Đề tài Một số biện pháp thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào du lịch

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN NỘI DUNG 2

CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ KINH TẾ ĐẦU TƯ 2

I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN: 2

1. Khái niệm đầu tư: 2

2. Khái niệm đầu tư phát triển: 2

II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ DU LỊCH: 3

1. Vốn đầu tư cho một dự án tương đối lớn: 3

2. Thời gian thực hiện đầu tư không dài: 3

3. Thời gian sản xuất kinh doanh dài: 3

4. Sản phẩm của đầu tư hoạt động ngay nơi mà nó được tạo nên: 3

5. Thường là ít rủi ro hơn đầu tư vào các lĩnh vực khác: 4

III. NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀO DU LỊCH: 4

1. Nguồn trong nước: 4

2. Nguồn vốn nước ngoài: 4

IV. NỘI DUNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ: 5

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM 6

I. VÀI NÉT VỀ DU LỊCH: 6

1. Khái niệm: 6

2. Phân loại du lịch: 6

3. Nguồn lực để phát triển du lịch: 7

4. Đặc điểm của tiêu dùng du lịch: 9

5. Vai trò của du lịch. 10

II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG

NHỮNG THỜI GIAN QUA: 12

1. Thành quả đạt được: 12

2. Những yếu kém: 23

CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ VÀO DU LỊCH 26

I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH NHỮNG NĂM TỚI: 26

II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ

VÀO NGÀNH DU LỊCH: 27

KẾT LUẬN 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan các điểm du lịch. 3.6. Nguồn lực bên ngoài: Việc đặt các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp cho sự quảng bá ngày càng rộng rãi về các di tích, lễ hội, danh lam thắng cảnh... của Việt Nam với bạn bè quốc tếđể thu hút mọi người đến tham quan và đầu tư ở Việt Nam. Đòng thời cũng tạo điều kiện cho các nước hợp tác với Việt Nam để hình thành tuyến du lịch xuyên quốc gia, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. 4. Đặc điểm của tiêu dùng du lịch: Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một vùng thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do đó hiểu rõ những đặc điểm tiêu dùng du lịch sẽ giúp các nhà đầ tư định hướng và đưa ra những chiến lược đầu tư đúng nhằm khai thác triệt để những lợi thế của mình. 4.1. Nhu cầu trong tiêu dùng du lịch là những nhu cầu đặc biệt: nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh văn hoá, bơi và tắm biển, hồ, sông... của con người. Từ đó ta có thể lựa chọn địa điểm đầu tư phù hợp.Chẳng hạn để phù hợp với nhu cầu trên,ta sẽ xây dựng những nhà nghỉ ở gần các bãi tắm mua sắm phương tiện để đưa đón khách đi tham quan...Đồng thời đào tạo nhân viên để tiếp, đón, hướng dẫn khách du lịch chu đáo tận tình giúp du khách hiểu rõ văn hoá,lịch sử và con người Việt Nam. 4.2. Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu về hàng hoá (thức ăn,hàng hoá mua sẵn,hàng lưu niệm...)và đặc biệt chủ yếu là các nhu cầu về dịch vụ (lưu trú,vận chuyển hành khách,dịch vụ y tế,thông tin...). Mặt hàng lưu niệm ở nước ta chưa phát triển và chưa chú trọng đầu tư khai thác,nhiều điểm du lịch du khách đến không biết mua gì để làm lưu niệm,hoặc các điểm du lịch có hàng lưu niệm tương tự nhau và ít chủng loại,kiểu dáng,mẫu mã chưa thật độc đáo,chưa thoả mãn tính hiếu kỳ của du khách. Nắm được điểm yếu này nếu ta biết tận dụng những điêu kiện sẵn có của Việt Nam cộng với việc học hỏi bên ngoài để làm ra các mặt hàng lưu niệm phù hợp với từng nơi,từng vùng và có ý nghĩa đối với những danh thắng cảnh của vùng đó thì sẽ tạo ra một nguồn thu không nhỏ. Cũng tương tự như vậy các nhà đầu tư có thể đầu tư vào lĩnh vực ăn uống, nơi ở của du khách. Tưởng thức ẩm thực cũng là một trong những mục tiêu quan trọng trong chuyến du lịch của du khách. 