Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá

CHƯƠNG I 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1

I. Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1

1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1

1.1. Cơ cấu kinh tế 1

1.2. Cơ cấu ngành kinh tế 3

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 4

2.1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 4

2.2. Các lý thuyết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 5

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 8

2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 10

2.5. Các chỉ tiêu đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 13

II.Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá. 14

1. Những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 14

1.1. Điều kiện tự nhiên. 14

1.2. Kinh tế xã hội 18

1.3. Tiềm năng và hạn chế 20

2. Thực trạng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 21

III. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số địa phương. 22

1. Tỉnh Nghệ An. 22

2. Tỉnh Hà Nam 23

CHƯƠNG II 25

THỰC TRẠNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦATỈNH THANH HOÁ TRONG THỜI KỲ 1996 ĐẾN 2002 25

I.Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá. 25

1. Tăng trưởng kinh tế. 25

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 25

3. Đầu tư phát triển. 26

4. Hoạt động xuất nhập khẩu. 26

5. Thu chi ngân sách. 27

6. Đời sống kinh tế và xã hội 27

 

doc95 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá trị sản xuất của toàn ngành thuỷ sản khoảng 480,7 tỷ đồng. Nuôi trồng thuỷ sản được quan tâm phát triển. Tổng diện tích nuôi trồng đạt 15.000 ha, trong đó nuôi diện tích nuôi chuyên canh 11.135 ha, nuôi không chuyên canh là 3865 ha. Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 14742 tấn (riêng tôm sú nuôi đạt 1862 tấn là năm có sản lượng tôm cao nhất từ trước đến nay). Cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản đã được tập trung chỉ đạo chuyển dịch theo hướng tăng năng suất và hiệu quả. Các sản phẩm chủ yếu của Thuỷ sản bao gồm: cá, tôm, mực. Trong đó sản lượng cá chiếm tỷ trọng cao nhất là trên 60% trong tổng số lượng toàn ngành thuỷ sản. Trong những năm gần đây sản lượng tôm, mực có chiều hướng tăng lên. Nhiều giống tôm, cá đã được đưa vào nuôi trồng như tôm càng xanh, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng... được đưa vào nuôi thâm canh làm cho lượng thuỷ sản tăng lên đáng kể về số lượng và chủng loại. Nhìn chung ngành nông nghiệp trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kể. Ngành nông nghiệp đã góp phần vào việc gia tăng giá trị xuất khẩu với các sản phẩm chủ yếu như: lạc nhân, chè, gạo, thịt đông, dưa chuột muối, thảm cói đay, hàng tre mây... nông nghiệp còn cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nông sản của tỉnh, phục vụ nhu câù tiêu dùng trong cả nước. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa, vùng lúa cao sản ở các huyện đồng bằng. Nhiều mô hình trang trại sản xuất nông nghiệp kết hợp với lâm nghiệp trên vùng đồi, các mô hình thâm canh lúa nước,mía, lạc nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi trâu bò là những tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp trong tương lai. Đến nay toàn tỉnh đã có 2.190 trang trại với các loại hình: trồng cây hàng năm, cây lâu năm, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi, bước đầu đã có hiệu quả thiết thực về kinh tế xã hội. Tuy nhiên các trang trại này vẫn ở quy mô nhỏ, phạm vi chủ yếu là trong gia đình. Song song với những kết quả đạt được là những yếu kém của ngành: ngành nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, cơ cấu nông nghiệp chậm được chuyển đổi để gắn với thị trường và phù hợp với hệ sinh thái. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp tuy đã được tăng cường nhưng chưa đáp ứng cho yêu cầu sản xuất nông nghiệp đạt mức tăng trưởng cao và ổn định. Năng suất lao động trong nông nghiệp còn thấp, đời sống nông dân còn nhiều khó khă. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, khâu chế biến của địa phương chưa được đầu tư thỏa đáng, hiệu quả thấp, giá thành sản phẩm còn quá cao so với giá cạnh tranh... đang là những thách thức lớn đối với ngành nông nghiệp. 2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Xây dựng và công nghiệp ở Thanh Hoá có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với nền kinh tế của tỉnh theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Với tiềm năng dồi dào về tài nguyên, lao động công nghiệp Thanh Hoá đã những đổi mới đáng phấn khởi. Hàng năm đóng góp của công nghiệp vào ngân sách tỉnh khoảng 60-65%. Tốc độ tăng trưởng của ngành hàng năm vào khoảng 13%/năm. Các nhóm ngành chính trong ngành công nghiệp bao gồm: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện nước. Trong nội bộ ngành công nghiệp có những thay đổi đáng kể từ năm 1996 đến nay. Bảng 14 : Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuất phân theo ngành kinh tế của Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2002. Đơn vị: % Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Công nghiệp khai thác 4,0 4,4 4,3 5,2 4,0 3,7 4,0 Công nghiệp chế biến 95,7 95,3 95,0 94,6 95,7 96,0 95,8 Công nghiệp điện, nước 0,3 0,3 0,7 0,2 0,3 0,3 0,3 Nguồn: Sở Công nghiệp Thanh Hoá Xu hướng biến đổi của các ngành trong ngành công nghiệp là: ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất trên 90%, sau đó là ngành công nghiệp khai thác và cuối cùng là ngành công nghiệp điện nước. Công nghiệp khai thác: chủ yếu ở đây là khai thác đá, cát sỏi... khai thác quặng kim loại. Còn khai thác than ở Thanh Hoá là rất ít vì đây là nguồn hạn chế nhất. Trong những năm từ 1996, 1997 giá trị hầu như không đáng kể, mãi đến năm 1998 mới đạt giá trị 25 triệu đồng. Ngành khai thác đá và các mỏ khác chiếm tỷ trọng cao nhất năm 1996 đạt 78%, năm 2002 đạt 72,7%. Do tiềm năng sẵn có của các núi đá (Thanh Hoá có trữ lượng đá vôi lớng nhất cả nước) và nhu cầu sản xuất như sản xuất xi măng, gạch ốp lát, đá xẻ... cho nên ngành khai thác đá và các mỏ khác đạt giá trị cao nhất trong công nghiệp khai thác.Năm 2002 giá trị sản xuất ngành này có xu hướng giảm xuống là do sản phẩm trên địa bàn bị ứ đọng nhiều nên buộc các nhà sản xuất phải hạn chế khai thác. Đứng sau công nghiệp khai thác đá là khai thác quặng kim loại. Đáng chú ý là quặng crôm chiếm đa số trong ngành này bởi vì Thanh Hoá là tỉnh duy nhất trong cả nước có chứa khối lượng crôm cao nhất 21.898 triệu tấn. Công nghiệp chế biến: Thế mạnh của công nghiệp chế biến là các sản phẩm như vật liệu xây dựng (cát, vôi, sỏi đá, xi măn, gạch, chất keo dính xây dựng...), đường bánh kẹo, hải sản đông lạnh, nước mắm.... Bảng15: Các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp chế biến Thanh Hoá giai đoạn 1996-2002 Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Vật liệu xây dựng: - Xi măng - Cát sỏi - Gạch nung - Ngói lợp - Vôi - Đá ốp lát - Thép + phôi - Gạch lát hoa - GạchCeramic ......... Tấn 1000m³ 1000 viên 1000 viên Tấn 1000 m² Tấn 1000 viên 1000 m² 1237 635,4 256493 15095 62500 273 2375 3464,1 - 1209 762,8 227264 14455 75090 259 2169 3320 - 1211 878,5 239977 13242 80200 348 3106 4000 215 1066 932,5 246964 10081 101521 401,8 3722 1577 325 1671 993,8 316282 12118 115271 449,9 3515 1673 401 2754 1003 345729 11038 107381 967 3203 1635 423 3551 1400 526000 10170 126600 1410 3100 1578 700 Hải sản đông lạnh Tấn 563 1043 1220,4 1270,6 2091 2570 3500 Đồ uống 1000 lít 13180 13817 19342 15355,5 18.034,5 17.017 22.000 Nước mắm 1000 lít 3461 5391 5287 5061 5.892 6197 6715 Đường+ bánh kẹo Tấn 33780 49948 69949 93850 202683,3 145761 132571 Chiếu cói 1000 lá 2310 2712 2953 3598 3940,9 3833 3545 Quần áo may sẵn 1000 cái 2217 2702 2994,3 2492 3037,6 3245 4648 ........ ..... .... ..... Nguồn : Cục thống kê tỉnh Thanh Hoá Qua bảng trên ta thấy: Các mặt hàng của công nghiệp chế biến đều tăng nhanh qua các năm. Trong ngành vật liệu xây dựng tăng nhanh nhất vẫn là xi măng từ 1237 tấn năm 1996 tăng lên đến 3.551 tấn năm 2002, bởi vì Thanh Hoá có 2 nhà máy xi măng lớn là nhà máy xi măng Bỉm Sơn và nhà máy xi măng Nghi Sơn với công suất 4,1 triệu tấn/năm. Hiện nay, Thanh Hoá có tới 3 nhà máy đường: Lam Sơn, Việt -Đài và Nông Cống với tổng công suất 14.000 tấn mía/ngày, điều đó lý giải rằng tại sao mà sản lượng mía đường tăng mạnh đến như vậy. Khối lượng đường mật tăng từ 33.053,7 năm 1996 tấn lên tới 142628 tấn năm 2002. Nhưng trong hai năm trở lại đây sản lượng đường giảm mạnh. Đến năm 2002 chỉ còn lại có 109.485 tấn. Công nghiệp điện nước: Chiếm tỷ trọng thấp nhất trong các ngành, năm 2002 nó chỉ chiếm có 0,3%. Các phân ngành chính của công nghiệp điện nước là phân phối và sản xuất điện, nước cho sản xuất và tiêu dùng. Trong hai phân ngành này thì sản xuất và phân phối điện là chủ yếu, chiếm hơn 80%, còn sản xuất và phân phối nước chiếm tỷ trọng rất bé. Nguyên nhân chủ yếu là chỉ ở thành phố, thị xã, thị trấn mới có nhu cầu dùng nước máy còn lại đa phần người dân nông thôn ở Thanh Hoá họ sinh hoạt chủ yếu dựa vào nước ngầm thông qua hình thức đào giếng. Trong tương lai khả năng phát triển mạnh ngành này có thể được xem là sáng sủa, cùng với tốc độ đô thị hoá ngày càng lên cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cũng như trong cả nước, khu vực và trên thế giới. Trên đây mới chỉ là những đánh giá chung nhất về thực trạng công nghiệp tỉnh Thanh Hoá phân theo ngành sản xuất. Để đánh giá đúng thực trạng của ngành công nghiệp hiện nay như thế nào, đề tài xin được đề cập đến khía cạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp phân theo thành phần kinh tế. Bảng 16 : Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuât phân theo khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1. Khu vực vốn trong nước 99,9 97,5 94,8 93,4 83,4 71,0 71,6 2. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0,1 2,5 5,2 6,6 16,6 29,0 28,4 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá Qua bảng trên ta nhận thấy: Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh từ khôi đáng kể năm 1996 đến năm 2002 đã chiếm tỷ trọng 28,4% giá trị sản xuất toàn ngành. Công nghiệp có vốn đầu tư trong nước từ chỗ chiếm tỷ trọng chủ yếu 99,9% năm 1996 giảm xuống còn có 71,6% năm 2002. Vì vậy cơ cấu công nghiệp theo các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân 6,4%/năm, công nghiệp địa phương quản lý tăng 16,64%/năm trong đó ngoài quốc doanh tăng 30,31%/năm. Nhìn chung ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hoá trong thời gian qua đã có những thành tích đáng kể, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng, đã tập trung đầu tư một số ngành công nghiệp có lợi thế so sánh như công nghiệp chế biến vật liêụ xây dựng, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản... Tuy nhiên vẫn còn yếu kém: cơ cấu sản phẩm ngành nghề còn đơn điệu, chậm đổi mới, nhiều ngành hàng