà thời hạn rút do bên người gửi và Ngân hàng tự thoả thuận. Đối với tiền gửi này các Ngân hàng thuộc cấc thành phần như nhân dân lao động, công nhân viên chức, học sinh, các khoản tiền này chủ yếu là để dành dụm nhằm trang trải chi tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản tiền lãi bù đắp co sịnh hoạt hàng ngày. Trong trường hợp đa số thời hạn báo trước là một vài ngày kể từ sau thời hạn thoả thuận rút tiền ban đầu. Qua một số điểm phân tích ta thấy, với loại tiền gửi có kỳ hạn thì Ngân hàng có thể dự tính được toàn bộ các vấn đề phát sinh đối với khoản tiền này như : khi nào phải trả tiền và sử dụng bao nhiêu và trong bao lâu theo các thời hạn khác nhau cho Ngân hàng chủ động biết được thời hạn của người gửi tiền và do tính thời hạn ổn định của loại tiền gửi này. Trong khi đó với loại tiền gửi không kỳ hạn, thời hạn rút tiền không ổn định do khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào, nếu họ cần vì vậy Ngân hàng không thể sự dụng toàn bộ số tiền này để cho vay mà chỉ dùng một phần mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, số còn lại thường thì Ngân hàng đầu tư vào cầm cố bất động sản, vào mua chứng khoán, công trái nhà nước ... đễ dễ dàng nhanh chóng chuyển để thanh thanh toán bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn luôn cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn và Ngân hàng làm như vậy là nhằm tăng cường khối lượng vốn ổn định cho mình. Trên đây là các hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trong khuôn khổ nguồn tiền ký gửi và tiết kiệm. Hiện nay, ở các nước trên thế giới (kể cả Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng. Bởi vì nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh các hình thức huy động vốn như trên, Ngân hàng thương mại còn một số hình thức huy động tiền tiết kiệm của dân cư như : + Tiết kiệm xây dựng nhà ở : đây là hình thức “đi vay để cho vay” của Ngân hàng. Hình thức đưa ra nhằm mục đích tạo vốn cho Ngân hàng nhưng đồng thời giúp dân cư có tiền để giải quyết vấn đề nhà ở, thông qua đó giảm bớt thời gian vốn bị ứ đọng. Theo hình thức này thì khách hàng phải gửi đủ tiền theo hợp đồng đã ký kết với Ngân hàng, sau một thời gian tối thiểu là 1 năm khách hàng được rút tiền gửi cả gốc và lãi đồng thời được Ngân hàng cho vay một số vốn tối đa bằng số tiền đã gửi và Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về việc huy động vốn và chuẩn bị đủ vốn để thanh thanh toán với khách hàng theo quy định. + Tài khoản séc dùng cho cá nhân : thủ tục mở tài khoản này giống như thủ tục gửi tiền tiết kiệm nhứng thay vì được phát một quyển sổ tiết kiệm người mở tài khoản sẽ được cấp một tập séc. Mọi khoản thanh toán của họ có thể thực hiện dưới hình thức phát séc. 3.2. Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng : Trong thực tế , các Ngân hàng thương mại luôn có sự không cân đối giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, vì vậy khi thiếu vồn đột xuất Ngân hàng thương mại có thể vay của các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường liên Ngân hàng. Thị trường này giúp cho Ngân hàng thương mại bổ sung nguồn vốn cho nhau, giải quyết nhanh nhu cầu thiếu hụt trong thanh toán vủa nền kinh tế. Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để trước khi cần yêu cầu đến tiền trung ương. Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức tài chính khác và chất lượng công tác thanh toán của Ngân hàng bởi nếu tỷ trọng của nguồn này lớn, chứng tỏ rằng Ngân hàng rất có uy tín trong quan hệ thanh toán cả đối với khách hàng và đối với các tổ chức tín dụng khác. ở nước ta hoạt động của thị trường liên Ngân hàng còn hạn chế về quy mô hoạt động , do đó khó khăn chung về nguồn vốn vủa cả hệ thống và thiều các định chế thích hợp. 3.3. Vốn phát hành: Vốn phát hành của Ngân hàng thuộc loại : “ chủ động thu gom” đây là hình thức huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động vốn ở trên đựoc xếp vào loại “bị động thu gom”. Xét về bản chất thì hai loại này không khác nhau nhiều, tuy nhiên nó khác nhau ở chỗ : Lãi suất “vốn chủ động đi vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. “vốn chủ động đi vay” được huy động theo sáng kiến của từng Ngân hàng, đây là khoản tiền nhận gửi có bảo đảm ché không phải tiền gửi đơn thuần. Vốn này cũng thuộc loại tín dụng dài hạn, trung hạn, ngắn hạn. Với loại “vốn chủ động đi vay” Ngân hàng hoàn thanh toánàn tự chủ về mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn là tuỳ thuộc vào thời hạn của vốn vay và mặc dù lãi suất xao hơn thông thường Ngân hàng vẫn được lợi nhiều từ hình thức huy động này. Tóm lại, với những hình thức huy động vốn như trên của Ngân hàng thương mại, các Ngân hàng có thể thực hiện được việc kết hợp giữâ huy động vốn và cho vay một cách nhịp nhành. Do đó, nếu thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của mỗi hình thức huy động vốn nói trên, Ngân hàng có thể vừa mở rộng đuợc thị trường đầy vào đồng thời mở rộng được luôn thị trường đầu ra cho mình, bảo đảm cho Ngân hàng luôn luôn nắm được thế chủ động trong kinh doanh kinh doanh. Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm của nền kinh tế, đặc điểm của từng khu vực hoạt động và đặc điểm của từng Ngân hàng mà các hình thức huy động này đuợc biến đổi và thực hiện cho phù hợp. Để thấy rõ hơn được hoạt động này tại Việt Nam, ta sẽ đi sâu vào xem xét thực tế của hoạt động huy động vốn tại một Ngân hàng thương mại cụ thể, đó là Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Chương II thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng công thương hoàn kiếm I - khái quát về Ngân hàng công thương hoàn kiếm : Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhấnh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Đây là khu vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - Văn hoá - Chính trị của thủ đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập trung của rất nhiều vằn phòng đại diện củ các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, trước đây Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm này là một chi nhành của Ngân hàng Nhà nước Hà Nội với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận. Nhưng cùng với sự chuyển đổi chung của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhành Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng được thay đổi cả về chức năng và nhiệm và trở thành Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm với chức năng hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và từ đó đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự toán kinh doanh, tự bù đắp và có lãi. Trải qua quá trình 8 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn toàn hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ chế thị trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Ta có thể thấy rõ được bước phát triển này qua những thành tựu mà Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đạt được trong thời gian qua. II - hoạt động chung của Ngân hàng Công thương hoàn kiếm : Về hoạt động huy động vốn : với phương trâm hoạt động là “đi vay để cho vay” Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm hết sức coi trọng công tác huy động vốn và coi đây là một trong các công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả trong hoạt động của mình. Nhìn nhận từ quan điểm đó, Ngân hàng luôn chú trọng đến công tác huy động vốn tại chỗ, Ngân hàng luôn coi trọng chiến lược khách hàng trong huy động vốn và đứa ra mọi biện pháp nhằm khai thác các nguồn vốn trên địa bàn như : tổ chức mạng lưới tiết kiệm rộng khắp với các hình thức huy động phong phú, đa dạng. Cụ thể trong địa bàn của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có tới 10 quỹ tiết kiệm với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau nhằm thu hút tối đa khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng còn vận động khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng. Phát hành trái phiếu tiết kiệm bảo đảm rằng vàng tạo độ tin cậy cao cho nhân dân. Nhờ vậy, mà Ngân hàng đã có chuyển biến tích cực từ thế bị động thiếu thốn của mấy năm trước sang chủ động tự cân đối hoặc vốn thừa gửi về quỹ điều hoà của Ngân hàng công thương Việt Nam. Nhờ đó trong năm 2001 tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 598 tỷ 451 triệu đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2000 với cơ cấu nguồn vốn đa năng. Về hoạt động sử dụng vốn : Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm công tác sử dụng vốn cũng được đề cao. Trên cơ sở nguồn vốn huy động tăng trưởng, Ngân hàng tiếp tục chủ trương biện pháp cho vay vốn nhằm nâng cao chất lượng công tác huy động vốn. Đây chính là nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Biểu đồ so sánh diễn biến nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay Đơn vị : Triệu đồng Khoản 2000 2001 2000/2001 mục