Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua của các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, và mục tiêu xác định.
Theo Các Mác: “Cạnh tranh Tư bản Chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu hút được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã phát hiện ra quy luật của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch của giá cả, chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ruyền như nguyên vật liệu, lao động...
Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học, công nghệ cũng làm cho cuộc cạnh tranh kinh tế trở nên gay go hơn, quyết liệt hơn, ngày càng trở thành cuộc chạy đua về tri thức. Muốn chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm thông tin thị trường, nhanh chóng chớp thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu, triển khai sản xuất kinh doanh, nhanh chóng tiêu thụ, thu hồi vốn nhanh, trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc.
ở các nước phát triển hiện nay thì cạnh tranh bằng thời gian là một loại cạnh tranh rất quan trọng, "sống còn cho ai nhanh nhất", một quy luật nghiệt ngã không thể tránh được đối với doanh nghiệp cũng như đối với mỗi quốc gia.
Trong việc cạnh tranh bằng thời gian các doanh nghiệp cần chú ý:
- Thời gian cần thiết cho việc ra quyết định, nhất là quyết định về đầu tư
- Tốc độ đề xuất các phát minh, sáng kiến triển khai vào sản xuất.
- Tốc độ giao dịch và giao hàng.
- Tốc độ lưu thông tiền vốn
2. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh và chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh
2.1 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh
Hiện nay, ở nước ta các doanh nghiệp đều rất quan tâm đến khả năng cạnh tranh.
Thực chất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là lợi thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng, uy tín, công nghệ, tiềm lực tài chính... so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức tốt nhất các đòi hỏi của thị trường. Như vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Mà cạnh tranh về kinh tế khác hẳn so với cạnh tranh để đạt giải thưởng nào đó. Nó là một cuộc chạy đua không đơn cuộc, không phải một lần thôi mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc "Maratông kinh tế" không có đích cuối cùng. Ai cảm nhận thấy đích, người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vương lên phía trước. Chạy đua kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau. Hơn nữa, chạy đua về mặt kinh tế không phải chỉ để thắng một trận tuyến mà là để thắng trên hai trận tuyến. Một trận tuyến diễn ra giữa hai phe của hệ thống thị trường, còn trận tuyến kia diễn ra giữa hai phe của cùng một phía. Nói cách khác, đây là cạnh tranh giữa người mua với người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau.
Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh, vì như vậy là cầm chắc sự phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng công cụ cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan.
2.2 Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dựa vào 1 số chỉ tiêu sau:
2.2.1 Thị phần: Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá.
Khi xem xét người ta thường xem xét các loại thị phần sau:
- Thị phần của Công ty so với toàn bộ thị trường: Đó chính là tỷ lệ % giữa các doanh số của Công ty so với doanh số của toàn ngành.
- Thị phần của Công ty so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó là tỷ lệ % giữa doanh số của Công ty so với doanh số của toàn phân khúc.
- Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của Công ty với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào ?
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị trí nào, và cần phải vạch ra chiến lược hành động như thế nào.
Tuy nhiên phương pháp này khó đảm bảo tính chính xác.
2.2.2. Doanh thu / doanh thu của các đối thủ mạnh nhất.
Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất tùy thao lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau.
- Chỉ tiêu này có ưu điểm: Đơn giản, dễ tính.
- Nhược điểm: Chưa chính xác, khó lựa chọn các doanh nghiệp mạnh nhất vì trong mỗi lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau.
2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận:
Một trong các chỉ tiêu thể hiện tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp là: Tỷ suất Lợi nhuận / Doanh thu.
ay: Chênh lệch:
(Giá bán - Giá thành )
Giá bán
2.2.4. Một số chỉ tiêu khác:
- Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm cạnh tranh.
- Tỷ lệ chi phí Max / Tổng doanh thu.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có phạm vi rất rộng. Nếu xem xét theo cấp độ tác động thì các yếu tố tác động này bao gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp (các yếu tố khách quan), các yếu tố bên trong doanh nghiệp (yếu tố chủ quan).
