Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác, công ty VILEXIM cần chú trọng nâng cao hiệu quả của công tác thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu, vì đây là một trong những yếu tố góp phần quan trọng đảm bảo sự thành công của công ty trong việc đẩy mạnh xuất khẩu. Tạo nguồn hàng tốt, chất lượng và giá cả hợp lý sẽ cho phép công ty thực hiện các hợp đồng thuận tiện, đảm bảo uy tín với khách hàng.
Ở Công ty VILEXIM, hoạt động tạo nguồn hàng là thu mua từ các nhà cung ứng, hình thức tạo nguồn hàng này có ưu điểm là nhanh gọn, có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, khả năng quay vòng vốn lớn. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa lại phụ thuộc rất nhiều vào nhà sản xuất, nếu qua trung gian thì lại mất thêm chi phí trung gian làm tăng giá thành nên sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty, đồng thời giảm khả năng cạnh tranh. Do đó công ty cần đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng bằng việc trực tiếp thu mua của các nhà sản xuất hoặc tham gia liên doanh liên kết tự sản xuất, xây dựng vùng cung cấp hàng nông sản tập trung phục vụ cho xuất khẩu nhằm giảm thiểu các chi phí trung gian, thu gom lẻ tẻ.
41 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu với Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy mô sản xuất là bao nhiêu. Trước đây trong thời kỳ bao cấp, nguồn vốn của các doanh nghiệp đều do nhà nước cấp để hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Nhưng từ khi thực hiện chính sách đổi mới thì nguồn vốn của các doanh nghiệp được trực tiếp do các doanh nghiệp quản lý và sử dụng nó. Bên cạnh nguồn vốn do nhà nước cấp (đối vói các doanh nghiệp nhà nước), doanh nghiệp còn được phép áp dụng các biện pháp huy động, mở rộng nguồn vốn như: vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, phát hành cổ phiếu trái phiếu (các công ty cổ phần), huy động vốn trong nội bộ công ty... để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, cùng với sự phát triển của xã hội, và để cạnh tranh có hiệu quả các doanh nghiệp luôn phải đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tay nghề, trình độ quản lý, tăng cường các hình thức quảng cáo, marketing...
Công ty xuất nhập khẩu với Lào là một đơn vị kinh tế ra đời trong quá trình thực hiện chuyển đổi nền kinh tế. Chuyển thành 1 chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hạch toán độc lập với số vốn ban đầu là 7.370.900.000 đồng. Do đặc điểm của công ty không lấy trọng tâm là sản xuất mà chỉ chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu nên việc phân bổ nguồn vốn của công ty chủ yếu là vốn lưu động, nó chiếm một tỷ lệ khá lớn 59% (năm 1999) giá trị tài sản. Vốn cố định chiếm một tỷ lệ thấp 41% (năm 99) trong công ty phân bổ cho toàn bộ công ty dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, mỗi đơn vị thuộc công ty đều có trách nhiệm tự quản lý và bảo quản nó.
Trong quá trình phát triển, nguồn vốn của công ty luôn được mở rộng và phát triển cả về vốn cố định và vốn lưu động.
Bảng số 2: Khả năng tài chính của công ty qua từng năm
STT
Chỉ tiêu
Năm 2000 (đồng)
Năm 2001 (đồng)
Năm 2002 (đồng)
1
Vốn cố định
5.757.475.000
5.959.708.207
7.000.000.000
2
Vốn lưu động
3.474.561.000
5.757.474.539
10.000.000.000
3
Vốn ngân sách nhà nước
3.018.292.000
4
Vốn công ty tự bổ sung
6.213.726.000
Nguồn: Báo cáo tình hình tài chính và nguồn vốn hàng năm của Công ty
Từ bảng số 2 có thể thấy nguồn vốn của công ty tăng lên khá nhanh qua từng năm trong 3 năm từ năm 2000 đến năm 2002 nguồn vốn của công ty tăng bình quân là 28,04% điều đó cho thấy khả năng tự tích lũy của công ty, nguồn vốn của công ty đã được cải thiện góp phần đáng kể trong việc giải quyết nhu cầu về vốn của công ty.
