Đề tài Một số đề xuất giải pháp để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam

MỤC LỤC

A. LỜI NÓI ĐẦU 2

B. NỘI DUNG 3

I. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG 3

1. Khái niệm thị trường 3

2. Các loại thị trường 3

3. Vai trò và chức năng của thị trường 3

II. THỰC TRẠNG CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 5

1. Thị trường hàng hoá và dịch vụ 5

2. Thị trường tài chính 6

3. Thị trường lao động 8

4. Thị trường đất đai 9

5. Thị trường khoa học và công nghệ 10

III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐỒNG BỘ CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 11

1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần 11

2. Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế 11

3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, giữa vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp 12

KẾT LUẬN CHUNG 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO 17

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số đề xuất giải pháp để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta trong nhiều năm qua nhờ có sự đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đời sống nhân dân được nâng cao. Với tốc độ tăng trưởng đứng thứ nhì thế giới chỉ sau Trung Quốc đã khẳng định đường đi đúng đắn của Đảng và vai trò quan trọng của việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Việc nhận thức điều đó là rất cần thiết em muốn dùng những kiến thức đã học của mình để phân tích vấn đề nêu trên nhằm đưa ra ý kiến của mình để cô xem xét, đánh giá phê bình giúp em đưa ra được những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn có khoa học hơn. Mặc dù đã cố gắng tìm tòi tài liệu, nghiên cứu bài giảng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Em mong cô chỉ bảo tận tình cho em để em cố những bài nghiên cứu tốt hơn về sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn. B. NỘI DUNG I. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG 1. Khái niệm thị trường Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó người mua và người bán là một thứ hàng hoá tác động qua lại với nhau để xác định giá và số lượng hàng hoá. 2. Các loại thị trường Cũng như ở nhiều nền kinh tế thị trường khác cho đến nay các loại thị trường chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định gồm có: - Thị trường hàng hoá và dịch vụ; - Thị trường tài chính; - Thị trường lao động; - Thị trường đất đai - bất động sản; - Thị trường khoa học công nghệ. 3. Vai trò và chức năng của thị trường a. Vai trò của thị trường Thị trường có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường của quốc gia. Qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống giá cả trên thị trường. Giá cả và nguồn lực lao động luôn biến động bảo đảm các nguồn lực có hạn được sử dụng để sản xuất đúng hàng hoá dịch vụ mà xã hội cần. Khi gộp tất cả các thị trường khác nhau lại như lúa gạo, chè, đất đai, vốn,... chúng ta có một hệ thống thực nghiệm rộng lớn: Đó là một hệ thống tạo ra một sự cân đối giữa giá cả và sản xuất bằng cách cân đối giữa người bán và người mua trong mỗi một thị trường này, nền kinh tế sẽ đồng thời giải quyết ba vấn đề: sản xuất hàng hoá gì? sản xuất hàng hoá đó thế nào? và hàng hoá đó sản xuất ra cho ai? Vấn đề thứ nhất là sản xuất hàng hoá gì? Hằng ngày mỗi khi người tiêu dùng quyết định mua mặt hàng này chứ không phải mặt hàng kia mặt khác động cơ của doanh nghiệp là lợi nhuận, doanh nghiệp bị lợi nhuận cao lôi cuốn vào sản xuất mặt hàng có mức cầu cao bỏ lại nhiều khu vực có lợi nhuận thấp. Như vậy đây là một chu kỳ khép kín. Vấn đề thứ hai là sản xuất hàng hoá đó thế nào? Ta thấy sản xuất hàng hoá được xác định bởi sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất. Cách duy nhất để các nhà sản xuất cạnh tranh được về giá cả và tối đa lợi nhuận của mình là giảm mức chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương thức sản xuất đơn giản nhất. Vấn đề thứ ba là sản xuất hàng hoá đó cho ai? Sản xuất hàng hoá đó cho ai được xác định bởi mối quan hệ cung cầu ở thị trường nhân tố sản xuất (đất đai, lao động, vốn) những thị trường này xác định mức lương tiền thuê đất, lãi suất, lợi nhuận những thứ này đi vào thu nhập của mọi người. b. Chức năng của thị trường Chức năng thứ nhất là chức năng thừa nhận. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nhà doanh nghiệp đưa hàng hoá của mình vào thị trường với mong muốn bán được nhiều hàng hoá với giá cả bù đắp được mọi chi phí và có nhiều lợi nhuận. Mặt khác người tiêu dùng tìm đến thị trường mua những hàng hoá đúng công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán. Trong quá trình diễn ra trao đổi; có hai khả năng xảy ra một là thừa nhận hoặc không thừa nhận. Nếu không được thừa nhận thì trong quá trình này tái sản xuất sẽ bị ách tắc không thực hiện được, còn nếu được thực hiện thì quá trình sản xuất vẫn hoạt động bình thường. Chức năng thứ hai là chức năng thực hiện: thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán. Người ta thường cho rằng thực hiện về giá trị là quan trọng nhất. Nhưng sự thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi giá trị sử dụng được thực hiện. Chức năng điều tiết: chức năng điều tiết của thị trường được thực hiện thông qua sự hình thành giá cả dưới tác động của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh trong quan hệ cung cầu hàng hoá. Việc giải quyết quan hệ giữa số cung và số cầu nhằm đảo bảo giá trị tái sản xuất trôi chảy. Trong quá trình định giá, chức năng điều tiết của thị trường được thực hiện thông qua sự phân bố lực lượng sản xuất từ ngành này sang ngành khác từ khu vực này sang khu vực khác đối với người sản xuất. Đồng thời hướng dẫn tiêu dùng và xây dựng cơ cấu tiêu dùng đối với người tiêu dùng. Chức năng thông tin: Chức năng thông tin thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hoá nào khối lượng bao nhiêu nên tung ra thị trường ở thời điểm nào, nó chỉ ra cho người tiêu dùng biết nên mua một lượng hàng hoá hay một mặt hàng hoá thay thế nào đó hợp với khả năng thu nhập của họ. Thị trường có chứa đựng thông tin về tổng số cung, cầu, cơ cấu cung cầu, quan hệ cung cầu của từng loại hàng hoá, chi phí sản xuất giá thị trường chất lượng sản phẩm, điều kiện tìm kiếm thị trường, tập hợp các yếu tố sản xuất và phân phối sản xuất. Đây là những thông tin cần thiết để người sản xuất và người tiêu dùng ra quyết định phù hợp với lợi ích của mình. II. THỰC TRẠNG CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1. Thị trường hàng hoá và dịch vụ Thị trường hàng hoá và dịch vụ được hình thành sơ khai ngay trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và đến nay nó đã phát triển khá tốt. Thị trường này hoạt động ngày càng sôi động, lượng hàng hoá đưa vào lưu thông tăng liên tục tốc độ cao đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư đã hình thành được thị trường truyền thống và thông suốt trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập khu vực và quốc tế. Thị trường này đã có đủ các thành phần kinh tế góp mặt và sự vận hành của nó về cơ bản được tuân thủ theo các quy luật khách quan. Tuy nhiên thị trường hàng hoá dịch vụ cũng đang đứng trước những thách thức về chất lượng và hiệu quả trong thế cạnh tranh với các nước vẫn còn phân tán, manh mún quy mô nhỏ, chất lượng hàng hoá kém, tính cạnh tranh chưa cao, sức mua còn thấp, hàng hoá ứ đọng khó tiêu thụ trong khi hàng hoá nước ngoài tràn vào làm cho các doanh nghiệp trong nước càng khó khăn trong thế cạnh tranh. Thị trường và sức mua phát triển không đồng đều trong phạm vi cả nước ta. Sức mua thấp đặc biệt là ở nông thôn, vùng núi, vùng xa, trong khi hàng hoá nước ta sản xuất khó tiêu thụ thì tình trạng buôn lậu hàng giả, hàng lậu lưu thông trên thị trường đang làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ còn nhiều bất cập. Việc quản lý thị trường hàng hoá dịch vụ đang gặp khó khăn. Hệ thống chính sách pháp luật có nhiều tiến bộ nhưng tính đồng bộ còn yếu việc phân tích dự báo thị trường chưa đi vào nề nếp và chưa thật chính xác. 2. Thị trường tài chính a. Thị trường tiền tệ Trước những năm 1990, hoạt động của tiền tệ, tín dụng và ngân hàng còn mang nặng tính bao cấp, gắn với biện pháp quản lý hành chính pháp lệnh. Từ khi ngân hàng ra đời năm 1990, các Luật Ngân hàng Nhà nước và các Luật tổ chức tín dụng năm 1997 có hiệu lực thì nó đã có những tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường tiền tệ. Cùng với sự hình thành của các loại thị trường tiền tệ, một số công cụ trên thị trường