Môi trường kinh doanh
tổng thể
Chính trị
pháp lý Sản phẩm thay thế Địa lý Cạnh tranh khu vực Hiện tạI Tiềm lực tài chính Canh Kinh tế tranh tiềm tàng Người KN CĐ mua CT TMH Cung ứng
Kinh tế Môi
tài trường Kỹ
chính ngành Sản thuật
thị suất công
trường nghệ
Nhà cung ứng Văn hóa- -Xã hội phong tục tập quán
Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp
3.1. Các nhân tố khách quan
a) Môi trường kinh tế quốc dân.
a.1 Các nhân tố về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả ăng cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng:
+ Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã...) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
Tuy nhiên, khi mức sống được nâng cao cũng có nghĩa là chi phí về tiền lương của các doanh nghiệp tăng lên sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh đối với sản phẩm sản xuất ở nước có chi phí tiền lương thấp.
Khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thì hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là cao, khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn, họ sẽ đầu tư và phát triển sản xuất với tốc độ cao, như vậy nhu cầu về tư liệu sản xuất lại tăng lên. Các doanh nghiệp lại có cơ hội kinh doanh và có khả năng cạnh tranh cao.
+ Tỉ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác dụng nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh trah ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
+ Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
a.2 Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với hàng hoá nước ngoài sản xuất.
a.3 Trình độ về khoa học công nghệ: Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh.
Trình độ khoa học công nghệ tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ cao.
- Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiêu đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
- Trình độ khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin. Ngày nay, thông tin cần được xử lý, truyền đạt một cách nhanh chóng, chính xác bằng những phương tiện hiện đại. Đó là một yêu cầu bức bách để bảo đảm cho các doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trong cạnh tranh.
- Trình độ khoa học công nghệ tác động đến việc tạo ra các thế hệ kỹ thuật mới, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa bảo vệ môi trường sinh thái và như vậy trong cạnh tranh chắc chắn chúng sẽ có lợi thế hơn so với những công nghệ cũ lạc hậu.
a.4 Các nhân tố về văn hoá xã hội:
Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng, tôn giáo... ảnh hưởng đến cơ cấu của nhu cầu thị trường, và do đó đến điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau với thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và tiêu thụ khác nhau.
Chẳng hạn, đối với những khu vực theo tín ngưỡng, tôn giáo mà họ không tiêu dùng một mặt hàng nào đó thì doanh nghiệp sản xuất mặt hàng đó không thể thâm nhập vào được.
a.5 Các nhân tố tự nhiên:
Nhóm này bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa lý và việc phân bổ địa lý của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp (thậm chí cho sự phát triển kinh tế của đất nước). Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí (do tiết kiệm được nguyên vật liệu chi phí vận chuyển hàng hoá...) và do đó tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, vị trí địa lý thuận lợi cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp khuyếch trương sản phẩm mở rộng thị trường... Ngược lại, những nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh yếu hơn.
b) Môi trường ngành:
b.1. Theo Michael Porter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là 5 lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyết định lựa chọn phương hướng, nhiệm vụ phát triển của mình. 5 lực lượng đó là.
Sơ đồ môi trường ngành
Sức ép của những doanh nghiệp mới
Sức ép của những các nhà cung ứng
Sức ép của những DN hiện tại
Sức ép của người tiêu dùng
Sức ép của các sản phẩm thay thế
b.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành.
b.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ nhảy vào thị trường ngành.
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất và quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủe yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ...
Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhâp thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó.
b.3. Sức ép của nhà cung ứng:
Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành.
Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường họp sau:
- Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một học vài công ty độc quyền cung cấp.
- Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống màng lưới phân phối hoặc màng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
b.4. Sức ép của khách hàng:
Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng cao mua với khối lượng lớn, tính tập chung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành, sản xuất sẽ tăng lên.
b.5. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nêm sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiết đến khae năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của các doanh nghiệp.
4. Một số kinh nghiệm của các doanh nghiệp nổi tiếng trong quá trình cạnh tranh.
Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, các doanh nghiệp thường nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tăng cường các dịch vụ để thu hút khách hàng.
