MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG. 2
1. lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adamsmith 2
1.1. Nội dung 2
1.2. Khả năng áp dụng 3
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo 4
3. Lý thuyết của Heckscher- Ohlin 6
3.1. Các giả thiết của Heckscher- Ohlin 6
3.2. Nội dung 6
II. CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 7
1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô 7
2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu 9
3. Chiến lược phát triển hướng ngoại 10
III. CÁC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU 12
1. Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 12
2. Sự phát triển của khoa học công nghệ 13
3. Một số xu hướng phát triển khác của thương mại quốc tế 14
IV. HOẠT ĐỘNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ 15
1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá 15
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá 15
2.1. Nhân tố kinh tế 15
2.2. Nhân tố văn hoá- xã hội 16
2.3. Nhân tố môi trường chính trị- pháp luật 16
2.4. Nhân tố cạnh tranh 16
3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế 17
3.1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá với tăng trưởng kinh tế 17
3.2. Xuất khẩu hàng hoá với chuyển dịch cơ cấu kinh tế 17
3.3. Xuất khẩu hàng hoá đối với việc giải quyết việc làm 18
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG KÍNH XÂY DỰNG 19
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH KÍNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM 19
1. Quá trình hình thành và phát triển 19
2. Vai trò của ngành kính xây dựng trong điều kiện hiện nay 21
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG KÍNH XÂY DỰNG TỪ NĂM 2003 ĐẾN NAY 22
1. Những kết quả đã đạt được 22
2. Những khó khăn, hạn chế trong quá trình xuất khẩu 23
III. ĐỊNH HƯỚNG, PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI. 25
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY 27
I. VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC 27
1. Chính sách pháp luật kinh tế về xuất khẩu 27
2. Cải tiến, hoàn thiện thủ tục hành chính 28
II. VỀ PHÍA CÔNG TY 29
1. Tìm kiếm thị trường 29
2. Kết hợp chặt chẽ với các đơn vị thành viên trong tổng công ty Viglacera 29
3. Đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi 30
KẾT LUẬN 31
DANH SÁCH TÀI LIỆU 32
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế học đã chỉ ra rằng doanh thu của sản phẩm thô sẽ giảm mạnh hoặc có tăng thì rất ít cho dù được mùa hay mất mùa.
2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu
Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu nhằm đẩy mạnh sự phát triển các ngành công nghiệp trong nước mà trước hết là các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này đòi hỏi phảI có những điệu kiện sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện để cho các ngành sản xuất trong nước có được thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. Do vậy chiến lược này chỉ có thể phát huy hiệu quả đối với những nước có dân số tương đối đông. Thứ hai, các ngành công nghiệp trong nước ban đầu có thể còn nhỏ bé nhưng phảI tạo ra được những yếu tố đảm bảo khả năng phát triển. Những yếu tố này đòi hỏi phảI thu hút vốn và công nghệ của các nhà đầu tư trong và ngoàI nước.
Thứ ba, chính phủ phảI có những chính sách thích hợp. Vì ban đầu khi công nghiệp trong nước còn non trẻ, giá thành sản xuất thường cao hơn so với thị trường thế giới. Chính phủ cần phảI xây dựng hàng rào bảo hộ bằng các hình thức như: trợ cấp, thuế quan, hạn ngạch để hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước để tăng khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, chiến lược thay thế còn có những hạn chế: Thứ nhất, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến tỉ suất lợi nhuận của nhà sản xuất là thuế quan và hạn ngạch do chính phủ đặt ra. Do được sự bảo hộ của chính phủ nên các doanh nghiệp trong nước sẽ có được nguyên liệu đầu vào giá rẻ, làm giảm chi phí sản xuất, các doanh nghiệp yên tâm với sự bảo hộ của nhà nước. Nếu chi phí sản xuất tăng hay sức cạnh tranh của mặt hàng nhập khẩu giảm thì các doanh nghiệp lại chông chờ sự bảo hộ của chính phủ do đó đáng lẽ bảo hộ sẽ giảm dần theo thời gian thì các nhà sản xuất lại chông chờ bảo hộ tăng lên
Thứ hai, chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu làm nảy sinh nhiều tiêu cực, bảo hộ bằng thuế dẫn đến tình trạng chốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ thuế quan. Bảo hộ bằng hạn ngạch thì dẫn đến tình trạng hối lộ các quan chức phụ trách phân phối hạn ngạch
Thứ ba, chiến lược này còn hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất nước. Chiến lược này thường bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng, sau đó lại tiếp tục tạo thị trường cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian. Nhưng vì thị trường đối với sản phẩm trung gian như: hoá chất, luyện kim thường nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên có trở ngại đối với vấn đề này. Do vậy, cũng lại chông chờ vào sự bảo hộ, sự bảo hộ này lại làm tăng giá đầu vào đối với các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm bảo lợi nhuận các ngành công nghiệp lại tiếp tục phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu làm cho các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu không có khả năng phát triển, hạn chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp đa dạng ở đất nước.