4.3 Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá (thức ăn) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điển sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển du lịch và hàng hoá đến cho khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đến nơi có hàng hoá. Diều nqỳ là một lợi thế đối với nhà kinh doanh họ đồng thời sẽ giãm được chi phí vậ chuển hàng hoá, chi phí bảo quản, đồng tời sản phẩm của họ sẽ được quảng cáo bởi du khách đến tham quan. 4.4. Tiêu dùng du lịch xảy ra đồng thời theo thời vụ: Nhờ thế ta biết được nên sản xuất mặt hàng gì theo từng mùa để chủ động thong việc kinh doanh vàthay thế sản phẩm để tận dụng được lợi thế. Chính khoảng cách các thời vụ là thời gian nhằm tôn tạo, đầu tư, chuẩn bị tốt cho thời vụ sắp tới, để có thể chủ động và phục vụ tốt trong thời vụ này. 5. Vai trò của du lịch. 5.1. Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông, do vậy gây ảnh hưởng lớn lên các lỉnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. 5.2. Kinh tế du lịch gây biến đổi lớn trong cơ cấu của cán cân thu chi của đất nước của vùng du lịch. Đối với du lịch quốc tế, việc khách mang ngoại tệ đến đổi và tiêu ở khu du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Như vậy hoạt động của du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế làm sống động cán cân thanh toán của đất nước du lịchvà thường được sử dụng để mua sắm máy móc, thiết bị cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chát kỹ thuật cho đất nước. Còn dối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân ở vùng du lịch chỉ gây biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng, chứ không làm thay đổi tổng sốnhư tác động của du lịch quốc tế. Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi số lượng lớn vật tư và hàng hoá đa dạng. Ngoài việc khách hàng mang tiền kiếm được từ nơi khác đến tiêu ở vùng du lịch góp phần làm sống động kinh tế của vùng du lịch và đất nước du lịch. 5.3 Du lịch góp làm tăng thu nhập quốc dân (đối với du lịch quốc tế, hoạt động ăn uống trong du lịch nội địa, sản xuất hàng lưu niệm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật... )trên hai mặt sámg tạo và sử dụng. 5.4. Thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp như : công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi... Du lịch luôn đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do vậy, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển các ngành ấy trên các mặt : số lượng, chaats lượng, chủng loại sản phẩm và việc chyên môn hoá của các xí nghiệp trong sản xuất. ảnh hưởng của du lịch lên sự phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như: thông tin, xây dựng, y tế, văn hoá... cũng rất lớn. Sự sản sàng đón tiếp khách du lịch của một vùng không chỉ thể hiện ở chỗ những nơi đó có tài nguyên du lịch, mà bên cạnh chúng phải có cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bưu điẹn, ngân hàng, mạng lưới thương nghiệp.... Việc tận dụng đưa những nơi có tài nguyên du lịch vào sử dụng, kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng ở đó hệ thống đường sá, mạng lưới thương nghiệp, bưu điện... qua đó cũng kích thích sự phát triển tương ứng của các ngành liên quan. Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công truyền thống phát triển. 5.5 Du lịch góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào trong chu chuyển, vì chi phí cho hành trình du lịch là từ tiền tiết kiệm của dân. 5.6. Việc xuất khẩu bằng du lịch quốc tế luôn đảm bảo doanh thu lớn hơn nhiều nếu cùng những hàng hoá đó đem xuất theo đường ngoại thương. Hàng hoá trong du lịch được xuất với giá bán lẽ, luôn đảm bảo cao hơn giá xuất theo đường ngoại thương là bán buôn. Trong nhiều thường hợp qua giá hàng trong du lịch quốc tế còn đảm bảo thu được “địa tô du lịch”. Đièu đó thể hiện ở giá của những cơ sở du lịch mằm trong trung tâm du lịch. Ví dụ: giá các khách sạn trung tâm thành phố, các khách sạn gần biển, quay ra biển... luôn cao hơn giá các khách sạn xa trung tâm thành phố, xa biển và không nhìn được ra biển. Đó làg chưa kể đén những trường hợp ở ngoại thương do nhu cầu ngoại tệ, phải xuất khẩu với giá hàng thấp hơn giá thành sản xuất ra chúng và do vậy số lỗ càng tăng khi xuất khẩu đi càng nhiều. 5.7. Du lịch là phương tiện giáo dục lòng yêu đất nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn cảnh... người dân có điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử văn hoá dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình. Sự phát triển du lịch còn góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội. II. Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong những thời gian qua: 1. Thành quả đạt được: 1.1. Về vốn đầu tư: Trong những năm qua, ngành du lịch đã huy động được một lượng lớn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau (ngân sách nhà nước, tư nhân, nguồn hợp tác và đầu tư nước ngoài...). Trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1999 đã có 237 dự án đầu tư vào du lịch với số vốn đăng kí là 7585 triệu USD, chủ yếu đầu tư xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, phát triển đô thị..., trong đó vốn đã thực hiện 2553 triệu USD (chiếm 33,66%). Số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành du lịch những năm gần đây thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 1996-1998 phân theo ngành kinh tế, tính theo giá hiện hành (Đơn vị tính: tỷ đồng) 1996 1997 1998 Tổng số 79.367,4 96.870,4 97.336,1 Khách sạn và nhà hàng 4.619,5 5.390,5 4.305,7 (Nguồn: Niên giám thống kê 1998, 1999) Vốn xây dựng cơ bản của khách sạn và nhà hàng chỉ chiếm hơn 4% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội (năm 1996 chiếm 5,82%; năm 1997 chiếm 5,56%; năm 1998 chiếm 4,42%) và tỉ lệ này giảm dần qua các năm, mặc dù năm 1997 xét về lượng tuyệt đối thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành khách sạn và nhà hàng có tăng hơn so với năm 1996 là 771 tỷ đồng. Và lượng vốn năm 1998 so với năm 1997 giảm 1084,8 tỉ đồng. Như vậy lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành khách sạn và du lịch giảm dần qua các năm. Một phần nguyên nhân là do hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực này giảm dần. Các kết quả đầu tư hoạt động không hết công suất. Chẳng hạn năm 1998 vốn đầu tư vào du lịch cả nước là 168,2 tỉ đồng (theo giá