- Công ty May Tag chuyên sản xuất máy giặt gia đình đã đề ra tiêu chuẩn về chất lượng máy giặt "mười năm không bị trục trặc". Nhờ trung thành với yêu cầu chất lượng đó mà hãng có thể tăng giá lên 15% mà vẫn giữ được tỉ lệ hàng bán ra lớn nhất trên thị trường, mặc dù sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng ngày càng tăng.
- Đối với Công ty Máy tính điện tử HewleH - Packard, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được thực hiện bắt đầu từ cấp lãnh đạo. Giám đốc bộ phận sản xuất cứ tuần lễ thứ 4 trong tháng là đến kiểm tra trực tiếp chất lượng tại nơi sản xuất. Ông còn lợi dụng ngay cả lúc uống cà phê chú ý đến chương trình chất lượng nâng cao của công nhân. Nét cạnh tranh chất lượng độc đáo của Công ty này là hầu như Công ty không phải là nơi đầu tiên đưa sản phẩm mới ra thị trường. Công ty thường chỉ hành động sau khi các Công ty Xerox và IBM bán ra thị trường sản phẩm mới. Chiến lược cạnh tranh của Công ty là đưa các kỹ sư ra thị trường nghiên cứu sản phẩm mới của các hãng cạnh tranh. Họ phỏng vấn khách hàng thích hay không thích điểm nào của sản phẩm mới và theo khách hàng thì cần phải có thêm những đặc tính, công dụng nào nữa. Chẳng bao lâu, Công ty đã có ngay sản phẩm cùng loại để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng với chất lượng hoàn hảo hơn...
- Một ví dụ điển hình cho việc lôi kéo thêm khách hàng mới của mình một cách thành công là sản phẩm dầu gội đầu Johnson & Johnson (J & J) của Mỹ - một hãng trước đây chủ yếu sản xuất dầu hội đầu cho trẻ con. Khi tỉ lệ sinh đẻ ở Mỹ giảm xuống thì hãng bắt đầu lo lắng cho tương lại sản phẩm của mình và trị trí đứng đầu của hãng. Các nhà nghiên cứu thị trường của J & J đã phát hiện thấy rằng, ở nhiều gia đình, người lớn cũng ưa dùng dầu gội đầu của trẻ con. Từ những thông tin đó, hãng quyết định mở chiến dịch quảng cáo dầu gội đầu J & J cho mọi lứa tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, nó đã đứng vị trí đầu bảng trong các dầu gội đầu trên thị trường.
- Công ty sữa Việt Nam với sản phẩm sữa Vinamilk trong suốt mấy năm qua đã được người tiêu dùng lựa chọn vào TOPTE hàng tiêu dùng Việt Nam. Năm 1996, chiếm 80% thị phần toàn quốc. Sở dĩ sản phẩm của Công ty luôn giữ được vị trí xứng đáng trên thị trường là do Công ty đã giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng mở rộng thị trường.
lời nói đầu
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải chấp nhận, tuân thủ và biết cách khai thác, tận dụng các quy luật kinh tế. Cạnh tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội, thuộc Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc - là một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vì vậy Công ty cũng đang đứng trước những thử thách gay gắt, Công ty chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh với các công ty khác.
Trong những năm qua với sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty, sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc, Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội đã đứng vững được trên thị trường và đang chiếm một tỷ trọng thị phần lớn trên địa bàn kinh doanh. Song Công ty không tự hài lòng với kết quả, mà phải biết những đe doạ trước mắt trên lĩnh vực kinh doanh đối với Công ty trong thời gian tới.
Qua thời gian thực tập, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh ở Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội”.
Kết cấu của bài luận văn như sau:
Chương I: Lý luận chung về nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh trên thị trường của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội.
Chương I
Lý luận chung về nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp
I - Khái niệm và vai trò của năng lực cạnh tranh
1. Khái niệm:
Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua của các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, và mục tiêu xác định.
Theo Các Mác: “Cạnh tranh Tư bản Chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu hút được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã phát hiện ra quy luật của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch của giá cả, chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Ngày nay khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt và khốc liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hoá với quy luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhưng mặt khác, những ai biết nắm lấy vũ khí cạnh tranh, dám chấp nhận luật chơi phát triển thì sẽ chiến thắng. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là cơ chế vận động của kinh tế thị trường.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là việc nâng cao khả năng, năng lực vị thế của mình trên thị trường nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn các đối thủ cạnh tranh.