Thứ tư là, chiến lược này làm tăng nợ nước ngoàI của các nước đang phát triển. Do được bảo hộ nên các sản phẩm của sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế, trong khi vẫn phảI nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ ngoàI làm cho tình trạng nhập siêu của những nước này tăng lên.
3. Chiến lược phát triển hướng ngoại
Trong suốt những năm 50, 60 của thế kỷ trước hầu hết các nước đang phát triển gặp phảI những khó khăn do theo đuổi chiến lược hướng nội. Đặc biệt là khoản nợ nước ngoàI ngày càng gia tăng, nền kinh tế tăng trưởng chậm, cơ cấu kinh tế mất cân đối. Do vậy, đầu những năm 60 một số nước đã chuyển hướng chiến lược, đI đầu trong các nước đang phát triển là những nước NICs. Họ đã thành công trong việc thực hiện chiến lược hướng ngoại, họ nhận thấy rằng để khắc phục vấn đề nợ nước ngoàI, nguồn tàI nguyên và thị trường nhỏ hẹp trong nước chỉ có cách là dựa vào thị trường quốc tế. Nội dung của chiến lược hướng ngoại của các nước NICs là sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều nhất những yếu tố có sẵn trong nước, thực hiện nhất quán chính sách giá cả: giá hàng trong nước phảI phản ánh sát với hàng trên thị trường quốc tế và phản ánh được sự khan hiếm của các yếu tố trong nước. ở phần lớn các nước đang phát triển, nguồn lao động dồi dào trong khi nguồn vốn lại khan hiếm. Chính sách của nhà nước là tiền lương và các chi phí khác, về nhân công phảI thấp và lãI suất phảI cao nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, như vậy vừa mang lại lợi nhuận, vừa tạo ra công ăn việc làm, góp phần giảI quyết vấn đề thất nghiệp cho đất nước. Do vậy, đối với các nước NICs trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược hướng ngoại thường tập chung vào sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động làm cho chi phí sản xuất sẽ tương đối thấp so với thị trường quốc tế.
Sau khi các nước NICs đã thành công trong công việc lựa chọn chiến lược của mình thì một số nước đang phát triển khác và các nước ASEAN cũng lần lượt chuyển sang chiến lược hướng ngoại để khắc phục tình trạng khó khăn của mình. Nhưng điểm khác của các nước ASEAN so với các nước NICs là:
Thứ nhất, phần lớn các nước ASEAN có dân số tương đối đông nên tạo ra được thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Thứ hai, các nước ASEAN đều có tàI nguyên thiên nhiên đáng kể. Do vây, nội dung của chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN có những đặc điểm khác so với các nước NICs. Nội dung của chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, sử dụng nguồn tàI nguyên thiên nhiên để thúc đẩy quá trình tích luỹ ban đầu của đất nước. Khuyến khích sản xuất các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Chiến lược hướng ngoại đã tác động mạnh đến nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Chiến lược hướng ngoại tạo khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển của các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “ mối liên hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của những ngành này. Bên cạnh đó, khi vốn tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “mối liên hệ xuôI” là nguyên liệu cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến và mối liên hệ xuôI này tiếp tục mở rộng. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, tạo ra mối liên hệ gián tiếp cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Chiến lược hướng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chiến lược hướng ngoại tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho đất nước. Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu tư nước ngoàI. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích luỹ vốn chủ yếu của giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá. Đồng thời có ngoại tệ làm tăng khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của ngành công nghiệp.