Bảng số 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty từ năm 1999 đến 2001
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2001/1999
TH
Tỷ lệ so với KH
TH
Tỷ lệ so với KH
TH
Tỷ lệ so với KH
Chênh lệch
Tỷ lệ (%)
1
Kim ngạch XNK
1000USD
21.299
113,12%
19.298
107,2%
25.294
126%
3995
118,8%
2
Doanh số
Tỷ đồng
207
146,4%
188,57
100%
255
139,77%
48
123,2%
3
Nộp ngân sách
Tỷ đồng
23,2
113,44%
30
136,9%
30
120%
6,8
129,3%
4
Lợi nhuận
Triệu đồng
580
113,4%
598
120%
606
101%
208
104,4%
Nguồn: Báo cáo thành tích thực hiện nghĩa vụ Kế hoạch
Đề nghị khen thưởng cờ thi đua Chính phủ
Từ bảng phân tích trên ta thấy: Tổng doanh thu của năm 2001 là 255 tỷ đồng tăng hơn sơ với năm 99 là 48 tỷ đồng tương đương 23,1%, công ty đã đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp và giảm ủy thác. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 25.294.000 USD tăng 3.995USD tương ứng với tỷ lệ tăng 18,7%, do công ty mở rộng thị trường và phạm vi hoạt động cả trong và ngoài nước.
* Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu với Lào trong các năm vừa qua.
Công ty Xuất nhập khẩu với Lào - VILEXIM có quan hệ hợp tác kinh doanh với hơn 40 nước trên thế giới, trong đó chủ yếu là các nước Châu á như Nhật Bản, Singapore, Lào, Hồng Kông, Indonexia, Đài Loan... Trong những năm qua kim ngạch buôn bán xuất nhập khẩu của Công ty tương đối ổn định thể hiện như sau:
Biểu số 4: Thể hiện kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty trong mấy năm gần đây (triệu USD)
Chỉ tiêu
Năm
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch XNK
15,904
21,2299
19,298
25,294
- Xuất khẩu
6,57
6,464
10,546
11,888
- Nhập khẩu
9,334
14,835
8,752
13,406
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty
Qua bảng thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty trong mấy năm vừa qua cho thấy hàng năm khá ổn định tỷ lệ tăng giảm khoảng 10% mặc dù năm 99 có giảm đáng kể song kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng và trở lại ổn định ngay trong năm tiếp theo, nhưng điều đáng chú ý ở đây là kim ngạch xuất khẩu ngày càng được cải thiện trong cán cân thương mại đã có năm kim ngạch xuất khẩu vượt cả nhập khẩu (năm 2001). Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay là một nước kém phát triển trình độ khoa học công nghệ chưa đáp ứng được với sự phát triển của thế giới, sức cạnh tranh của hàng hóa nước ta còn kém do vậy cán cân thương mại bị thâm hụt, trong những năm qua mặc dù chúng ta rất cố gắng nhưng việc cải thiện cán cân thương mại cũng chưa được bao nhiêu trong hơn 10 năm đổi mới nước ta đã nhập siêu là 16,1 tỷ đô la. Việc công ty dần thu hẹp được cán cân xuất nhập khẩu của công ty là một điều đáng khích lệ chứng tỏ được sự lớn mạnh trong việc phát triển thị trường xuất khẩu.
Bảng số 5: Thị trường xuất nhập khẩu của Công ty trong mấy năm gần đây
Thị trường
Năm (đơn vị %)
1998
1999
2000
2001
2002
Nhật
45
30
35
30
40
Singapore
30
25
20
22
27
Lào
Rất ít
5
5,3
8
6
Hồng Kông
8
10
Rất ít
5,5
4
Indonexia
Rất ít
Rất ít
3
5
5
Đài Loan
4,2
6
10
12,5
6
Châu Âu
7
9,3
14
14
10
Thị trường khác
8
14
12
3
2
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động xuất khẩu hàng năm của công ty.
Từ bảng trên cho chúng ta nhận xét thị trường của công ty chủ yếu là ở các nước Châu á trong đó đứng đầu là Nhật Bản và Singapore, hai thị trường này chiếm tới hơn một nửa kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty. Mặc dù Công ty có tên là Công ty Xuất nhập khẩu với Lào nhưng trong thực tế kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Công ty với nước bạn chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn dưới 10% tổng kim ngạch trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Điều này cũng là hợp lý bởi vì xuất phát từ thực tế của nền kinh tế Lào là nền kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp, nhu cầu về hàng hóa chưa lớn, manh mún các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là gạo, muối, hàng tiêu dùng... do vậy, Công ty đã tập trung vào các thị trường có tiềm năng hơn.
b. Phân tích thực trạng xuất khẩu của công ty.