2. Phân loại
Cạnh tranh trên thị trường có thể phân ra nhiều loại khác nhau, tuỳ
thuộc vào các tiêu thức phân loại mà ta có thể chia các loại cạnh tranh như sau:
Theo “sách giáo khoa” về phân tích kinh tế xác định nhiều “kiểu lí tưởng” của cấu trúc thị trường có thể phân thành các loại sau:
+ Cạnh tranh hoàn hảo
+Độc quyền.
+Độc quyền tập đoàn.
+ Cạnh tranh độc quyền.
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại sau:
+ Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
+ Cạnh tranh giữa người mua với người mua.
+ Cạnh tranh giữa người bán với người bán.
Trong đó: Cạnh tranh giữa người bán với nhau hay là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để giành lấy khách hàng và thị trường. Trong cuộc chiến này doanh nghiệp nào thắng lợi thì sẽ tạo được đà phát triển còn doanh nghiệp nào thất bại thì sẽ bị gạt khỏi thị trường. Vì vậy đây là cuộc cạnh tranh mang tính sống còn của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế.
+ Cạnh tranh nội bộ ngành
Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá, sản phẩm nhằm thu được lợi hơn so với đối thủ khác để đạt được lợi nhuận siêu ngạch.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh, giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao.
3. Tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường cung - cầu được ví như “trung tâm”, giá cả được coi như “hạt nhân” thì cạnh tranh là “linh hồn” của nền kinh tế. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa doanh nghiệp chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh mà “thương trường là chiến trường”, “cạnh tranh là chiến tranh”. Mà “Chiến tranh là việc quốc gia đại sự, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong, không thể không nghiên cứu kỹ”. Đối với doanh nghiệp cũng vậy cạnh tranh được coi là việc lớn quan trọng, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong và phát triển. Vì vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết.
Mặt khác, sự vật hiện tượng tồn tại không phải là bất di, bất dịch mà luôn luôn vận động không ngừng tuân theo quy luật đào thải và phát triển. Cạnh tranh trên thị trường cũng thế, không phải một doanh nghiệp nào trên thị trường với vị thế nhất định mà nó thường xuyên biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đảm bảo và duy trì sức mạnh trên thị trường.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải nhận thức được rằng: hiện tại mình có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không ? Về lâu dài hoạt động bán hàng đó có mang lại nhiều lợi nhuận cho mình không. Doanh nghiệp phải chủ động thường xuyên xem xét những yếu tố hình thành chất cạnh tranh, tìm ra được những lợi thế cạnh tranh, những gì mà doanh nghiệp có thể làm tốt hơn so với các đối thủ khác. Mục tiêu phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào, một mặt phải đảm bảo tính lâu dài mặt khác phải lấy chỉ số tổng hợp về thị phần chiếm lĩnh và qua đó thu được lợi nhuận cao, làm chủ đích cần đạt được.
Những năm qua, nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, điều đó càng thúc đẩy một cách mạnh mẽ, tích cực việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp, đặc biệt trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế. Chính sách mở cửa, hướng mạnh vào xuất khẩu, tham gia AFTA, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết,...đang mở ra cho các doanh nghiệp nước ta những thời cơ và thách thức rất lớn. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh được các doanh nghiệp đang hết sức quan tâm. Bởi các doanh nghiệp nước ta không còn sự trợ giúp của Nhà nước bằng việc đánh thếu quan vào các mặt hàng nhập khẩu như trước đây nữa. Không những thế mà doanh nghiệp nước ta còn phải biết tận dụng cơ hội đem sản phẩm của mình xâm nhập vào thị trường thế giới trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế toàn cầu. Một vấn đề hiện nay đang được quan tâm, cũng là nỗi băn khoăn của bao nhà quản lý, đó là sự yếu kém, chậm chạm, ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước. Dưới chiếc ô doanh nghiệp Nhà nước một số doanh nghiệp đã làm cho nền kinh tế m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33500.doc