III. Các xu hướng phát triển của thương mại quốc tế có ảnh hưởng tới xuất khẩu
1. Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Đối với những nước đang phát triển và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện để phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong mối quan hệ đó, giữa các quốc gia thành viên có sự giàng buộc theo quy định chung của khối. Nói cách kháI quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tàI chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giảI quyết 6 vấn đề cơ bản:
+ Đàm phán cắt giảm thuế quan
+ Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan
+ Giảm bớt hạn chế đối với dịch vụ
+ Giảm bớt trở ngại đối với đầu tư quốc tế
+ Điều chỉnh chính sách thương mại
+ Triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục…
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nước tham gia hoạt động thương mại với nhau. Các quốc gia được bình đẳng trong quan hệ mua bán, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Các quốc gia trong cùng một tổ chức hợp tác quốc tế sẽ được hưởng những lợi ích mà tổ chức đó mang lại, xong các quốc gia này phảI chịu những giàng buộc mà tổ chức kinh tế này đưa ra. Vì thế, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các quốc gia. Nó buộc các doanh nghiệp trong nước phảI đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường.
2. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Ngày nay, khoa học công nghệ đã có những tiến bộ vượt bậc, máy móc và trang thiết bị ngày càng tinh vi, hiện đại, độ chính xác cao. Nhờ đó, nhiều loại sản phẩm mới được tạo ra với nhiều hình thức, mẫu mã, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm giá thành tạo nên sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Đồng thời, khoa học công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.
3. Một số xu hướng phát triển khác của thương mại quốc tế
Bên cạnh xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng bảo hộ mậu dịch. Xu hướng này đã tồn tại từ lâu nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Cho đến nay vẫn còn nhiều lý do khác nhau để bảo vệ cho chế độ bảo hộ mậu dịch:
Một là, chế độ bảo hộ mậu dịch để bảo vệ “ngành công nghiệp còn non trẻ”
Hai là, lý lẽ tạo nên nguồn “tàI chính công cộng”. Theo lý lẽ này, các loại thuế nhập khẩu là cần thiết để đảm bảo nguồn thu cho chính phủ đáp ứng các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá công cộng, để tiến hành việc trả nợ và giảI quyết các khoản chi phí khác. Trong các loại thuế khác nhau đã được áp dụng như thuế doanh thu, thuế thu nhập hay thuế tiêu dùng, thuế nhập khẩu vẫn ít gây ra méo mó trong hoạt động thương mại hơn cả và việc thực thi sẽ có nhiều thuận lợi hơn do việc buôn bán quốc tế được tập trung ở một số cửa khẩu.
Ba là, lý lẽ về khắc phục một phần “tình trạng thất nghiệp” thông qua việc thực hiện chế độ thuế quan bảo hộ. Theo lý lẽ này, các loại thuế nhập khẩu đánh vào các sản phẩm có thể thay thế nhập khẩu sẽ tạo điều kiện để mở rộng thêm việc sản xuất các loại sản phẩm mới và tạo việc làm cho người lao động trong nước.
Bốn là, lý lẽ về việc thực hiện “ phân phối lại thu nhập” thông qua việc áp dụng chế độ bảo hộ. Theo lý lẽ này thì, các loại thuế nhập khẩu sẽ làm dịch chuyển một phần thu nhập của người tiêu dùng giàu có hơn sang cho những người sản xuất các loại hàng hoá được sản xuất trong nước tương ứng các hàng hoá nhập khẩu. Điều đó sẽ có lợi về mặt xã hội. Nhưng chúng ta cần phảI hạn chế dần xu hướng này vì nó có thể làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự bảo hộ của nhà nước, làm giảm động lực phát triển của các doanh nghiệp.