* Phân tích hoạt động xuất khẩu của công ty.
Năm 1999, năm cận kề của thế kỷ XX, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lần đầu tiên đã vượt mức 10 tỷ đô la. Đây là kết quả của bao nỗ lực, cố gắng của hàng triệu người, từ nhà lãnh đạo, các thương nhân lặn lội mở rộng thị trường... đến những người lao động ngày đêm miệt mài trên đồng ruộng, nhà máy. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của nước ta trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết và ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào hoạt động này. Cùng với sự mở rộng về quy mô là sự thay đổi rất linh hoạt về phương thức hoạt động của các doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh khốc liệt trong việc dành quyền xuất khẩu.
Trong bối cảnh đó, Công ty Xuất nhập khẩu với Lào VILEXIM đã có nhiều cố gắng nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh mở rôngj thị trường xuất khẩu, nhanh nhạy với thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, và với chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đảm bảo uy tín với khách hàng... Nên trong những năm qua công ty đã có nhiều thành công trong hoạt động xuất khẩu.
Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty thì chủ yếu là các mặt hàng nông sản chiếm một tỷ lệ đáng kể như: lạc, gạo tẻ, cà phê, hạt điều, chè... Bên cạnh đó còn có các loại mặt hàng khác như: Hàng lâm sản (gỗ, các sản phẩm từ gỗ các loại, hoa hồi...), hàng bông vải sợi may mặc (sợi các loại, vải các loại, hàng dệt thêu ren...), hàng vật liệu xây dựng (xi măng, đá ốp, gỗ dán, ván sàn...), dược liệu (sa nhân, quế hồi, cây thuốc dân tộc), hàng thủ công mỹ nghệ: đồ gốm đồ sứ...
Bảng số 6: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty
Đơn vị: Triệu USD
STT
Mặt hàng xuất khẩu
2000
2001
2002
Trị giá
Tỷ trọng
Trị giá
Tỷ trọng
Trị giá
Tỷ trọng
1
Hàng nông sản
4,137
64%
7,698
73%
9,035
76%
2
Hàng lâm sản
0,582
9%
0,527
5%
0,4758
4%
3
Bông vải sợi
0,905
14%
1,372
13%
1,1888
10%
4
Vật liệu xây dựng
0,323
5%
0,527
5%
0,713
6%
5
Thủ công mỹ nghệ
0,258
4%
0,211
2%
0,238
2%
6
Các mặt hàng khác
0,258
4%
0,211
2%
0,238
2%
Tổng cộng
6,464
100
10,546
100
11,888
100
Nguồn: Báo cáo về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hàng năm của Công ty
Qua bảng trên ta thấy tình hình xuất khẩu các mặt của công ty như sau:
Nông sản: Đâu là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong bảng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2000 giá trị nông sản xuất khẩu là 4,137 triệu USD chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Đến năm 2001 nhóm hàng này tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất vượt hơn cả năm 2000, nó chiếm tới 73% tổng kim ngạch xuất khẩu với giá trị là 7,698 triệu USD, điều này cho thấy Công ty đã chú trọng hơn vào việc xuất khẩu hàng nông sản và coi đây là thế mạnh của mình. Điều này càng thể hiện rõ hơn trong năm 2002 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đạt giá trị 9,035 triệu USD chiếm tới 76% tổng giá trị xuất khẩu. Vì vậy có thể khẳng định chắc chắn đây là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất đóng vai trò quyết định trong chiến lược xuất khẩu của công ty, đồng thời đóng vai trò chủ chốt tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của người lao động trong công ty.
Về lâm sản: Năm 2000 chiếm tỷ trọng là 9% giá trị xuất khẩu tương đương với số tiền là 0,582 triệu USD, đến năm 2001 giảm xuống còn 5% tương ứng với số tiền là 0,527 triệu USD, và sang năm 2002 thì chỉ còn chiếm 4% tương đương với số tiền là 0,4758 triệu USD, nguyên nhân của việc giảm giá trị xuất khẩu mặt hàng lâm sản là do chính sách của Nhà nước hạn chế việc khai thác và xuất khẩu gỗ để bảo vệ nguồn tài nguyên, do vậy để xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu Công ty đã phải nhập từ nước bạn Lào rồi tái xuất sang các nước khác theo đơn đặt hàng, mặc dù nhu cầu về mặt hàng này cả ở trong nước và ngoài nước đều khá lớn.
