Đề tài Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương ở Cảng Khuyến Lương

LỜI CẢM ƠN 1

Phần I. Lý luận chung về tiền lương 2

I. Các quan điểm về tiền lương và tổ chức quản lý tiền lương 2

1. Các quan điểm về tiền lương 3

2. Các quan điểm về tổ chức tiền lương 3

3. Những kết luận về tiền lương và tổ chức quản lý tiền lương trong doanh nghiệp 7

4. Vai trò và ý nghĩa của việc tổ chức quản lý hợp lý tiền lương trong doanh nghiệp 7

II. Những nguyên tắc cơ bản và yêu cầu của tiền lương doanh nghiệp. Những văn bản quy định chế độ tiền lương 9

1. Những nguyên tắc cơ bản của tiền lương doanh nghiệp 9

2. Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước 10

3. Những yêu cầu của tổ chức quản lý tiền lương 13

III. Các hình thức trả lương 14

1. Các điều kiện áp dụng hình thức trả lương 14

2. Các chế độ trả lương theo sản phẩm 15

IV. Sự cần thiết phải hoàn thiện hình thức tổ chức quản lý trả lương theo sản phẩm 20

1. Tác dụng của lương sản phẩm 20

2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý trả lương 22

3. Phương hướng hoàn thiện trả lương sản phẩm 23

 

Phần II. Thực trạng về công tác quản lý tiền lương ở Cảng

 Khuyến Lương 25

 