IV. Hoạt động về xuất khẩu hàng hoá
1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là quá trình trao đổi hàng hoá qua cửa khẩu của 2 quốc gia.
Đối tượng tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất. Riêng khu công nghiệp có đặc điểm riêng biệt, nó bao gồm khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu. Nó bao gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động có ranh giới với mặt địa lý xác định do chính phủ quyết định thành lập, thường được ngăn cách bằng tường rào kiên cố để phân biệt với phần nội địa.
Khu công nghiệp tập trung là một khu vực được xây dựng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết phảI diễn ra ở đường biên giới giữa hai quốc gia.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá
2.1. Nhân tố kinh tế
Các doanh nghiệp hoạt động đều vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì động cơ làm việc của doanh nghiệp càng lớn. Vì vậy, yếu tố kinh tế tác động trực tiếp và quyết định hoạt động của các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thì 2 yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp là thuế và tỷ giá hối đoái. Thuế tăng sẽ làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm, lợi nhuận của doanh nghiệp giảm và ngược lại. Vì thế, nếu thuế tăng sẽ làm giảm động cơ làm việc của doanh nghiệp
Nếu tỷ giá hối đoáI tăng lên nghĩa là giá trị của đồng nội tệ giảm xuống như vậy sẽ khuyến khích xuất khẩu vì cùng với một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều đồng nội tệ hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Và ngược lại, nếu tỷ giá hối đoáI giảm sẽ làm hạn chế xuất khẩu.
2.2. Nhân tố văn hoá- xã hội
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá khác nhau. Vì vậy, các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu thì cần phảI tìm hiểu văn hoá của quốc gia đó, tìm hiểu thị hiễu của quốc gia đó. Vì thị trường sẽ quyết định doanh nghiệp nên sản xuất sản phẩm gì và không nên sản xuất gì. Nếu không, doanh nghiệp sẽ đI đến tình trạng hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ được và dẫn đến phá sản.
2.3. Nhân tố môi trường chính trị- pháp luật
Một quốc gia có thể phát triển được thì trước hết phảI có một môI trường ổn định. Sự ổn định chính trị có thể coi là một nhân tố đánh giá sự rủi ro của nhà đầu tư. Nếu chính trị ổn định tức là độ rủi ro ít, các nhà đầu tư sẽ mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhưng chỉ có chính trị thôI thì cũng chưa đủ, nếu pháp lụât liên tục có sự thay đổi thì các doanh nghiệp sẽ không thể thích ứng được với sự thay đổi đó khiến cho nhà đầu tư sẽ gặp phảI rủi ro cao, nên không khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào sản xuất. Vì vậy, một trong những điều kiện mà các nhà sản xuất quyết định tham gia đầu tư sản xuất là sự ổn định về chính trị và pháp luật phảI ổn định, rõ ràng.
2.4. Nhân tố cạnh tranh
Trên thị trường hàng hoá tồn tại rất nhiều nhà doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất. Do vây, các doanh nghiệp phảI cạnh tranh với nhau để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Trong cơ chế thị trường, ngày càng xuất hiện nhiều công ty tư nhân. Vì thế, cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Đây là cuộc cạnh tranh nội bộ của mỗi ngành, mỗi công ty đều có những chiến lược khác nhau để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Vì thế, các doanh nghiệp cũng rất cẩn thận trong việc lựa chọn mặt hàng để sản xuất, rào cản ra nhập ngành càng lớn thì càng hấp dẫn các doanh nghiệp.
3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế
3.1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá với tăng trưởng kinh tế
Trong công thức tính GDP ta có:
GDP = I + C + G + XK - NK
Trong đó: I là đầu tư
C là chi tiêu dùng
G là chi tiêu của chính phủ
XK là xuất khẩu
NK là nhập khẩu
Ta thấy, xuất khẩu là một thành tố quan trọng trong GDP. Ngày nay với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của ngoại thương càng trở nên quan trọng. Xuất khẩu tạo nên nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu, vật tư, xăng dầu, tiêu dùng phục vụ sản xuất và đời sống. Ngoại tệ có được từ xuất khẩu hiện nay đã đóng góp trên 80% hàng hoá nhập khẩu.