Hàng bông vải sợi: Trong những năm gần đây, nhóm hàng này có xu hướng biến động không ổn định. Cụ thể năm 2000 chiếm 14% giá trị xuất khẩu tương đương với số tiền là 0,905 triệu USD, năm 2001 là 13% tương đương với số tiền là 1,372 triệu USD, và đến năm 2002 thì chiếm 10% tương đương với số tiền là 1,1888 triệu USD. Có thể nói tuy về số tương đối thì hoạt động xuất khẩu hàng bông vải sợi có xu hướng giảm xuống, do giá trị xuất khẩu của những năm tiếp theo có xu hướng tăng lên do vậy đã làm giảm tỷ trọng xuất khẩu của hàng bông vải sợi, nhưng xét về giá trị tuyệt đối thì mặt hàng này lại có sự biến động không ổn định lúc cao, lúc thấp. Hơn nữa, hiện nay Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp được trực tiếp xuất khẩu mặt hàng này mà không cần thiết phải thông qua các công ty xuất nhập khẩu đã làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Hàng vật liệu xây dựng: Ta thấy nhóm hàng này chiếm tỷ trọng tương đối khiêm tốn và ổn định trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty cụ thể là năm 1999 chỉ chiếm 5% giá trị xuất khẩu tương đương với 0,323 triệu USD, năm 2000 là 5% tương ứng với 0,527 triệu USD, và năm 2001 là 6% tương đương với 0,713 triệu USD.
Hàng thủ công mỹ nghệ: Đây là mặt hàng chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp trong giá trị xuất khẩu của Công ty. Phần lớn các khách hàng đặt mua mặt hàng này đều là khách hàng không thường xuyên, Công ty chỉ thực hiện một số rất ít đơn đặt hàng do vậy giá trị xuất khẩu hàng năm thường không đạt hiệu quả cao. Cụ thể năm 1998 chỉ chiếm 4% giá trị xuất khẩu tương đương với 0,258 triệu USD, năm 1999 là 2% tương đương với 0,211 triệu USD và năm 2000 là 2% tương ứng với 0,238 triệu USD. Công ty cần phải chú trọng vào việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng này bởi lẽ đây là một mặt hàng mà nước ta có rất nhiều lợi thế trong việc cung cấp, và được khách hàng nước ngoài rất quan tâm.
Các mặt hàng khác: Chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty đây không phải là những mặt hàng mà công ty có những thuận lợi trong việc tìm thị trường xuất khẩu và nguồn hàng cung cấp. Do vậy nó chỉ chiếm khoảng từ 2% cho đến 4% giá trị xuất khẩu hàng năm.
Nhìn chung Công ty đã có những mặt hàng chủ lực mang lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn đó là các mặt hàng nông sản. Các mặt hàng này hiện nay là các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Bên cạnh đó Công ty đã tích cực trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, tìm các nguồn hàng xuất khẩu mới như mây tre đồ gốm, trục trà lúa... để phong phú thêm nguồn hàng xuất khẩu, đồng thời tăng thêm thu nhập cho mình.