hiện hành) trong đó đầu tư cho xây lắp: 35,3 tỉ đồng; đầu tư cho thiết bị là 131,7 tỉ đồng ; đầu tư cho xây dựng cơ bản khác là 1,2 tỉ đồng. Như thế lượng vốn đầu tư chủ yếu giành cho mua sắm, sửa chữa thiết bị chiếm 78,3%. Xét về lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch trong những năm qua thể hiện ở bảng sau ; Bảng 2: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1988-1999) phân theo ngành kinh tế: Số dự án Tổng vốn đăngký ( tỉ USD) Vốn pháp định (tỉ USD) Tổng số 2.800 27,0884 17,0481 Khách sạn và nhà hàng 200 4,812 2,0698 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 1999) Ta thấy trong khoảng thời gian 1988-1999 số dự án đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm 7,145 tổng số dự án đầu tư với số đăng kí chiếm 17,76% và vốn pháp định chiếm 12,14%. Như vậy số dự án và lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành khách sạn và nhà hàng có đóng góp đáng kể vào đầu tư của đất nước. Xét riêng hai năm 1998 và 1999 ta thấy lượng vốn đăng kí đầu tư vào khách sạn nhà hàng giảm mạnh (635,6 triệu USD). Bảng 3: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1998-1999) phân theo ngành kinh tế : Năm Số dự án Số vốn đăng kí (triệu USD) Số vốn pháp định (triệu USD) 1998 5 783,6 31,8 1999 6 148 14,9 (Nguồn : Niên giám thống kê 1998-1999) Và số đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng đa dạng: ở Tây Âu, châu á, châu úc, Bắc Mỹ... đặc biệt là các nước ở châu á (Đài Loan, Hồng Công,Singapo, Hàn Quốc, Nhật Bản).Họ chủ yếu đầu tư vốn vào lĩnh vực khách sạn dưới hình thức liên doanhvà đầu tư vào những thành phố kớn như: đầu tư xây dựng khách sạn Metrpole 48 triệu USD (Hà Nội), khách sạn cột cờ Thủ Ngữ 76 triệu USD (Thành phố Hồ Chí Minh),khách sạn DAEWoo (Hà Nội),khách sạn Hilton (Hà Nội), khách sạn New World (Thành phố Hồ Chí Minh).... Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước hơn 10 năm qua (1988-1999) ta đã thu hút được 2773 triệu USD. Như vậy lượng vốn trong nước đầu tư vào du lịch ít hơn nước ngoài, chiếm 36,56% tổnh số vốn đăng kí đầu tư vào du lịch. Những năm trở lại đây chúng ta đã có sự khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và người dân tham gia đầu tư vào du lịch. Số khách sạn và nhà hàng của tư nhân và nhà nước đã được đầu tư và đưa vào phuc vụ khá nhiều, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.2. Đóng góp vào sản phẩm quốc nội: Những năm qua ngành du lịch đã có những đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm quốc nội. Thể hiện ở bảng sau: Bảng 4: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính:tỉ đồng ) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 228.892 272.036 313.623 361.016 399.942 Khách sạn và nhà hàng 8.625 9.776 11.307 12.404 13.341 (Nguồn: NGTK 1999) Bảng 5 : Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính:%) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 100 100 100 100 100 Khách sạn và nhà hàng 3,77 3,59 3,61 3,44 3,34 (Nguồn: NGTK 1999) Qua bảng 4 ta thấy ngành du lịch (khách sạn và nhà hàng )đã đóng góp vào sản phẫm quốc nội ngày càng tăng về tuyệt đối. Năm 1996 đóng góp vào GDP tăng 1135 tỉ đồng (=9776-8625) so với năm 1995 và cứ tiếp tục như thế năm 1997 tăng 1097 tỉ đồng, năm 1999 so với năm 1998 tăng 937 tỉ đòng. Như vậy chỉ năm 1997 so với năm 1996 tăng cao hơn năm 1996 so với năm 1995. Còn từ năm 1997 trở đi, phần