Nước ta chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm có lợi thế về lao động nên xuất khẩu đã đóng góp rất nhiều trong việc giảI quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
3.2. Xuất khẩu hàng hoá với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khi xuất khẩu hàng hoá tăng lên, nó sẽ thu hút được nhiều lao động và các nhà doanh nghiệp. Từ đó, có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế do một số người thay vì sản xuất hàng hoá trước đây mà chuyển sang sản xuất kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng doanh thu và tăng thu nhập. Cũng từ đó sẽ xuất hiện nhiều hàng hoá bổ xung nhằm cung cấp sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để ngày càng hoàn thiện hơn cho sản phẩm. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, nó sẽ kéo theo các ngành công nghiệp khác cùng phát triển. Như vậy, cơ cấu của nền kinh tế sẽ thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội.
3.3. Xuất khẩu hàng hoá đối với việc giải quyết việc làm
Việt Nam hiện nay chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô hoặc những sản phẩm mới qua chế biến, do đó cần rất nhiều lao động. Qua đó đã giảI quết tình trạng thất nghiệp và thu hút những lao động rảnh rỗi, từ đó giúp người dân lao động tăng thêm thu nhập để ổn định cuộc sống.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng
I. Quá trình hình thành và phát triển của ngành kính xây dựng ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngành kính xây dựng ở Việt Nam là một ngành còn non trẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công ty sản xuất kính đầu tiên ở Việt Nam là công ty kính Đáp Cầu thuộc tổng công ty Viglacera, được thành lập vào năm 1990 theo quyết định của Bộ xây dựng. Công ty kính Đáp Cầu đã được nhà nước phong tặng “anh hùng lao động” và được tổ chức TUV CERT (TUV anlagente) cấp chứng chỉ hệ thống quản lý đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Trong quá trình phát triển công ty không ngừng mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoàI, thực hiện liên doanh liên kết đẩy mạnh sản xuất phát triển, đa dạng hoá phát triển các mặt hàng. Công ty kính Đáp Cầu chuyên sản xuất các loại mặt hàng kính xây dựng: kính tấm xây dựng, kính an toàn, kính bảo ôn, kính dán, kính cán và kính kéo ngang, kính cắt màI,… Công ty kính Đáp Cầu sử dụng máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại trên thế giới để phục vụ cho quá trình sản xuất kính: máy khoan, máy cắt, máy mài,…
Kính tấm là loại kính phẳng trong suốt, được sản xuất theo phương pháp Foucault cảI tiến trên hệ thống thiết bị hiện đại của Nga và Hàn Quốc. Kính tấm được sử dụng rộng rãI trong xây dựng và trang trí nội thất: cửa sổ, cửa di, mặt bàn,…kính có chiều dày 2- 8mm đáp ứng tiêu chuẩn TC 08- 94 tương đương với tiêu chuẩn KSL 2001- 86 của Hàn Quốc. Sản phẩm kính bảo ôn của công ty kính Đáp Cầu được sản xuất theo công nghệ tiên tiến của hãng Z.Bavelloni ( Italia). Kính bảo ôn gồm có hai lớp kính tấm chất lượng cao, liên kết với nhau bởi một khung nhôm định hình, bên trong thanh nhôm có các hạt chống ẩm, bên ngoàI khung nhôm có bơm keo Silicol để gắn các tấm kính với nhau, khoảng giữa hai tấm kính tạo chân không hoặc khí trơ. Vì vậy kính có ưu điểm: khả năng ngăn cách tiếng ồn, khả năng cách nhiệt tốt, có khả năng tiết kiệm được 30% năng lượng, tính thẩm mỹ cao. Năng suất: 15- 50m2/h.