ồ số Số % Trong đó ồ số Số % Trong đó Triệu Tỷ số VNĐ Ngoại tệ VNĐ Ngoại tệ đồng % I. Nguồn vốn huy động 319.092 100% 317.702 1.390 540.895 100 409.718 131.176 221.803 1. Tiền gửi DN 46.944 14,71% 46.508 436 207.578 38,38 100.895 106.683 160.634 2. Tiền gửi TK 271.522 85,12 271.177 375 329.116 60,85 304.964 24.421 57.564 3. Kỳ phiếu 596 0,17 17 579 4.201 0,77 4.129 72 3.605 II. Cho vay và đầu tư 141.596 100 125.672 15.924 358.050 100 301.645 56.414 261.464 1. Cho vay 136.596 96,47 120.672 15.924 353.060 98,60 296.645 56.414 261.464 2. Đầu tư 5.000 3,53 5.000 0 5.000 1,4 5.000 0 0 Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm luôn gia tăng qua các thời kỳ, cụ thể : Về hoạt động tín dụng : nguồn vốn huy động cuối quý IV/2001 là: 540.895 tăng 221.803 triệu đồng so với năm 2000. Với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh kết hợp với việc phát triển các nghiệp vụ dịch vụ Ngân hàng như : nghiệp vụ thuê hàng, nên số lượng khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng lớn. Do đó doanh số cho vay của Ngân hàng đạt 353.060 triệu đồng tăng 216.464 triệu đồng so với năm 2000 về số tuyệt đối. Về hoạt động đầu tư : trong năm 2001, với việc chú trọng đầu tư ngoài quốc doanh cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Ngân hàng đã đầu tư số vốn cho vay vốn đặc biệt là 41.197 triệu đồng giúp cho các doanh nghiệp trên địa bàn quận có đủ vốn để nâng cấp, mở rộng nhà xưỏng đổi mới máy móc thiết bị qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Về các hoạt động khác : về hoạt động kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã thu về trong năm 2001 là : 201.906.892 triệu đồng tăng so với năm 2000 là : 86.189.920 đồng, hoạt động này góp phần làm phong phú và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh thị trường, Ngân hàng còn có đóng góp rất to lớn vào việc thực hiện các chính sách thị trường - tài chính của Nhà nước, góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kiềm chế lạm phát và đảm bảo được đời sống vật chất, tính thần cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của Ngân hàng. Trên đây là một vài nét khái quát về tình hình hoạt động chúng của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong năm qua. Với mục đích của bài viết này lầ xem xét hoạt động đầu vào của Ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn, sau đây ta sẽ đi vào phân tích tình hình hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong thời gian qua. III - thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm : 1) Nguồn vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm: Với tư cách là một Ngân hàng thương mại trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm được hình thành từ các nguồn sau : - Nguồn vốn tự có. - Nguồn vốn huy động : đây là vốn chủ yếu quan trọng nhất để Ngân hàng thực hiện cho vay. - Nguồn vốn vay của Ngân hàng Nhà nước. - Nguồn vốn điều động từ các Ngân hàng khác trong hệ thống. Tuy nhiên, một đặc điểm khác biệt của Ngân hàng Hoàn Kiếm khác so với các Ngân hàng khác là : do nguồn gốc lịch sử của Ngân hàng Hoàn Kiếm, vốn caủa Ngân hàng được hình thành chủ yếu từ hai nguồn : nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động. Ta xem xét hai đặc điểm nói trên đó là : Do đặ điểm kinh tế của khu vực : Dân cư khu vực Hoàn Kiếm có mức thu nhập khá cao so với dân cư khu vực khác trong nội thành, do vậy số lượng tiền nhàn rỗi trong tay dân cư trên địa bàn quận là rất lớn. Đối với những người không tham gia hoạt động kinh doanh nhưng lại muốn vừa có thêm tiền vừa đảm bảo an toàn cho khoản tiền của họ, họ sẽ gửi tiền của mình dưới hình thức tiết kiệm hoặc mua kỳ phiếu Ngân hàng. Đây chính làa nguyên nhân tạo sự dồi dào trong nguồn tiết kiệm, nên với kinh doanh huy động vốn của Ngân hàng sẽ có một khoản tién hoạt động lơn. Trong khi đó ở đầu ra, khách hàng của Ngân hàng chính làa các hộ tư thương, các đơn vị sản xuất, các xí nghiệp có trụ sở trên địa bàn quận trong đó tư nhân chiếm phần lớn. Do vậy, trong năm 2001 tổng số tiền gửi tiết kiệm đạt mức 329.116 triệu đồng. Đây là một con số cao trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại. Thêm vào đó tổng số tiền phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm trong năm 2001 là : 4.201 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ rằng Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã biết khai thác hết sức mạnh của đặc điểm khu vực mình và hoạt