gia tăng các năm sau so với năm trước giảm dần. Xét về so tương đối ta thấy rất rõ : năm 1995 lĩnh vực khách sạn và nhà hàng chiếm tỉ trọng trong sản phẩm quốc nội là cao nhất 8,77% so với năm tiếp theo, năm 1996 nó giảm đi 0,18% chỉ còn chiếm 3,59%. Đến năm 19977 tỉ trọng đó lại tăng lên 0.02% (không đáng kể), chiếm 3,61% và các năm sau tỉ trọng tiếp tục giảm xuống. Đây là hiện tượng không tốt bởi vì chúng ta đang phấn đấu nâng dần tỉ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội.Nếu xét về số tuyệt đối qua các năm lượng đóng góp của ngành khách sạn nhà hàng vào GDP có tăng, nhưng tăng không đáng kể, tức là tốc độ tăng không bằng tốc độ tăng của các ngành khác nên dẩn đến tỉ trọng của chúng giảm. Để đánh giá rõ hơn nguyên nhân trên ta xét doanh thu của ngành du lịch để xem xét kết quả kinh doanh trong những năm qua: Bảng 6 : Kết quả kinh doanh của ngành du lịch 1996-1999. 1996 1997 1998 1999 Số lượt khách ngành du lịch phục vụ (lượt khách) 9.970.234 9.380.521 9.449.600 8.317.557 Tổng số doanh thu của các đơn vị kinh doanh du lịch (tỉ đồng) Trong đó: -phục vụ khách quốc tế -phục vụ khách trong nước -phục vụ người VN đi du lịch nước ngoài 5.969,480 3.206,608 2.747,547 15,325 6.430,175 3.575,707 2.811,558 62,910 6.631,049 3.387,624 3.196,613 46,812 6.519,861 3.792,377 2.673,080 54,405 (Nguồn: NGTK 1999) Doanh thu du lịch năm 1990 chỉ có 650 tỉ đồng, nhưng năm 1996 đã tăng lên đến 5969,48 tỉ đồng; gấp hơn 9 lần năm 1990, và liên tục tăng trong những năm sau: Năm 1997 tăng 460,695 tỉ đồng so với năm 1996; năm 1998 tăng 200,874 tỉ đồng so với năm 1997; năm 1999 giảm 111,188 tỉ đồng so với năm 1998. Trong đó nếu xét về doanh thu của các bộ phận cấu thành tổng doanh thu của toàn ngành du lịch thì ta thấy doanh thu từ sự phục vụ khách quốc tế là cao nhất trong các năm: Năm 1996 chiếm đến 53,72% tổng doanh thu toàn ngành; năm 1997 chiếm 55,61%; năm 1998 chiếm 51,09%; năm 1999 chiếm 58,17%. Như vậy liên tục qua các năm doanh thu từ việc phục vụ khách quốc tế quyết định doanh thu toàn ngành du lịch (chiếm trên 50%); thứ đến là doanh thu từ việc phục vụ khách trong nước cũng khá cao (năm 1996 chiếm 46,02%; năm 1997 chiếm 43,72%; năm 1998 chiếm 48,21%; năm 1999 chiếm 41%), còn doanh thu từ việc phục vụ những người Việt Nam đi du lịch nước ngoài không đáng kể (dưới 5% tổng doanh thu toàn ngành). Như vậy, qua số liệu trên (1996-1999) ta thấy tốc độ tăng doanh thu trong ngành du lịch giảm dần và thậm chí doanh thuuu năm 1999 còn thấp hơn năm 1998 đến 111,188 tỉ đồng. Có thể nói doanh thu ngành du lịch tăng không đáng kể và giảm là nguyên nhân đưa đến sự đóng góp của ngành vào tổng sản phẩm quốc nội tăng chậm và tỉ trọng giảm dần từ năm 1997 đến nay. Xét về hiệu quả sử dụng vốn thì trong ngành du lịch cao hơn các ngành khác. Đến năm 1998, ngành du lịch chỉ được cấp có 1,89% so với tổng vốn đầu tư nhưng hiệu quả là 2,03 đồng ; trong khi đó công nghiệp là 0,57 đồng, bưu điện là 0,53 đồng....Như vậy đầu tư vào du lịch hiệu quả một đồng vốn cao hơn các ngành khác rất nhiều, so với ngành công nghiệp nó gấp gần 4 lần (3,56 lần), còn so với ngành bưu điện thì nó gấp 5,8 lần. Chính vì hiệu quả cao hơn này, trong giai đoạn đầu của quá trình mở cửa,lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này chiếm tỷ trọng lớn. Nếu dựa theo bản qui hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kì 