doc62 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 786 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tiền lương ở Cảng Khuyến Lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định trong giá thành sản phẩm. Tc: Tỷ trọng tiền công nhân sản xuất trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành mức sản lượng 100%. Công thức tính tổng tiền lương của công nhân là: ồL = P. Q1 + P.K (Q1 - Q0) Trong đó: ồL: Tổng tiền lương Q1: Sản lượng thực tế Q0: Sản lượng đạt mức khởi điểm P: Đơn giá cố định L: Tỷ lê đơn giá sản phẩm được nâng cao. Vì tiền lương được tính theo sản phẩm luỹ tiến phải trả đơn giá cao hơn cho những sản phẩm vượt mức nên tốc độ tăng của tiền lương có khả năng lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động nên người ta chỉ dùng một phần số tiền tiết kiệm được về chi phí sản xuất gián tiếp cố định (thường là 50%) để tăng đơn giá, phần còn lại để hạ giá thành. Khi áp dụng chế độ tiền lương này, người ta thường xây dựng bảng biểu để quy định mức độ vượt mức sản lượng và tỷ lệ tăng đơn giá sau một thời gian khi khâu yêu cầu sản xuất được xoá bỏ, sản xuất ổn định cân bằng thì nên chuyển sang chế độ tiền lương sản phẩm bình thường. IV. Sự cần thiết phải hoàn thiện hình thức tổ chức quản lý trả lương theo sản phẩm. 1. Tác dụng của lương sản phẩm. Việc trả lương theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động của mỗi người, do vậy nó kích thích người lao động hăng say làm việc, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động hạn chế những hành động tiêu cực trong sản xuất, thiếu trách nhiệm làm bừa bãi làm ẩu. Nó cũng thúc đẩy cán bộ quản lý xí nghiệp phải cải tiến công tác đề cao trách nhiệm sản xuất và tổ chức lao động, quản lý đạt năng suất, chất lượng và có hiệu quả cao. Từ đó thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt. Mặt khác làm tốt công tác tiền lương nói chung và công tác trả lương sản phẩm nói riêng không những có lợi cho người lao động mà còn đối với toàn xã hội. Đó chính là sự tin tưởng gắn bó của người lao động vào doanh nghiệp. Việc trả lương theo sản phẩm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng. Sản phẩm lao động nó gắn thu nhập với kết quả lao động của mỗi người, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Do đó kích thích công nhân ra sức nâng cao nănag suất lao động. Mục đích của việc trả lương theo sản phẩm là nhằm phân phối hợp lý tiền lương trong lao động, thực hiện đúng nguyên tắc hưởng theo lao động. Việc trả lương theo sản phẩm còn khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong sản xuất tăng năng suất lao động góp phần đưa doanh nghiệp đi lên và đứng vững trong cơ chế thị trường. Lương sản phẩm cũng phản ánh khách quan về tiêu hao sức lao động giữa người thành thạo nghề nghiệp cùng một cấp bậc nhưng khác nhau về kỹ năng sản xuất, kỹ thuật, cách làm việc, sức khoẻ... Do đó khuyến khích người thợ quan tâm đến công việc của mình hơn, tìm tòi học hỏi để tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao kỹ thuật, sử dụng hợp lý triệt để công suất máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích cho cá nhân và doanh nghiệp. Việc trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng thúc đẩy việc cải tiến tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, củng cố kỹ thuật lao động, hình thành phong cách lao động công nghiệp, phát huy tinh thần tập thể của người lao động vì bất cứ hiện tượng nào ảnh hưởng đến quy trình kỹ thuật làm đình trệ sản xuất là đều ảnh hưởng đến kết quả lao động, làm cho sản lượng tụt xuống, thu thập của người lao động giảm xuống, vì thế khi có hiện tượng này nó không những không đòi hỏi người thợ khắc phục thiếu sót thật nhanh chóng mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có hướng đi đúng và tìm cách giải quyết. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của người công nhân trong doanh nghiệp. 2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý trả lương. Hiện nay chúng ta đang áp dụng hai hình thức tư tưởng là trả lương theo thời gian và lương theo sản phẩm. Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian lao động và trình độ tay nghề của người lao động để quy định mà không quan tâm đến số lượng sản phẩm thực tế làm ra như vậy việc trả lương theo thời gian chỉ phản ánh được một số lượng thời gian lao động của người công nhân, chưa phản ánh về mặt chất lượng lao động của người công nhân. Qua đó chúng ta thấy rằng trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn trả lương theo thời gian ở chỗ nó căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, lương của người công nhân nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm mình làm ra nhiều hay ít, tốt hay xuất. Vì vậy đây là hình thức trả lương công bằng nhất, hợp lý nhất, thực tế nhất cần áp dụng nhất đối với những nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm, trong ngành công nghiệp. Để chuyển sang cơ chế thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể hoàn thành các hình thức, chế độ trả lương vì nó chính là nội dung của tự chủ sản xuất. Mặt khác nó có tác dụng tích cực, đến các mặt của quá trình tổ chức, quản lý sản xuất, đẩy nhanh quá trình tự chủ của xí nghiệp. Do đó, hình thức trả lương theo sản phẩm thể hiện tính khoa học cao so với hình thức trả lương theo thơì gian và là hình thức thích hợp nhất để thực hiện phân phối theo lao động, mức thu nhập của mỗi người trong đơn vị phụ thuộc vào năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của mình và của toàn doanh nghiệp, không hạn chế mức thu nhập tối đa. Hình thức trả lương theo sản phẩm là một công cụ của hệ thống đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tuy nhiên nó vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy việc xác định đơn giá tiền lương trong hình thức trả lương theo sản phẩm là rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế kỹ thuật như hệ thống các định mức lao động, định mức vật tư và sự biến động của giá cả máy móc thiết bị, tỷ lệ lạm phát... Trong các doanh nghiệp, đa số các hệ thống định mức đã lạc hậu hoặc thiếu chính xác, mặt khác một số chức năng có thể có những khâu những đoạn có thể xây dựng định mức đế tiến hành trả lương theo sản phẩm nhưng xí nghiệp vẫn trả lương theo thời gian. Có thể do chủ quan hoặc khách quan mà đơn giá tiền lương tính cao hơn thực tế, người lao động nhận tiền lương cao hơn sức lao động bỏ ra lại có doanh nghiệp tính đơn giá thấp hơn thực tế gây thiệt thòi cho người lao động. Như vậy đơn giá tiền lương không chính xác sẽ gây ra mất công bằng trong lao động. Mặt khác, công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc, công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm cũng chưa được các doanh nghiệp chú ý lắm. Bên cạnh đó do công nhân có xu hướng chạy theo khối lượng sản phẩm mà không chú ý đến chất lượng cũng là một vấn đề cần khắc phục, và tình trạng lãng phí nguyên vật liệu, sử dụng máy móc thiết bị không hợp lý cũng phải bàn đến. 3. Phương hướng hoàn thiện trả lương theo sản phẩm. Từ những thực tế còn tồn tại ở trên để khắc phục những mặt còn hạn chế đó và phát huy những ưu điểm của hình thức trả lương theo sản phẩm khi áp dụng các doanh nghiệp còn chú ý các vấn đề sau: Một là, xây dựng hệ thống định mức có căn cứ khoa học với từng loại sản phẩm, từng khâu sản xuất của từng doanh nghiệp. Hai là, tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sản xuất. Ba là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị cho người lao động để họ nhận biết rõ trách nhiệm khi họ làm việc theo cơ chế thị trường trả lương theo sản phẩm. Bốn là, thực hiện phân công lao động hợp lý, bố trí người lao động phù hợp giữa bậc thợ và bậc công việc để tạo điều kiện cho việc trả lương đúng với chất lượng lao động. Năm là, thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm. Sáu là, khi có sự thay đổi về định mức lao động, chế độ tiền lương, điều kiện sản xuất, điều kiện lao động, chất lượng sản phẩm, kết cấu sản phẩm thì phải xác định lại đơn giá tiền lương. Tóm lại: Trong các chế độ trả lương đều bộc lộ những ưu, nhược điểm nhất định nhưng xét khái quát tổng thể thì hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tiên tiến hơn, phù hợp hơn trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Do vậy hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm là cần thiết trong các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm và nhất là trong ngành công nghiệp, vận chuyển, khai thác. Bằng hình thức trả lương theo sản phẩm sẽ quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động và nó có nhiều tác dụng tích cực trong các đơn vị cơ sở kích thích người lao động tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II. Thực trạng về công tác quản lý tiền lương ở Cảng khuyến lương I. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tiền lương. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Cảng Khuyến Lương. Cảng Khuyến Lương trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển pha sông. Cảng Khuyến lương là một doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Giao thông vận tải, được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ - TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ giao thông vận tải. Cảng có trụ sở làm việc chính tại xã Trần Phú - huyện Thanh Trì - Hà Nội. Diện tích mặt bằng xây dựng Cảng 11ha. Vào thời điểm 1985 Bộ giao thông vận tải có quyết định dừng khai thác bến phà Khuyến Lương, chuyển khu đất bờ nam bến phà vào mặt bằng xây dựng Cảng Khuyến Lương bao gồm khu cầu tàu, bãi chứa hàng, khu kho và nhà làm việc cơ sở lán trại được xây dựng từ những năm chiến tranh chống Mỹ của đơn vị đảm bảo cho giao thông 208, được chuyển giao cho Cảng Khuyến Lương quản lý khai thác. Lực lượng cán bộ công nhân viên một thời oanh liệt dũng cảm kiên cường bám trụ bến phà dưới mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, để luôn đảm bảo cho giao thông thông suốt trong thời chiến tranh phá hoại, được chuyển về Cảng là lực lượng chính tham gia vào lao động bốc xếp giai đoạn đầu mới thành lập. Năm 1986 Bộ giao thông vận tải phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật xây dựng Cảng giai đoạn I. Sau 3 năm xây dựng, giai đoạn I kết thúc các hạng mục đã đưa vào khai thác gồm: - Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 10m được sử dụng để xếp dỡ hàng cho tầu pha sông biển loại 1000 tấn trọng tải. - Một cầu tầu dài 20m ở độ cao 7m chuyên dùng xếp dỡ hàng cho xà lan, tàu sông tự hành. - Một bến nghiêng chuyên dùng để xếp dỡ, kích kéo hàng nặng, hàng siêu trường siêu trọng. - Hai kho chứa hàng kiên cố có tổng diện tích là 1.720m2. - Ba cần trục bánh lốp có sức nâng 12T, 16T, 25T. - Gần 30.000m2 bãi chứa hàng. Đến ngày 27/4/1992, Cảng được Bộ quyết định bổ sung thêm nhiệm vụ cho Cảng trực thuộc xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hợp được thành lập theo quyết định số 2030 QĐ/TCCB - LĐ. Ngoài những nhiệm vụ được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thương thuyền và các dịch vụ sản xuất kinh doanh dịch vụ khác. Đến ngày 3/9/1997 để phù hợp với tình hình đất nước, Cảng được chuyển giao cho tổng công ty hàng hải Việt Nam mà trước đó là Bộ GTVT theo quyết định số 428/TCTL của Tổng công ty và cho tới nay. Qua thời gian dài thành lập và trưởng thành, Cảng đã có bề dày kinh nghiệm kinh doanh, tổ chức quản lý, lãnh đạo và đã có nhiều thành tích đóng góp xây dựng đất nước. Cảng Khuyến Lương đã nhận được bằng khen của Bộ GTVT và một số phần thưởng khác của các cơ quan cấp trên, đó là sự đánh giá đúng mức cho những nỗ lực vượt khó khăn của Cảng trong cơ chế thị trường. 2. Những đặc điểm của Cảng ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý tar lương theo sản phẩm. 2.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng. Trong cơ chế thị trường, mặc dù là một đơn vị doanh nghiệp nhà nước, do nhà nước cấp vốn với số vốn rất ít ỏi và nằm dưới sự quản lý của Tổng công ty hàng hải Việt Nam nhưng Cảng Khuyến Lương là một đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh độc lập, tự hạch toán độc lập làm sao hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước và đảm bảo kinh doanh dịch vụ có lãi đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên. Trong những năm hoạt động kinh doanh dịch vụ vừa qua Cảng đã gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nguồn hàng và thiết bị đâù tư. Nhưng nhờ sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên của Cảng nên Cảng đã vượt qua và đạt được những kết quả nhất định. Năm 1999, Cảng hoạt động trong tình hình có một số thuận lợi nhất định, trong đó là nổi lên sản lượng bốc xếp, tấn thông qua tại Cảng vẫn đang và có đà phát triển, đặc biệt việc khai thác và tiêu thụ cát đen được đẩy mạnh, tổ chức đưa người và thiết bị vươn xa ra ngoài khu vực Cảng để khai thác thêm nguồn hàng bốc xếp, doanh thu của Cảng năm 1999 đã đạt hơn 13 tỷ đồng so với năm 1998 là tỷ đồng sau đây là kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của Cảng trong mấy năm gần đây (biểu 1) Biểu 1. 