tiền tệ Việt Nam cũng được hình thành đó là: tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước, thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng thương mại. Bên cạnh thị trường tiền tệ chính thức, thị trường ngoại tệ ngầm cũng phát triển. Hoạt động của thị trường ngoại tệ ngầm có một số tác động tích cực như đáp ứng nhu cầu giao dịch bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư các doanh nghiệp một cách nhanh chóng trong điều kiện thị trường ngoại tệ chính thức chưa phát triển. Tuy nhiên hoạt động của thị trường tiền tệ ngầm nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước vì vậy làm hiệu lực của việc thi hành chính sách tiền tệ tạo điều kiện cho các hoạt động bất hợp pháp như tham nhũng, buôn lậu và chảy máu ngoại tệ. b. Thị trường vốn Thị trường tín dụng trung và dài hạn đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể. Các công ty chứng khoán đều đã hoạt động ổn định cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nếu ngân hàng trước đây phần lớn doanh thu là từ lãi trên vốn kinh doanh thì hiện nay phần lớn doanh thu từ trên nghiệp vụ môi giới. Trong thời gian qua uỷ ban chứng khoán nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp quản lý thị trường khá hiệu quả, phù hợp với đặc điểm giải đoạn đầu của thị trường. Tuy nhiên một số quyết định còn mang tính hành chính vì vậy trong nhiều trường hợp chưa theo kịp và điều chỉnh thị trường một cách hiệu quả. Nhìn chung thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, hoạt động còn nhiều yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Việc phát triển và niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán bộc lộ không ít những bất cập như số lượng các chứng khoán niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán còn quá ít so với nhu cầu và so với số lượng các công ty cổ phần, khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm còn thấp. 3. Thị trường lao động Thị trường lao động là một bộ phận hữu cơ của hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế. Thị trường lao động đang tồn tại và phát triển liên quan và tác động qua lại với thị trường khác. Trong những năm qua thị trường lao động cũng đã được hình thành và phát triển giao dịch trên thị trường lao động đã sôi động hơn xuất hiện nhiều trung tâm xúc tiến việc làm, các hình thức giao dịch trên thị trường lao động cũng đã bước đầu được chính thức giao dịch trên thị trường lao động cũng đã bước đầu chính thức hoá thông qua "Hợp đồng lao động", "Thoả ước lao động tập thể". Lực lượng lao động bước đầu đã được phân bổ xuất phát từ nhu cầu thị trường. Ở nước ta thị trường lao động phổ thông khá phát triển nhưng thị trường lao động có trình độ cao, đặc biệt thị trường lao động chất xám còn nhỏ bé. Bên cạnh đó chúng ta còn có những khó khăn về cư trú, hộ khẩu, sự chuẩn bị trình độ cho người lao động, các công ty cung ứng dịch vụ lao động đồng bộ đã làm chậm sự phát triển và đang chia cắt thị trường lao động. Trên thị trường lao động cái giá phải trả cho người lao động (tiền lương, tiền công) thấp; hệ thống thông tin, thống kê về thị trường lao động không đồng bộ và có độ tin cậy thấp đã làm cản trở sự phát triển của thị trường này. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta vẫn còn cao. Thị trường lại có sự phân mảng lớn giữa lao động ở thành thị với lao động nông thôn, giữa lao động chính quy và lao động không chính quy, giữa lao động trong các doanh nghiệp nhà nước với lao động trong khu vực dân doanh, giữa lao động hiện đại với lao động truyền thống, giữa lao động trong các ngành và lĩnh vực kinh tế. Điều này đã cản trở tính linh hoạt của thị trường lao động, các nhóm dân cư thường bị bó buộc ở các mảng đó. 4. Thị trường đất đai Thị trường bất động sản là một trong những thị trường rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Việc phát triển thị trường bất động sản có tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như: tạo ra kích thích đầu tư vào đất đai nhà xưởng, chuyển bất động sản thành tài sản tài chính để phát triển kinh tế. Đặc điểm chung nhất của loại bất động sản là gắn liền với đất tuy nhiên không phải tất cả các loại bất động sản đều là bất động sản hàng hoá và tham gia vào thị trường bất động sản, ở nước ta đất thuộc sở