* Phân tích mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Trong những năm trở lại đây Công ty Xuất nhập khẩu với Lào đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Mà nông sản là mặt hàng chủ yếu, là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu hàng năm, nó chiếm hơn 50% giá trị xuất khẩu thậm chí chiếm tới 2/3 giá trị xuất khẩu có thể nói điều này cũng xuất phát từ thực tế của đất nước ta là chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp và các sản phẩm của nông nghiệp, coi nông nghiệp là động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển lên. Các mặt hàng nông sản chủ yếu của công ty là: gạo, lạc nhân, cà phê, hạt điều... nhưng quan trọng nhất là hai mặt hàng gạo và lạc nhân. Để thấy rõ hơn được vai trò chủ đạo của hàng nông sản ta theo dõi bảng cơ cấu mặt hàng nông sản dưới đây:
Bảng số 7: Cơ cấu mặt hàng nông sản của Công ty Xuất nhập khảu với Lào
STT
Mặt hàng
1999
2000
2001
Kim ngạch tr.USD
Tỷ trọng
Kim ngạch tr.USD
Tỷ trọng
Kim ngạch tr.USD
Tỷ trọng
1
Gạo
0,911
22%
1,62
21%
3,216
36%
2
Lạc
1,365
33%
2,694
35%
2,886
32%
3
Cà phê
0,455
11%
1.141
13%
1,091
12%
4
Hạt điều
0,538
13%
0,954
12%
0,82
9%
5
Hạt tiêu
0,207
5%
0,482
6%
0,281
3%
6
Đậu hạt
0,248
6%
0,308
4%
0,362
4%
7
Vừng
0,165
4%
0,273
3%
8
Hành tỏi
0,154
2%
9
Nông sản khác
0,248
6%
0,309
4%
0,379
4%
Tổng
4,137
100%
7,698
100%
9,035
100%
Nguồn: Báo cáo tình hình về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hàng năm của Công ty
Qua bảng số liệu thống kê cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty đã cho chúng ta có được một sự đánh giá cụ thể về tình hình xuất khẩu của mặt hàng chủ chốt của công ty. Qua từng năm giá trị xuất khẩu của nông sản ngày càng tăng ở mức khá cao cụ thể là trong năm 1999 tổng giá trị xuất khẩu của nông sản đạt 4,137 triệu USD thì đến năm 2000 đã là 7,698 triệu USD và đến năm 2001 đạt 9,035 triệu USD. Trong đó phải kể đến 2 mặt hàng nông sản chính đó là gạo tẻ và lạc nhân, hai mặt hàng này đã chiếm trên một nửa kim ngạch xuất khẩu của nông sản tức là chiếm trên 50% giá trị, thậm chí năm 2001 nó còn chiếm tới 68% giá trị xuất khẩu nông sản, đây là hai mặt hàng chủ chốt nhất và mặt hàng truyền thống của công ty từ nhiều năm nay, các mặt hàng quan trọng khác phải kể đến cà phê và hạt điều hai mặt hàng này thường chiếm ở mức khá cao trên 10%, trong đó đặc biệt là cà phê. Điều này cũng là hợp lý bởi vì những mặt hàng này đều là những mặt hàng mà nước ta hiện nay đang có rất nhiều thế mạnh về năng suất, chất lượng và giá cả. Bên cạnh đó cũng còn những mặt hàng nông sản khác tuy không chiếm tỷ trọng lớn song nó cũng góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu đồng thời cải thiện cán cân xuất nhập khẩu của công ty. Do vậy thời gian tới công ty cần phải duy trì và triệt để tận dụng hơn nữa những lợi thế đó để tăng cường khả năng xuất khẩu.
2. Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề xuất khẩu của công ty.
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh đều phải có những thế mạnh, và khả năng riêng thì mới có thể tồn tại và phát triển, nắm được những thế mạnh đó và tận dụng được nó cũng chính là chìa khóa vạn năng đem đến sự thành công cho chính bản thân doanh nghiệp đó. Công ty Xuất nhập khẩu với Lào cũng là một đơn vị như vậy trong suốt thời gian qua công ty đã và đang phát huy được những ưu điểm đồng thời giảm thiểu các yếu điểm mang tính chủ quan nhằm duy trì và nâng cao thành tích trong hoạt động kinh doanh góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động cũng nộp ngân sách nhà nước.
a. Những thành tích đã đạt được trong những năm gần đây.
Với tình hình thị trường giảm sút một cách đáng lo ngại trong những năm gần đây, do có sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã tạo ra sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế và cả ở trong nước, những rủi ro luôn rình rập hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vốn rất phức tạp do có liên quan đến nhiều lĩnh vực nhiều ngành nghề, nhiều nước. Tuy vậy đối với công ty thì trong những năm gần đây hiệu quả đạt được tương đối tốt cụ thể:
* Về công tác tổ chức và quản lý.
Công ty đã thực hiện tốt các chủ chương và chiến lược đã đề ra đó là:
Đổi mới hệ thống tổ chức, mô hình và cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh như thực hiện cơ chế giao chỉ tiêu kinh doanh cho đến từng phòng ban, chi nhánh, đại diện trực thuộc công ty nhằm phát huy mọi khả năng của từng đơn vị và mọi thành viên trong Công ty, tạo ra sự thi đua tích cực trong hoạt động kinh doanh, tăng cường khả năng lãnh đạo của ban giám đốc công ty, đảm bảo nguyên tắc một thủ trưởng, thực hiện chế độ tinh giảm bộ máy, gọn, hiệu quả, từng bước trẻ hóa đội ngũ lao động có trình độ, để phát huy tính năng động của lực lượng trẻ này, trong tương lai đây sẽ là lực lượng nòng cốt của công ty.