động ngày càng có uy tín, do vậy ngày càng thu hút được một lượng tiền rất lớn phục vụ cho công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của Ngân hàng. Do đặc điểm lịch sử của Ngân hàng : Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trước đây là một đơn vị kinh tế với chức năng chính là bảo đảm vốn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ trên địa bàn quận. Còn đối với các doanh nghiệp lớn đều phải thực hiện quan hệ tín dụng của họ đối với hội sở chính. Chính điều này đã dẫn đến việc hạn chế bớt số lượng khách hàng đến với Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm và điều đó cũng có nghĩa là giảm bớt thị trường đầu ra của Ngân hàng. Cụ thể đó là doanh số tiền gửi doanh nghiệp ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm làa : 207.578 triệu đồng, một số chưa phải là cao so với các Ngân hàng thương mại khác. Như vậy, nguồn vốn của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm chỉ hình thành từ 2 nguồn chủ yếu đó là : nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động. Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm qua các thời kỳ Thời kỳ Quý IV/2000 Quý I/2001 Quý II/2001 Quý III/2001 Quý IV/2001 Chỉ tiêu DS % DS % DS % DS % DS % Nguồn vốn VTC 9424 8,26 9573 7,41 11765 8,27 11857 7,41 15986 7,3 Nguồn vốn huy động 104717 91,74 119672 92,59 130728 91,73 148215 92,59 199836 92,7 Tổng nguồn 114141 100 129245 100 142493 100 160072 100 215822 100 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng : nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng qua các thời kỳ kể cả về tỷ trọng và số tuyệt đối trong tổng nguồn. Tuy rằng về mặt số tuyệt đối vốn tự có cũng luôn tăng lên nhưng tỷ trọng của nó trong nguồn vốn có lúc lại giảm đi, hơn nữa do chức năng bảo vệ người gửi tiền của vốn tự có nên Ngân hàng chỉ có thể sử dụng duy nhất nguồn huy động để kinh doanh. Vì lý do đó và qua sự biến động của nguồn vốn huy động ở bảng trên ta thấy : đây là một xu hướng tốt trong hoạt động của Ngân hàng có được ngày càng nhiều vốn hơn cho hoạt động kinh doanh của mình. Doanh số cho vay của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm trong năm 2001 là : 358.060 triệu đồng và luôn có xu hướng tăng lên qua các thời kỳ, cho thấy sự mở rộng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn ở Ngân hàng không lớn lắm, song Ngân hàng tính đến thời điểm 12/2001 luôn trong tình trạng không sử dụng hết vốn huy động. Về tình trạng luôn dư thừa vốn huy động này, đứng trên góc độ một nền kinh tế là tốt vì 2 lý do : - Nó bảo đảm được sự tập trung vốn nhàn rỗi trong dân cư, biến tiền nhà rỗi vào đầu tư sản xuất kinh doanh, phù hợp với chính xác tạo vốn cho nền kinh tế mà Đảng và Nhà nước đề ra. - Nó đảm bảo cho người dân có tiền nhàn rỗi có được chỗ an toàn để gửi tiền đồng thời tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên dưới góc độ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì tình trạng này là không tốt vì nếu không điều động đi được thì đây là một gánh nặng về chi phí cho Ngân hàng còn nếu điều động được Ngân hàng sẽ bớt đi được gánh nặng về chi phí nhưng lại là hành động tiếp sức cho các đối thủ cạnh tranh của mình. Đó là những Ngân hàng thương mại đâng hoạt động trên địa bàn quận nói chung, hậu quả là Ngân hàng sẽ bị thu hẹp thị trường đầu ra. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có rất nhiều, ta sẽ xét một vài nguyên nhân chính sau : * Do chính sách tín dụng chưa phù hợp. * Do cơ cấu tiền huy động chưa phù hợp, tỷ trọng những khoản tiền huy động có lãi suất cao quá lớn, do vậy làm cho lãi suất đầu râ bị đẩy lên cao so với lãi suất trung bình khu vực, từ đó hạn chế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Mối nguyên nhân nói trên đều có những mức độ tác động nhất định đến sự hạn chế đầu ra của Ngân hàng. Tuy nhiên trên giác độ nghiên cứu về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng huy động vốn của Ngân hàng, ta chỉ xem xét tấc động của cơ cấu tiền huy động đến tình trạng này. Đi sâu và xem xét về thực trạng của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm chúng ta sẽ xem xét đến tác động của cơ cấu tiền huy động đến tình trạng trên. 2) Thực trạng của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm: Vấn đề huy động vốn của một Ngân hàng xoay quanh ba nghiệp vụ chính : - Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn) - Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn) - Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền) Một