hữu toàn dân và pháp luật không cho phép mua bán đất, do đó đất không phải là hàng hoá chỉ quyền sử dụng đất mới là hàng hoá. Như vậy thị trường bất động sản ở nước ta mới được xác định quyền sử dụng đất và từ khi Nhà nước có chính sách bán nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước. Tuy mói hình thành và hiện còn rất sôi động đặc biệt là vào những thời kỳ "sốt đất", "sốt nhà". Sự hình thành và phát triển loại thị trường này đã có những tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên thị trường bất động sản ở nước ta còn nhiều khiếm khuyết và tác động tiêu cực do đất đai chưa được thừa nhận chính thức là hàng hoá nên đã hình thành một thị trường "ngầm" về đất đai và thị trường này đã méo mó. Theo số liệu của Tổng cục Địa chính năm 2003 thì Nhà nước chỉ kiểm soát được 30% thị trường đất đai, còn 70% là mua bán trao tay thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán và nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Kết quả là Nhà nước không kiểm soát được sự hoạt động của thị trường này, ngân sách Nhà nước bị thất thu lớn. Hơn nữa trên thị trường cung - cầu về bất động sản mất cân đối nghiêm trọng giá cả dễ biến động do thị trường "nóng, lạnh" thất thường. Quy trình mua bán bất động sản quá phức tạp, qua nhiều khâu trung gian không cần thiết gây tốn kém về thời gian và chi phí. Thông tin về các loại bất động sản làm cho không ít diện tích đất và nhà bị sử dụng kém hiệu quả, gây lãng phí, hiện tượng đất bỏ hoang vẫn còn nhiều. Việc Nhà nước ta đã ban hành Luật Đất đai, sửa đổi bổ sung trong thời gian qua đã đáp ứng được nhiều vấn đề bức xúc của xã hội trong điều kiện kinh thế thị trường, tuy nhiên trên thực tế trong quá trình áp dụng nó còn bộc lộ nhiều bất cập cần phải tiếp tục nghiên cứu tổng kết để có một môi trường pháp lý ổn định lâu dài phát triển đồng bộ các thị trường ở nước ta. 5. Thị trường khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ là lĩnh vực rất quan trọng trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Kho học - công nghệ được thị trường chấp nhận và thị trường khoa học công nghệ đã phát triển mạnh ở các nước có nền công nghệ đã phát triển, còn ở nước ta Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và nhận rõ tầm quan trọng của khoa học công nghệ, tuy nhiên sự chú ý dành cho thị trường khoa học công nghệ mới được thể hiện rõ trong một số năm gần đây. Do đó thị trường này đang còn ở mức độ manh nha, các yếu tố cấu thành của thị trường chưa được hình thành đầy đủ. Luật Khoa học và công nghệ đã có điều khoản quy định về quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhưng chưa có văn bản dưới luật nào quy định cụ thể điều này. Đây có lẽ là một trong những cản trở lớn cho sự phát triển thị trường khoa học công nghệ. Một vấn đề nữa là nền kinh tế thị trường ở nước ta chưa phát triển đủ mức để có được một thị trường khoa học công nghệ sôi động, hàng hoá cung cấp cho thị trường khoa học và công nghệ, nhất là những công nghệ mới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta, phù hợp với khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp chưa nhiều do khả năng tài chính của các tổ chức phía cung còn nhiều hạn chế. Hơn nữa ở nước ta các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ nhìn chung còn thiếu và yếu cả về năng lực lẫn tổ chức, các hội chợ triển lãm khoa học - công nghệ chưa phải là hội chợ giao dịch mua bán hàng hoá khoa học và công nghệ, thông tin mua bán loại hàng hoá này còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của cả phía cung lẫn phía cầu. Như vậy trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở nước ta đã tồn tại quan hệ mua - bán (chuyển giao) giữa các cá nhân - tổ chức nghiên cứu với người sản xuất và doanh nghiệp nhưng còn mang tính cục bộ, tự phát và trong phạm vi hẹp, không có cơ quan quản lý thống nhất, chưa hình thành mạng lưới giao dịch liên kết giữa người mua và người bán. Hiện vẫn còn thiếu một hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức quản lý để có thể hình thành thị trường khoa học công nghệ sôi động, phát triển. III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐỒNG BỘ CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó, tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. 2. Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế Tạo điều kiện, môi trường cho các quy luật kinh tế hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Tập trung vào xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách tạo môi trường bình đẳng cho sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Luôn bổ xung và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tập trung phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, phát triển tiềm năng khoa học - công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng. 3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, giữa vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp Chỉ có thể mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế. Sự ổn định về chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển, là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư cho sản xuất. Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang pháp luật cho mọi hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước. * Thị trường hàng hoá và dịch vụ Nghị quyết Đại hội IX đã nhấn mạnh "phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt định hướng và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường", "hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh". Đây là những định hướng cơ bản đối với sự phát triển của thị trường hàng hoá dịch vụ. Kinh tế Nhà nước chỉ nên giữ vai trò nòng cốt và định hướng đối với đời sống kinh tế xã hội như an ninh, quốc phòng, điện nước, giáo dục. Những loại hàng hoá dịch vụ khác nên để cho thị trường tự quyết định. Biện pháp quan trọng để phát triển nhanh và lành mạnh thị trường hàng hoá là hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh thị trường này, ban hành các bộ luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bổ sung các luật hiện hành và ban hành luật mới hướng tới việc tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng và có tính cạnh tranh cao. Đồng thời quán triệt thực thi các chính sách của Nhà nước. Một yếu tố quan trọng để phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ và cũng là mục tiêu hướng tới của thị trường này là hướng tới thị trường quốc tế mở cửa thị trường trong nước hơn nữa tạo áp lực nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời phải tiến hành kiểm tra chất lượng hàng hoá trên thị trường. * Thị trường tài chính Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng ta đã xác định "chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ thế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư,..." Với định hướng như vậy thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các biện pháp như: Đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, tiến tới cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần tăng cơ hội cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước và quỹ hỗ trợ phát triển, đồng thời tăng thu hút đầu tư từ nước ngoài. Phát triển hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Cần đề cao vai trò của NHNN trong việc giám sát hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát. Xây dựng và phát triển hệ thống thể chế đảm bảo được khả năng hội nhập quốc tế. Các tổ chức tài chính trong nước cần được xây dựng và có cơ chế hoạt động phù hợp hơn với điều kiện mới. Đây cũng chính là biện pháp hướng tới mục tiêu của Đại hội IX nhằm "Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam". * Thị trường bất động sản Thứ nhất phát triển thị trường bất động sản một cách bền vững chú trọng hiệu quả đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Thứ hai phải có những biện pháp hạn chế và ngăn ngừa những hậu quả tiêu cực do thị trường phi chính quy gây ra. Ban hành Luật, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay. Sửa đổi bổ sung quy chế bất động sản công. Hiện nay hầu hết các cơ quan công quyền được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất vì vậy trong thời gian tới, cần thực hiện chế độ thuê đất và các bất động sản trên đất đối với các tổ chức công quyền. Đây là một vấn đề mới và phức tạp. Thứ ba, nâng cao dự báo nhu cầu đa dạng về các loại nhà ở của nhóm dân cư, tạo cơ hội có nhà ở phù hợp cho mọi người. Thứ tư đa dạng hoá các tổ chức tài chính ban hành các cơ chế để các tổ chức này tham gia thị trường bất động