1995-2010 thì mục tiêu tổng quát của ngành du lịch Việt Nam đến năm 2000 đón 3,5-3,8 triệu khách quốc tế. Doanh thu từ du lịch quốc tế (không kể vận chuyển) đạt khoảng 2,6 tỉ USD vào năm 2000 và khoảng 11,8 tỉ USD vào năm 2010. Dự kiến đến năm 2000 ngành du lịch sẽ đóng góp 9,6% và đến năm 2010 khoảng 12% tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Nếu tính cả GDP của ngành du lịch và các ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động du lịch thì dự kiến chỉ số nói trên sẽ đạt 18,6% vào năm 2000 và 27% vào năm 2010. Như vậy ngành công nghiệp không khói này đã và đang có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế. 1.3. Tạo ra công ăn việc làm: Trong 10 năm (1990-1999) trở lại đây lượng khách quốc tế vào nước ta tăng lên 7 lần, khách nội địa tăng 10,5 lần, hoạt động du lịch đã tạo việc làn cho 15 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Sau đây sẽ xem xét số lao động làm việc trong ngành du lịch của khu vực nhà nước ở bảng sau: Bảng 7: Lao động bình quân trong khu vực nhà nước phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính: Nghìn người) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 3.053,1 3.137,7 3.266,9 3.3833,0 3.370,4 Khách sạn và nhà hàng 34,6 37,7 37,3 38,4 35,6 (Nguồn: NGTK 1999) Qua bảng trên ta thấy lĩnh vực du lịch đã giải quyết được việc làm cho một số lao động trong khu vực nhà nước, tuy rằng tỉ lệ đó chưa nhiều và biến động tương đối thất thường (năm 1995 chiếm 1,13% tổng số lao động làm việc trong khu vực nhà nước; năm 1996 chiếm 1,2%; năm 1997 chiếm 1,14%; năm 1998 chiếm 1,135%; năm 1999 chiếm 1.06%). Từ đó ta thấy số lao động trong ngành du lịch năm 1999 chiếm tỉ trọng thấp nhất, và số lao động phục vụ trong khách sạn & nhà hàng năm 1996 tăng so với năm 1995 là 3100 người, năm 1997 so với năm 1996 giảm 400 ngưòi, năm 1998 so với năm 1997 tăng 1100 người, còn năm 1999 (sơ bộ) so với năm 1998 giảm 2800 người. Như vậy năm 1996 có tốc độ tăng cao nhất và năm 1999 số lao động trong ngành này giảm mạnh. Dù thế thì ngành du lịch cũng đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và tạo thu nhập cho họ. Thu nhập bình quân của số lao động làm việc trong lĩnh vực khách sạn & nhà hàng trong khu vực nhà nước có xu hướng tăng dần qua các năm. Thể hiện ở bảng sau: Bảng 8: Thu nhập bình quân một người một tháng của lao động trong khu vực nhà nước phân theo ngành kinh tế (giá hiện hành) (Đơn vị tính: Nghìn đồng) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 478,2 543,2 642,1 697,1 698,3 Khách sạn và nhà hàng 580,2 642,3 614,7 645,7 655,3 (Nguồn: Niên giám thống kê 1999) So với thu nhập bình quân chung của cả nước thì hai năm 1995 và 1996 ngành du lịch có thu nhập bình quân cao hơn khoảng 100.000 đồng. Còn những năm 1997, 1998, 1999 thì nó thấp hơn thu nhập bình quân chung, nhưng so với ngành thì nó tăng dần (trừ năm 1997). Ngoài những lao động trong ngành du lịch của khu vực nhà nước thì khu vực ngoài quốc doanh số lao động tham gia trong ngành du lịch cũng cao, chiếm khoảng 60% toàn bộ lao động phục vụ ngành du lịch. Họ tham gia lao động trong các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, dưới hình thức là người trực tiếp quản lý hoặc làm thuê. Bộ phận này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Nước ta có tỉ lệ thất nghiệp cao (năm 1998 tỉ lệ thất nghiệp là 6,85%; năm 1999 là 7,4%). Vì thế việc