Ngân hàng thương mại, tất nhiên là phải huy động vốn thì mới có vốn cho vay và ngược lại cho vay có hiệu quả , kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động, đồng thời có làm tốt các nghiệp vụ trung gian thì các nghiệp vụ trên mới hoàn thành tốt. Đối với một Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ bên nợ tức là huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng nhất để pơt và 2 nghiệp vụ còn lại chỉ kết hợp hài hoà mà thôi. Chúng ta biết rằng Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn của Ngân hàng cũng mang tính chất đặc trưng riêng. Nếu như ở các doanh nghiệp khác, vốn để hoạt động kinh doanh phải chủ yếu là vốn tự có của bản thân doanh nghiệp nếu thiếu vốn thì mới phải phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay Ngân hàng. Ngược lại, Ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nên ngoài vốn tự có, vốn dự trữ và các loại vốn vay Ngân hàng khác, thì Ngân hàng không sử dụng những nguồn vốn đó làm nguồn vốn chính để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Mà nguồn vốn chính của Ngân hàng là Nháy chuột huy động được, vốn tự có của Ngân hàng chỉ nhằm mục đích gây sự tin tưởng và uy tín của Ngân hàng mình đối với khách hàng, còn các nguồn vốn khác chỉ nhằm mục đích hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường thì hướng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều hướng theo phương trâm “đi vay để cho vay”, không sử dụng đến nguồn vốn cấp phát, huy động theo hướng có lợi cho kinh doanh. Nhận rõ được điều đó Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ngày càng chú trọng theo định hướng đó, để nâng cao cả về số lượng và chất lượng của nguồn vốn huy động. Do vậy, trong thời gian qua Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã hủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng ngày càng cố gắng đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng đến vay vốn bằng cách luôn đảm bảo cho mình một nguồn vốn dồi dào, và việc khai thác vốn của Ngân hàng luôn dẹa trên cơ sở xác định được thị trường đầu ra, lĩnh vực đầu tư có mang lại hiệu quả không ? lãi suất ra sao ? Thêm vào đó, Ngân hàng đã xác định được cho mình cách thức cũng như chất lượng huy động vốn nhanh, nhiều, ổn định, đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, và luôn theo định hướng kinh tế của Nhà nước. Cách thức, huy động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm làa : - Nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. - Phát hành kỳ phiếu. - Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế. - Vây các tổ chức tín dụng khác. Ta sẽ đi xem xét từng loại hình huy động vốn nói trên : a) Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Đây là nguồn lớn thứ 2 trong cơ cấu huy động vốn, chúng ta đang trên đà công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước nhiều nhà máy mới mọc lên nhưng ngoại trừ những nhà máy liên doanh với nước ngoài hoặc 1 số nhà máy làm ăn thực sự có hiệu quả là có nguồn vốn tự có lớn, còn lại đa số các doanh nghiệp còn lúng túng trong việc tìm kiếm thị trường, do họ có vốn tự có rất thấp. Vì thế nguồn vốn huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng chưa cao. Tuy nhiên trong thời gian qua, do nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, các nhà doanh nghiệp làm ăn đã có hiệu quả thật sự, lãi thực sự, nên nguồn tiền gửi ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã có kết quả cao. KếT CấU NGUồN VốN HUY ĐộNG QUA CáC THờI Kỳ Đơn vị : Triệu đồng Thời kỳ Quý IV/2000 (31-12-2000) Quý I/2001 Quý II/2001 Quý III/2001 Quý IV/2001 Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tiền gửi các tổ chức kinh tế 42125 37,67 45897 33,9 48275 34 52179 35,1 61227 37,12 Tiền gửi tiết kiệm 67889 60,71 78275 57,8 80129 56,44 82357 55,4 88355 53,57 Kỳ phiếu 875 0,78 927 0,68 1050 0,74 1102 0,75 1122 0,68 Vay các tổ chức tín dụng khác 927 0,84 10279 7,62 12570 8,82 13021 8,75 14222 8,63 Tổng nguồn 111816 100 135378 100 141961 100 148659 100 164926 100 Tính đến 31-12-2001 đạt 61227 triệu đồng (Quý IV/2001) chiếm tỷ trọng 37,2% trên tổng nguồn vốn huy động và tổng số tiền gửi của các tổ chức kinh tế gửi tại Ngân hàng Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong năm 2001 là : 207.578 triệu đồng, chiếm tỷ trọng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0138.doc
Tài liệu liên quan