sản. Thứ năm áp dụng cơ chế giá thị trường với các giao dịch về bất động sản theo hướng: giá cả bất động sản giá quyền sử dụng đất nói riêng, khung giá bất động sản do Nhà nước ban hành chỉ áp dụng trong phạm vi giao dịch giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong việc giao bán, khoán, cho thuê bất động sản, bồi thường và hỗ trợ giải phóng mặt bằng; hình thành và đưa vào hoạt động các trung tâm thẩm định giá,... Thứ sáu là hình thành hệ thống văn bản quy hoạch như một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý thị trường bất động sản. * Thị trường sức lao động Để hoàn thiện và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Phát triển sản xuất ở thành thị, nông thôn để tăng nhu cầu về lao động trong nước ở thành thị cần huy động mọi thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế tư nhân để phát triển sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, du lịch, dịch vụ cho sản xuất đời sống và xuất khẩu. Ở nông thôn cần giúp đỡ người lao động các hộ gia đình chuyển đổi cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Cần huy động nhiều lao động, có sự giúp đỡ về tài chính của Nhà nước để xây dựng điện, đường, trường trạm. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động nhằm tăng cường thị trường lao động ngoài nước. Muốn vậy phải làm tốt công tác đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu lao động, tích cực khai thác thị trường mới, giữ vững thị trường đã có, tăng cường công tác quản lý lao động ở nước ngoài, sắp xếp lại các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động và cải tiến công tác tuyển chọn, đào tạo. * Thị trường khoa học và công nghệ Thị trường khoa học và công nghệ còn khá mới mẻ ở nước ta nhưng nó rất quan trọng vì thế cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý và hệ thống chính sách có liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường vận hành. Nhà nước ta phải tạo lập được môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao nhằm tăng cầu đối với hàng hoá khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có sự hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến công nghệ. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm khoa học công nghệ có tính công cộng cao. Cần phải nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ nhằm tăng cung trên thị trường khoa học công nghệ, cần tạo môi trường bình đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. KẾT LUẬN CHUNG Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHC chúng ta phải từng bước hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, không coi thị trường nào là kém quan trọng cả, bởi các thị trường này có sự liên quan mật thiết với nhau và cùng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để làm được điều này thì Nhà nước phải có các chính sách nhất quán, nới lỏng các thủ tục hành chính không cần thiết tạo mọi hành lang thông thoáng cho mọi thị trường. Phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần xoá bỏ phân biệt giữa các chủ thể kinh tế thuộc cách thành phần kinh tế khác nhau. Đặc biệt là thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, và các chính sách mang tính chất chiến lược như: + Chính sách giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường lao động. + Chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. + Chính sách xuất khẩu kích thích nền kinh tế phát triển. Đặc biệt phải áp dụng khoa học công nghệ, tiếp thu tri thức thế giới một cách phù hợp có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của nước ta. Thực tế cho thấy từ Đại hội Đảng 6/1986 đã cải cách từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường từ đó đến nay đã có được những thành tựu đáng kể về mọi mặt. Các thị trường chứng khoán và tài chính ban đầu không phát triển đến bây giờ đã phát triển mạnh. Và cho đến Đại hội Đảng khoá X vừa qua lại một lần nữa vai trò của nền kinh tế thị trường, coi trọng thành phần kinh tế tư nhân bằng việc cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân và lần lượt cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đến cuối năm nay chúng ta sẽ gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, khi th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25074.doc
Tài liệu liên quan