chú trọng đầu tư phát triển ngành du lịch theo đúng hướng và biết dựa vào tiềm năng du lịch của mỗi vùng để phát huy thế mạnh của vùng đó sẽ góp phần đáng kể tạo việc làm, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp. Tiềm năng du lịch của nước ta rất phong phú, có đầy đủ các loại hình du lịch và trải rộng từ Bắc vào Nam như: du lịch bồi dưỡng sức khỏe, nghỉ biển, du lịch hang động, du lịch chơi golf, thể thao, câu cá, sông nước, du lịch cho người ham thích thủ công mỹ nghệ, du lịch làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống dân tộc, du lịch hội nghị, festival... Chúng ta nên dựa vào thế mạnh này để đưa ra chiến lược phát triển du lịch lâu dài, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Nhà nước nên khuyến khích các địa phương thực hiện và hỗ trợ vốn. 1.4. Mang lại cho đất nước một cơ sở hạ tầng vật chất quan trọng: Trong các năm qua nhờ có sự đầu tư của nước ngoài và đầu tư trong nước vào lĩnh vực du lịch mà hệ cơ sở vật chất kỹ thuật được tạo ra, nâng cấp ngày càng hiện đại. Chúng ta đã có được một hệ thống công trình kiến trúc phục vụ cho việc lưu trú của khách du lịch hiện đại, ngang bằng với các nước trong khu vực như khách sạn (ở Hà Nội có: Daewoo, Niko, Metrophle, tháp Hà Nội, Metritus, SAS, Hilton, Green Park...; ở thành phố Hồ Chí Minh có: New World, Ommi, Equatorial, Royal...; ở Huế có khách sạn Century; khách sạn Palace (Đà Lạt); Novotel (Phan Thiết)...). Nhiều khách sạn được xếp hạng đạt tiêu chuẩn 2, 3, 5 sao. Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội hiện nay có tới gần 70 khách sạn được xếp hạng. Chúng ta cũng có được một hệ thống công trình kiến trúc phục vụ cho việc ăn uống, giải trí cho khách du lịch như: nhà hàng, quán bar, vũ rrường, bể bơi, sân thể thao... Chẳng hạn như sân Golf-Đồng Mô, Đà Lạt, Phan Thiết, Thủ Đức...; công viên Đầm Sen, suối Tiên (thành phố Hồ Chí Minh); công viên nước Hồ Tây (Hà Nội); bể bơi Tây Hồ... Ngoài ra, còn có một hệ thống công trình phục vụ cho việc mua sắm hàng hoá, vật lưu niệm và các dịch vụ phụ trợ khác (hiệu giặt là, cắt tóc...); các phương tiện và trang bị vận chuyển khách du lịch các loại xe, gara ôtô...; các xí nghiệp công nghiệp thuộc tổ chức du lịch nhằm cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho du khách (xưởng bánh mì, bánh kẹo...) và các trang thiết bị khác (trang thiết bị nội thât, dụng cụ, phương tiện phục vụ, tư liệu sản xuất...). 1.5. Đóng góp vào ngân sách nhà nước: Trong những năm qua nhờ sự đầu tư tăng nên ngành du lịch đã có những bước phát triển rõ rệt. Và ngành đã có những đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Thể hiện ở bảng sau: Bảng 9: Đóng góp ngân sách nhà nước của ngành du lịch (Đơn vị tính: tỉ đồng) 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Nghành du lịch 229 400 800 780 740 840 (Nguồn: Tổng cục du lịch) Ngành đã đóng góp vào ngân sách liên tục tăng ở giai đoạn đầu (những năm này tốc độ đầu tư vào ngành du lịch cũng tăng), đặc biệt tăng mạnh ở năm 1994, so với năm 1993 tăng 400 tỉ đồng-gấp đôi năm 1993. Tuy năm 1995, 1996 ngành có giảm sự đóng góp cho ngân sách nhà nước nhưng giảm không nhiều và năm 1997 lại tăng, đạt mức đóng góp cao nhất so với tất cả các năm (840 tỉ đồng). Như vậy đầu tư thúc đẩy ngành du lịch phát triển sẽ tạo ra một nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 1.6. Có một đội ngũ lao động có