Sản phẩm kính dán theo công nghệ Glassrobots OY của Phần Lan. Sản phẩm gồm các tấm kính được dán sơ bộ với nhau bằng lớp keo PVB ở nhiệt độ từ 30- 700C, được dán và ép chặt trong thiết bị nồi hấp có áp lực 15 bar, nhiệt độ 1500C . Năng suất dây truyền 50- 80 m2/h, sản phẩm đạt tiêu chuẩn DIN EN ISO: 12543- 1998- CHLB Đức.
Sản phẩm kính an toàn được sản xuất theo phương pháp tôI nhiệt trên hệ thống thiết bị hiện đại của CHLB Đức và Nhật Bản. Sản phẩm kính an toàn có độ bền gấp 4- 5 lần so với kính thường, chịu những rung động lớn, va đập mạnh, có độ bền nhiệt cao. Khi vỡ tạo thành những mảnh nhỏ không sắc cạnh, không gây nguy hiểm cho người sử dụng. Vì vây, sản phẩm kính an toàn được sử dụng rộng rãI cho các phương tiện giao thông vận tải: kính ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, cửa sổ nhà cao tầng, kính quan sát trong các lò công nghiệp…Kính an toàn có nhiều loại: kính cong, kính phẳng, kính trắng, kính màu, có chiều dày từ 4- 8mm. Chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn Nhật Bản và Châu Âu.
Sản phẩm kính cán và kính kéo ngang là loại kính mới được sản xuất. Năm 2003, công ty kính Đáp Cầu đã đưa vào vận hành hai dây truyền sản xuất kính tấm, kính kéo ngang với công suất 100 tấn/ ngày đêm với các thông số kỹ thuật chủ yếu sau:
Kính hoa văn trang trí trắng và màu được sản xuất trên dây truyền hiện đại và đồng bộ của CHLB Đức có chiều dày từ 3- 10 mm, có 3 loại: xanh lá cây, xanh da trời, màu trà, với nhiều loại hoa văn sắc nét: kính ô ly trơn hoa, kính hoa hảI đường, vân mây, kim cương…phù hợp với tiêu chuẩn DIN EN 572- 1996 CHLB Đức. Kích thước tấm kính Max: 3048*1524mm. Kính tấm kéo ngang trắng, màu có chiều dày từ 2- 10mm có 3 màu: xanh lá cây, xanh da trời, màu trà phù hợp với tiêu chuẩn nhà nước Trung Quốc GB 4871- 1995. Kích thước tấm kính Max: 3300*2500mm Kính thép loại hoa văn và trơn có chiều dày 7mm phù hợp với tiêu chuẩn Nhật Bản JIS R3204- 81. Kích thước tấm kính Max: 2500*1500mm Cùng với sự đI lên của đất nước, ngành kính xây dựng cũng không ngừng phát triển. Nhu cầu về mặt hàng kính xây dựng tăng lên nhanh chóng. Tổng công ty Viglacera cũng không ngừng đẩy mạnh hoạt động sản xuất của các công ty, tổng công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị phục vụ cho việc sản xuất sản phẩm kính xây dựng. Năm 2001 công ty kính nổi ra đời, công ty sản xuất theo công nghệ kính nổi- là công nghệ hiện đại nhất hiện nay. Dây truyền sản xuất của công ty kính nổi được đầu tư thiết bị đồng bộ, hiện đại từ khâu phối liệu, lò nấu, tạo hình, ủ, cắt, bẻ đến khâu phụ trợ sản xuất như: điện, nước, khí bảo vệ đều được tự động hoá, điều khiển bằng hệ thống điều khiển tiên tiến PLC và DCS của Mỹ, Đức, ý, với phần mềm điều khiển do hãng EMERSON của Mỹ cung cấp. Công suất thiết kế của công ty kính nổi là 350 tấn thuỷ tinh/ ngày. Với các sản phẩm kính đa dạng về chủng loại, chiều dày và kích thước. Dây truyền công nghệ hiện đại của công ty có thể sản xuất ra kính trắng và kính màu các loại có độ dày từ 2- 12mm, với kích thước tấm kính nhỏ nhất là 1500*1200mm, kích thước tấm kính lớn nhất là 3300*5500mm. Chất lượng sản phẩm kính đạt tiêu chuẩn Nhật Bản JIS R3202- 1996 được dùng cho mục đích xây dựng và các sản phẩm sau kính như gương chất lượng cao, kính ô tô, kính dán, kính màI, kính mờ…
2. Vai trò của ngành kính xây dựng trong điều kiện hiện nay
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có sự phát triển khá và ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn trên 7%, song song với đó là sự phát triển của các ngành công nghiệp với tốc độ tăng trưởng khá cao trên 10%, các ngành công nghiệp kéo nhau cùng phát triển thông qua các “mối liên hệ ngược” và “mối liên hệ xuôi”.