Công ty thường xuyên tổ chức nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên chức, tiêu chuẩn hóa cán bộ, đào tạo bồi dưỡng lại cán bộ, cử các cán bộ đi học...
Thực hiện chế độ thi tuyển lao động, nhằm chọn được những người có trình độ, năng động vào làm tại công ty.
* Về hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong những năm gần đây mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng công ty đạt được những thành tựu rất khích lệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt mức kế hoạch, việc thi hành các chế độ chính sách đối với nhà nước cũng được thực hiện tốt cụ thể:
Nộp ngân sách nhà nước năm sau so với năm trước đều tăng nếu năm 1998 nộp ngân sách thực tế là 25,159 tỷ đồng vượt so với kế hoạch là 2,159 tỷ đồng thì đến năm 1999 là 25,633 tỷ đồng vượt so với kế hoạch là 1,633 tỷ đồng và đặc biệt là năm 2000 nộp ngân sách thực tế là 28,551 tỷ đồng trong khi kế hoạch là 25 tỷ đồng điều đó chứng tỏ sự hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đang tiến triển rất tốt.
Về thu nhập bình quân của người lao động nếu năm 1999 là 730.000đồng/người/tháng thì đến năm 2000 là 950.000 đồng/tháng đời sống của người lao động được cải thiện, tạo tinh thần phấn chấn cho cán bộ công nhân viên.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu thì trong năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 21,299 triệu USD, thì đến năm 2001 đã đạt là 25,294 triệu USD trong khi đó kế hoạch đề ra là 23 triệu USD cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của công ty.
- Cụ thể trong đó xuất khẩu đạt 11,888 triệu USD trong mấy năm qua tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu tăng 9,6%, đồng thời có những mặt hàng xuất khẩu vào thị trường mới như gạo vào thị trường Braxin, cà phê sang Bỉ...
- Về nhập khẩu Công ty chủ yếu tập trung vào những mặt hàng một số vật tư, nguyên vật liệu, máy móc phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước như nhôm, INOK, thép, hóa chất, gỗ... Kim ngạch xuất khẩu các năm bình quân tăng giảm khoảng 10%/năm. Do vậy đã đạt được những chuyển biến tích cực trong cơ cấu hàng nhập khẩu, các mặt hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ sản xuất luôn chiếm trên 80% tổng giá trị nhập khẩu phù hợp với chính sách của nhà nước.
b. Những nhược điểm và tồn tại.
* Nhược điểm:
Chưa tạo được vị thế vững chắc trên thương trường, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn bấp bênh, phụ thuộc rất nhiều vào thị trường và khách hàng.
Khả năng mở rộng thị trường còn hạn chế, chưa tìm kiếm được những thị trường mới có triển vọng cho hoạt động xuất nhập khẩu phần lớn các khách hàng của công ty chủ yếu vẫn là những khách hàng truyền thống, đã có quan hệ làm ăn lâu dài đối với công ty.
Chưa tận dụng được triệt để những lợi thế sẵn có của mình trong lĩnh vực buôn bán quốc tế, còn phụ thuộc nhiều vào nhà cung ứng.
Về xuất khẩu, mặc dù xuất khẩu tăng trưởng mạnh, liên tục song mức độ tăng trưởng của từng năm cao - thấp khá chênh lệch, cho thấy phần nào sự tăng trưởng còn bấp bênh và chưa vững chắc. Phần lớn hàng xuất khẩu là hàng thô và sơ chế, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao nên khả năng cạnh tranh kém, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường mới hầu như chưa đáng kể.
Về nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng về nhập khẩu không ổn định, còn phụ thuộc vào tình hình sản xuất trong nước và tình hình kinh tế thế giới.
* Tồn tại:
Vốn của công ty chưa phải là dồi dào, nay phải thực hiện theo luật thuế mới do nhà nước quy định.
Đối với hàng xuất khẩu phải vay vốn ngân hàng để mua hàng xuất đi, đồng thời cũng là để nộp VAT đầu vào nên cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty do phải trả lãi ngân hàng.
Thiếu thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước nhất là khó khăn trong việc tìm thị trường xuất khẩu gạo, cà phê để đạt kim ngạch và doanh số lớn.
c. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến những ưu - nhược điểm của công ty.