2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cảng. - Theo QĐ 2030/TCTB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT. + Cảng là đơn vị kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hoá, đảm bảo an toàn lao động và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch được giao đáp ứng kịp thời yêu cầu vận chuyển hàng xuất nhập khẩu và hàng nội địa. + Giao nhận và bảo quản hàng hoá trong quá trình xếp dỡ vận chuyển và lưu kho bãi chống mất mát hư hỏng và thất lạc. + Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất của Cảng, nâng cao năng suất lao động, giải phóng nhanh các phương tiện vận tải và kho bãi Cảng. + Quản lý đại tu sửa chữa cầu bến, luồng lạch phao kê trong phạm vi vận tải và bốc xếp dỡ, thông tin liên lạc và phương tiện khác của Cảng theo đúng qui định và kỹ thuật đảm bảo hoạt động thường xuyên có hiệu quả. + Hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành các qui định luật lệ về giao thông vận tải đối với các phương tiện hoạt động trong phạm vi của Cảng làm các thủ tục cần thiết cho phương tiện vận tải ra vào Cảng. + Tổ chức phòng cháy, chữa cháy, cấp cứu tai nạn phương tiện vận tải, xếp dỡ, tổ chức điều tra xử lý các vụ tai nạn gây tổn thất cho tài sản của nhà nước xảy ra trong phạm vi quản lý của Cảng. - Theo quyết định bổ sung ngày 27/4/1992 số 673/TCCB - LĐ của Bộ GTVT. + Hạch toán kinh tế độc lập trước xí nghiệp liên hiệp vận tải biển phà sông được thành lập theo QĐ 2030 QĐ/TCCB - LĐ ngày 11/10/1985 ngoài những nhiệm vụ đã được giao, được phép tổ chức đại lý vận tải, vận tải hàng hoá, thường xuyên và các dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp khác. + Trong quá trình hoạt động Cảng có trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước, các qui định cụ thể của Bộ, các ngành đối với doanh nghiệp Nhà nước. - Theo QĐ số 428/TCTL ngày 3/9/1997 của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. + Quản lý xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng, trên cơ sở thực hiện kế hoạch đầu tư của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. + Tổ chức bốc xếp, bảo quản hàng hoá, phục vụ các phương tiện đến và đi khỏi Cảng. + Tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải chuyển hàng hoá bằng đường thủy, đường bộ. 2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cảng. Về tổ chức bộ máy: quản lý của Cảng theo quyết định số 2030/QĐ TCCB ngày 11/10/1985 của Bộ GTVT, bộ máy quản lý gồm 1 giám đốc, 3 phó giám đốc và các thành phần trực thuộc khác. Qua nhiều năm hoạt động, bộ máy quản lý của Cảng càng tỏ ra cồng kềnh, thiếu năng động, bảo thủ, trì trệ đặc biệt sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường bộ máy quản lý của Cảng càng thể hiện những yếu kém. Quý IV năm 1997, Tổng công ty hàng hải Việt Nam đã có quyết định số 428/TC - LĐ về việc tổ chức lại Cảng Khuyến Lương. Trong đó mô hình tổ chức bộ máy được xây dựng mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo được củng cố và thay đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Mô hình bộ máy quản lý mới đang phát triển hiệu quả trong hoạt động quản trị. Các đơn vị đã tập hợp được trí tuệ, sức lực, cùng chung sức tạo năng lực mới, khí thế mới, tinh thần mới, quản lý mới. Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Cảng trong 2 năm qua đạt hiệu quả cao. Ngày 26/8/1999 Tổng giám đốc xí nghiệp LHVT biển pha sông đã phê duyệt mô hình bộ máy quản lý của Cảng theo sơ đồ sau (trang bên) 1. Giám đốc: Theo uỷ quyền của Tổng giám đốc XNLHVT Biển pha sông, là người có quyền điều hành cao nhất trong Cảng, là người chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Tổng giám đốc XNLH về mọi hoạt động của Cảng. 2. Phó giám đốc sản xuất: phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực: + Phòng kế hoạch điều độ. + Đội kho hàng + Đội cơ giới. 3. Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách theo dõi và tham mựu cho giám đốc Cảng các khu vực. + Phòng kỹ thuật vật tư + Xưởng sửa chữa cơ khí + Bồi dưỡng nâng cao tay nghề của công nhân + An toàn lao động và an toàn thiết bị 4. Phó giám đốc xây dựng cơ bản. Phụ trách theo dõi và tham mưu cho giám đốc Cảng các khu vực. + Phòng bảo vệ đời sống + Đội xây dựng cơ bản * Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ - Phòng nhân chính: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau: ã Lao động tiền lương ã Tổ chức cán bộ ã Các loại hình bảo hiểm (xã hội, tai nạn, thiết bị) ã Bảo hộ lao động và an toàn lao động - Phòng kế toán tài vụ: chịu trách nhiệm tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực nghiệp vụ sau: ã Thống kê tài chính ã Quản lý tài chính ã Cung cấp số liệu cần thiết cho các phòng ban liên quan trong quản lý kinh doanh của Cảng. - Phòng kế hoạch điều độ. Tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực. ã Kế hoạch sản xuất ã Điều độ sản xuất ã Kế hoạch dài hạn, ngắn hạn. ã Cảng phí, thương vụ ã Thống kê báo cáo hoạt động sản xuất ã Xây dựng cơ bản nội bộ. - Phòng kỹ thuật vật tư: Tham mưu giúp việc cho giám đốc theo các lĩnh vực. ã Kỹ thuật công nghệ ã Cung ứng vật tư nhiên liệu ã Quản lý thiết bị thủy ã Thống kê báo cáo tình hình thiết bị vật tư ã Đại lý xăng dầu. - Phòng bảo vệ đời sống: Tham mưu giúp việc cho giám đốc. ã Hành chính quản trị. ã Hướng dẫn khách hàng đến các phòng ban của cơ quan khi khách hàng đến liên hệ công tác. ã Bảo vệ, giữ gìn cơ quan cũng như an ninh khu vực. ã Dân quân tự vệ, quân dự bị, phòng cháy chữa cháy. ã Y tế, vệ sinh lao động ã Đời sống, nhà ăn, dịch vụ. 2.4. Đặc điểm lao động của Cảng: Trong quá trình sản xuất yếu tố con người là đặc biệt quan trọng trong việc quản lý sử dụng lao đoọng và hình thành lực lượng lao động mạnh mẽ, phân công bố trí sử dụng lao động một cách hợp lý đảm bảo mối quan hệ với các yếu tố vật chất khác của quá trình sản xuất để đạt hiệu quả cao. Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2000, trong tổng số lao động có 76 lao động quản lý (45 người lao động có trình độ đại học chiếm 59,29%). Vì vậy, có thể nói rằng nhân viên có trình độ đại học trong đội ngũ lao động quản lý là chưa cao. Do đặc trưng của Cảng phải sử dụng khá nhiều lao động phổ thông, nên trình độ lao động nói chung thấp. Tuy nhiên, để có thể tiếp cận và bắt kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý, Cảng cần phải tạo điều kiện cho các nhân viên của mình có thêm cơ hội học tập và nghiên cứu để nâng cao kiến thức của bản thân. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Cảng. Chúng ta có thể xem qua biểu số 2. Biểu số 2: Báo cáo tình hình lao động năm 2000 Loại lao động Số lượng (người) Tỷ trọng (%) I. Phân theo chức năng 1. Lao động trực tiếp 112 41,48 2. Lao động gián tiếp 28 10,37 3. Lao động phục vụ 82 30,37 4. Lao động làm thuê, nghỉ tự túc 48 17,78 II. Phân theo trình độ 1. Đại học 45 16,67 2. Trung cấp, cao đẳng 26 9,63 3. Cán bộ trình độ PTTH 5 1,85 4. Công nhân kỹ thuật 179 66,3 5. Lao động khác 15 5,55 II. Phân tích thực trạng tổ chức quản lý tiền lương ở Cảng Khuyến Lương. 1. Quỹ tiền lương và tiền lương bình quân. Mấy năm gần đây đời sống của cán bộ công nhân viên Cảng Khuyến Lương đã dần dần được cải thiện, Cảng đã không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả kinh doanh cao nhằm nâng cao đời sống cho công nhân viên, Cảng đã có đường lối đúng nên đã nâng cao được năng suất đông và tiền lương cho công nhân sự chuyển biến đó biểub hiện trong biểu sau: Biểu số 3: Năng suất lao động và tiền lương bình quân. Đơn vị tính: 1.000đ Chỉ tiêu 1999 2000 1999/2000 Số cán bộ công nhân viên (người) 258 270 Số công nhân đạt lao động giỏi (người) 91 120 Tiền lương bình quân (đồng) 700 670 Năng suất lao động bình quân (tháng) 136% 159% Tốc độ tăng NSLĐ 116% Tốc độ tăng tiền lương bình quân -0,96% Nhìn vào bảng ta thấy năng suất lao động vẫn đảm bảo tăng còn tốc độ tiền lương bình quân giảm 0,04% là do số lượng công nhân năm 2000 tăng hơn năm 1999. Số công nhân đạt lao động giỏi năm 2000 là 120 người tăng 131,9% so với năm 1999 điều này chứng tỏ công nhân ngày càng tích cực lao động sản xuất hăng say với công việc. 2. Việc áp dụng chế độ lương sản phẩm tại Cảng Khuyến Lương. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay bất kể doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất kinh doanh thì phải tính toán các loại nhuận đem lại từ các hợp đồng kinh tế, làm sao phải đảm bảo sản xuất có lãi thì mới làm. Để có được một phần lợi nhuận từ công việc sẽ đưa đến việc phải thanh toán một cách cụ thể các loại chi phí phải bỏ ra để ta một khối lượng snả phẩm. Các chi phí đó bao gồm: vật liệu, nhân công, hao mòn máy móc và các khoản phụ phí khác trong đó chi phí về vật liệu và hao mòn máy móc là hai chi phí bắt buộc cố định phải sử dụng. Còn chi phí nhân công sẽ là ít nhất mà vẫn tạo ra sản phẩm đạt chất lượng do đó người quản lý phải xem xét công việc cho từng công nhân, từng tổ từng nhóm công nhân sao cho phù hợp với trình độ, điều kiện làm việc của họ: Mỗi công việc có mức độ lao động phức tạp khác nhau và do nhiều công nhân có trình độ lành nghề khác nhau đảm nhận. Vì vậy muốn trả lương theo số lượng và chất lượng lao động thì trước hết phải xác định cấp bậc công việc thật đúng đắn. Cấp bậc công việc là điểm tựa vững chắc của công tác tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức lao động và tổ chức quản lý tiền lương. Đồng thời nó còn là căn cứ để kế hoạch hoá quỹ lương và thực hiện phân công lao động theo tính chất phức tạp công việc khi thực hiện trả lương theo sản phẩm xác định đơn giá tiền lương chính xác hay không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ chính xác của cấp bậc công việc đã xác định vì đơn giá được tính trên mức lương cấp bậc của công nhân do đó phải nhận biết rõ cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc. Cấp bậc công nhân là trình độ của người thợ bao gồm kiến thức hiểu biết kỹ năng, kỹ sảo nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm đủ để thực hiện thành thạo các công việc có mức độ phức tạp kỹ thuật tương ứng. Cấp bậc công việc là mức độ phức tạp của công việc đã được xác định theo một thang phức tạp kỹ thuật của một nghề hoặc một nhóm nghề. Độ phức tạp này biểu hiện trên các yếu tố công nghệ, yếu tố sản xuất được thể hiện cụ thể ở các chức năng lao động và tinh thần trách nhiệm. Một trong những yêu cầu của tổ chức lao động khoa học là cấp bậc công nhân phù hợp với cấp bậc công việc, việc phân công lao động theo mức độ, phức tạp của công việc vừa sử dụng hợp lý trình độ lành nghề của công nhân vừa tạo điều kiện cho công nhân có thể hoàn thành tốt công việc của mình. Muốn đạt được điều đó thì việc xác định hình thức lương sản phẩm cho người công nhân là rất cần thiết. Điều này loại bỏ được việc làm, theo công hay theo giờ mà không có hiệu quả, gắn được trách nhiệm của người công nhân vào từng sản phẩm, từng công việc hoàn thành, khuyến khích được người công nhân tìm tòi, sáng tạo cách làm mới sao cho ra đời sản phẩm nhanh nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tiết kiệm nguyên vật liệu theo yêu cầu. Đồng thời qua đó cũng nâng cao tay nghề của người công nhân đưa người công nhân từ tư thế làm việc thụ động, đối phó sang các làm việc sáng tạo, chủ động và có tính tự giác cao. Hình thức trả lương theo sản phẩm có nhiều cách được áp dụng nhưng từ cách nhìn nhận của Cảng Khuyến Lương, do tính chất phức tạp trong hoạt động sản xuất nên việc thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm được áp dụng cho bộ phận lao động trực tiếp hưởng theo đơn giá khoán. Ví dụ: Để bốc xếp hàng trên tàu khi đó việc sẽ giao cho tổ bốc xếp tiến hành theo từng công việc như giao khoán cho tổ bốc xếp 1, tổ bốc xếp 2... chẳng hạn bốc xếp 1 tấn hàng sẽ được hưởng 200.000đ/1T. Hình thức trả lương này có ưu điểm khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, đảm bảo khối lượng công việc thông qua hợp đồng giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên việc xác định đơn giá khoán khá phức tạp, nhiều khi khó chính xác. Việc trả lương theo sản phẩm khoán có thể làm cho người lao động bốc xếp không chú ý đến một số việc bộ phận trong quá trình hoàn thành công việc giao khoán. Do vậy, thay bằng việc xây dựng một đơn giá, tổng hợp chung Cảng Khuyến Lương xây dựng một đơn giá tiền lương cho 5 lĩnh vực hoạt động kinh doanh như khai thác Cảng, nạo vét tận thu cát đen, vận tải, kinh doanh khác và kinh doanh XDCB. Đây là một thành công đáng kể, do đơn giá tiền lương, hao phí lao động cho mỗi loại hình kinh doanh khác xa nhau, khó có thể qui đổi về một đơn giá tổng hợp. Hàng năm khi lập kế hoạch quỹ tiền lương Cảng Khuyến Lương căn cứ vào: - Nghị định 28/CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 của chính phủ về đổi mới quản lý tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước. - Thông tư số 13 LĐTBXH - TT của BLĐTB và XH về hướng dẫn phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương trong các doanh nghiệp nhà nước. - Hướng dẫn và kế hoạch tiền lương năm kế hoạch của xí nghiệp liên hợp. - Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm kế hoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1543.doc
Tài liệu liên quan