Theo mục tiêu của Đại hội Đảng IX Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì thế cần phảI đẩy nhanh công nghiệp hoá đất nước, ngành công nghiệp phảI chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 ngành: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Nên vai trò của ngành công nghiệp xây dựng nói chung và ngành công nghiệp kính xây dựng nói riêng là rất quan trọng. Nhu cầu về kính xây dựng ngày càng cao phù hợp với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Những sản phẩm của ngành kính như:kính bảo ôn, kính an toàn, kính cán,…cùng với kiến trúc hiện đại sẽ tạo ra những công trình nguy nga tráng lệ, tạo nên một diện mạo mới cho đất nước. Không những vậy nó còn bảo vệ ngăn cản tiếng ồn, tăng khả năng cách nhiệt, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ an toàn cho công trình và con người. Vì vậy, nhu cầu về kính xây dựng ngày càng cao. Để phục vụ cho sự phát triển, sản phẩm kính sẽ thay thế dần cho các nguyên liệu như gỗ. Đây là những yếu tố thúc đẩy ngành sản xuất kính phát triển. Các công ty trong nước cần phảI nắm bắt được cơ hội này để mở rộng sản xuất và phục vụ thị trường trong và ngoài nước.
II. Thực trạng xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng từ năm 2003 đến nay
1. Những kết quả đã đạt được
Trong năm 2003 công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu (KD & XNK) đã tiêu thụ sản phẩm kính xây dựng với giá trị 70.9 tỷ đồng trong đó sản phẩm kính 3mm có giá trị 28.5 tỷ, kính 4mm có giá trị là 25.6 tỷ, kính 5mm có giá trị là 16.8 tỷ. Theo như dự kiến thì mức tiêu thụ của công ty trong thời gian tới sẽ giảm trong thời gian tới, do sản phẩm kính trong lộ trình của Việt Nam tham gia hiệp định AFTA vào năm 2005 và chịu ảnh hưởng rất lớn khi hai công ty kính lớn là VFG và VIFG điều chỉnh giá sản phẩm. Như vậy thị trường kính sẽ có nhiều biến động lớn. Kế hoạch đặt ra đối với công ty KD & XNK trong năm 2004: Lượng tiêu thụ kính trên 1.5 triệu m2,gương Viglacera các loại trên thị trường phía Bắc. Đồng thời tiếp cận với các nhà máy gia công kính trong khu vực như: công ty cửa sổ Châu Âu, công ty cửa Việt Séc, nhà máy sản xuất kính an toàn,…để cung cấp trực tiếp phôI kính cho các đơn vị này.
Nhận làm đại lý cho các sản phẩm bán kèm, với sản phẩm kính như: keo Silicon, găng cao su…
Môi giới các sản phẩm của tổng công ty vào các công trình, nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của tổng công ty.
Nhưng thực trạng hoạt động của công ty cho thấy sản phẩm kính chỉ tiêu thụ được 16.9 tỷ đồng. Trong khi đó, kế hoạch tiêu thụ kính đại lý (nội địa) của công ty kính nổi là: 800000 m2 gồm có kính 3mm, kính 4mm và 5mm, đạt doanh thu 34.38 tỷ đồng.
Năm 2005, công ty đã tiêu thụ được 1.5 triệu m2 kính xây dựng và gương các loại tại thị trường miền Bắc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32527.doc