* Những nguyên nhân khách quan.
Công ty Xuất nhập khẩu với Lào ra đời cùng với việc chuyển dịch nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Do vậy cùng với việc mở ra các cơ hội mới, thì đi cùng với nó cũng sẽ là vô vàn những khó khăn thử thác đó là:
- Thứ nhất: Đó là đất nước ta mới thực hiện đổi mới chưa phải là lâu do vậy còn tồn tại các chính sách chưa hợp lý, chồng chéo, chưa tạo được môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh.
- Thứ hai: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực 1997-1998 vừa qua đã có tác động không nhỏ đến nhu cầu tiêu thụ, làm giảm sức mua, ảnh hưởng rất lớn đến thị trường xuất khẩu của Công ty.
- Thứ ba: Sự cạnh tranh quyết liệt của các công ty trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, buôn bán quốc tế.
- Thứ tư: Sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế, do các nguồn cung cấp thông tin còn khan hiếm, hoặc khi có được thông tin thì đã mất cơ hội.
- Thứ năm: Việc thực hiện hoàn thuế VAT đầu vào của nhà nước chậm, mất thời gian, làm tồn đọng một lượng vốn rất lớn của công ty ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, do đặc trưng của công ty là một Công ty thương mại nên vòng quay của vốn là rất ngắn nếu bị đọng vốn sẽ ảnh hưởng rất lớn.
* Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nguồn vốn của công ty chưa phải là dồi dào, hiện nay việc giải quyết nhu cầu về vốn lưu động đối với công ty còn là một bài toán khá hóc búa, Công ty thường phải vay vốn ngân hàng chính điều này đã làm giảm lợi nhuận của công ty.
Thứ hai, thị trường của công ty còn bấp bênh, không ổn định, manh mún. Do vậy, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty.
Thứ ba, việc thâm nhập vào các thị trường mới của công ty còn gặp rất nhiều khó khăn, do chưa có được một chiến lược Marketing tương xứng.
Tóm lại, với những khó khăn chủ quan và khách quan nói trên, nhưng với sự nỗ lực vượt bậc của tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong công ty, trong các năm qua công ty đã thực hiện tương đối tốt các chỉ tiêu Bộ giao cho và trong năm 1999 Công ty đã vinh dự được nhà nước tặng Huân chương lao động hạng ba và các cá nhân xuất sắc được Chính phủ và Bộ Thương mại tặng bằng khen.
Chương III
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
ở Công ty Xuất nhập khẩu với Lào - Vilexim
1. Phương hướng xuất khẩu của công ty.
Dựa trên cơ sở tình hình thực tế hoạt động của công ty trong thời gian 1999-2001 như nguồn vốn chưa phải là dồi dào, hàng tồn kho còn nhiều nên bị đọng vốn và thuế GTGT chưa được hoàn trả, thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước không ổn định...
Căn cứ vào xu hướng phát triển kinh tế thương mại thế giới, khu vực và cả ở trong nước còn tiềm ẩn nhiều khó khăn bất trắc do khủng hoảng về dầu lửa hiện nay trên các châu lục, công ty đề ra mục tiêu chiến lược cho kế hoạch phát triển của công ty trong 5 năm tiếp theo (2001-2005) như sau:
- Tăng cường buôn bán với các nước trong khu vực và bạn hàng Lào, mở rộng thêm quan hệ hợp tác với các nước ở khu vực Châu Âu và các nước trung đông, bước đầu tiếp cận thị trường Mỹ.
- Đầu tư mạnh hơn cho xuất khẩu mặt hàng nông sản chủ lực của công ty, khai thác thêm thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng, gia dụng và dược liệu.
- Nghiên cứu việc đầu tư liên doanh liên kết thêm với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, tận dụng các lợi thế để tăng cường khả năng xuất khẩu cho công ty.
- Đảm bảo kết quả kinh doanh tương đương hoặc vượt các năm trước, bảo đảm được nguồn vốn nhà nước cấp và bổ sung nguồn vốn cho công ty, hoàn thành các khoản nộp ngân sách theo đúng quy định về số lượng và thời hạn.
- Hiện nay công ty đang có dự án từ nay đến năm 2010: quy hoạch vùng sản xuất tập trung cho các vùng trồng lạc ở Nghệ An, Thái Nguyên, để phục vụ cho xuất khẩu.
- Nâng ca
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0097.doc