tay nghề, kỹ thuật cao: Theo thống kê, năm 1999 toàn ngành du lịch có 15 vạn cán bộ công nhân viên, trong đó có 3% đạt trình độ đại học và trên đại học, 40% được đào tạo và bồi dưỡng qua các trường dạy nghề và đào tạo tại chỗ. Tuy số lao động qua đào tạo là thấp so với tổng số lao động phục vụ trong ngành du lịch nhưng những người này đã hoạt động có năng suất cao và sáng tạo trong quản lý, phục vụ khách du lịch. Đội ngũ lao đông lành nghề chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh-nơi có nhiều khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế đang hoạt động. Chẳng hạn ở Hà Nội gần 400 lễ tân viên của các khách sạn được xếp sao đều tốt nghiệp đại học và thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Từ 40-50% số lễ tân viên sử dụng thành thạo 2 ngoại ngữ (thường là tiếng Anh với tiếng Pháp hay tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Trung). Còn ở các khách sạn liên doanh có khoảng 13% lễ tân viên được đào tạo nghiệp vụ và kiến thức về lễ tân khách sạn, du lịch. Còn ở các khách sạn quốc doanh có khoảng 40% lễ tân viên được đào tạo nghiệp vụ và kiến thức về khách sạn, du lịch (chủ yếu trình độ trung cấp). Vậy nên để giữ chân và thu hút khách thì đội ngũ nhân viên phục vụ phải đáp ứng được các nhu cầu của khách, đảm bảo cho khách được thoải mái trong việc ăn, ở và hiểu biết về văn hoá, truyền thống... của Việt Nam. Muốn thế ta phải chú trọng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong du lịch để đáp ứng ngày càng cao các yêu cầu của ngành. 1.7. Nhiều điểm du lịch được đầu tư tôn tạo, sửa chữa và nâng cấp: Trong những năm gần đây, du lịch là một ngành đã và đang được chú trọng đầu tư phát triển. Ngành du lịch đã thu hút được nhiều khách quốc tế, khách nội địa tham quan và doanh thu của ngành cũng tăng cao-tỉ lệ thuận với lượng khách tham quan. Do đó nhiều điểm du lịch được chú ý đầu tư tôn tạo để thu hút ngày càng đông lượng khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế. Chẳng hạn ở Huế dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô giai đoạn 1996-2010 với tổng vốn đầu tư là 720 tỉ đồng. Từ cuối năm 1996 đến cuối năm 1998, các cơ quan chức năng đã phục chế, trùng tu được hơn 50 công trình lớn như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, Hiển Lâm Các, điện Long An...cùng số tiền đầu tư là gần 70 tỉ đồng. Ngoài ra họ còn đầu tư vào Huế dưới dạng hỗ trợ hoàn toàn như: Hội người yêu Huế ở Mỹ đã tài trợ 50.000 USD để sửa chữa cửa Quảng Đức; chính phủ Nhật tài trợ 100.000 USD cho công trình cổng Ngọ Môn; chính phủ Thái Lan giúp đỡ 20.000 USD cho Hưng Miếu; đại sứ Canada dành 10.000 USD cho bảo tồn nhà Bát Giác phía Đông. Dự án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Phù Mát (Nghệ An) được tổ chức EU tài trợ với tổng số vốn trên 20 triệu USD... Hiện nay các khu di tích lịch sử, di tích văn hoá, cảnh đẹp tự nhiên như: thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An (Đà Nẵng); động Phong Nha (Quảng Bình); tháp Chàm... đang được đầu tư với phương thức huy động vốn từ nguồn ngân sách, sự hỗ trợ của đồng bào và bạn bè quốc tế. 1.8. Đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước: Các nước du lịch phát triển thu nhập ngoại tệ từ du lịch chiếm tới 20% hoặc hơn thu nhập ngoại tệ của đất nước. Đối với nước ta,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62697.doc
Tài liệu liên quan