tiêu dùng, chế biến nông lâm thuỷ sản, ngành thu hút nhiều lao động như dệt may, giày da...chưa được tổ chức sản xuất nhiều trong tỉnh, chưa đáp ứng được nhu cầu ngay cả thị trường nội tỉnh. Doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh do địa phương quản lý đại bộ phận có công nghệ lạc hậu khó tháo gỡ về mặt tài chính, về tổ chức lao động, do đó hoạt động kém hiệu quả, các doanh nghiệp mới đầu tư công suất còn thấp. Công nghiệp ngoài quốc doanh tuy đã có bước phát triển khá nhưng chưa mạnh, chưa phát huy được hết nội lực trong nhân dân, các chính sách khuyến khích đầu tư chưa đồng bộ và chưa được quan tâm tổ chức chỉ đạo thực hiện. 2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ Các hoạt động dịch vụ thương mại trong những năm qua phát triển nhanhvà đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, nhất là hoạt động kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tiền tệ,du lịch và các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Tỷ trọng GDP ngành dịch vụ từ năm 1996 đến năm 1997 liên tục tăng, nhưng từ sau năm 1998 tỷ trọng này bị giảm sút, do chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Đến năm 2002 tỷ trọng dịch vụ còn có 32,62%, trong khi đó tỷ trọng này đã đạt được 34,6% GDP vào năm 1998. Xu hướng trong những năm tới tỷ trọng ngành này sẽ tăng vì thị trường đã ổn định, theo ước tính thì tỷ trọng GDP của ngành này đã tăng lên 33,2% vào năm 2002, đây là một xu hướng tích cực. > Ngành thương mại Thương mại đã được xây dựng và phát triển thị trường với nhiều thành phần tham gia. Năm 2002tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường đạt 4.300 tỷ đồng, tăng bình quân năm là 7,7%. Diện mạo thị trường có nhiêu khởi sắc, hàng hoá phong phú, cung ứng đầy đủ nhu cầu vật tư, hàng hoá cho sản xuất và đời sống. Thương mại nhà nước ngoài việc đảm bảo các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống còn cung ứng đầy đủ, kịp thời các mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào miền núi, các xã khó khăn... Hoạt động xuất nhập khẩu: khả năng xuất nhập khẩu các mặt hàng trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng lên trong thời gian vừa qua. Những năm gần đây đã khắc phục được tình trạng nhập siêu. Bảng 17: Thực trạng xuất nhập khẩu Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: Nghìn USD 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 13509 26566 28356 25897 36950 45520 57500 Nhập khẩu 18751 36643 20000 28000 30000 29355 37515 X- N -5242 -10077 8536 -2103 6950 16165 19985 Nguồn: Phòng thương mại- Sở Kế hoạch và Đầu tư Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có chiều hướng gia tăng 32260 nghìn USD năm 1996 lên 95015 nghìn USD năm 2002. Trong các năm từ 1996, 1997 và năm 1998 Thanh Hoá vẫn phải nhập siêu, nhập siêu cao nhất là năm 1997 là 10.077 nghìn USD. Đến năm 2000 do xuất khẩu gia tăng mạnh đã khắc phục được tình trạng nhập siêu. Một số loại hàng nhập khẩu như là: thép, phôi thép, ô tô, tủ lạnh, phân đạm, máy móc thiết bị... Trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tỉnh đã giành 82,5% để nhập khẩu tư liệu sản xuất. Bảng18: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Thanh Hoá trong thời gian 1996-2002 Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Gạo tẻ Tấn 4000 8000 13545 700 - 1100 828 Lạc nhân tấn 7210 3230 2656 4145 5366 5366 8732 Cà phê Tấn - - - 41 637 20 4000 Hạt tiêu đen Tấn 500 602 68 - - 95 102 Xi măng Tấn 800 - - - 18267 14574 - Quặng Crom Tấn 16936 24202 53838 56442 63178 51012 54730 May gia công 1000sp 561 323 361 373 363 421 514 Đá ốp lát hoa m² 15594 40614 43980 29547 126260 263040 464000 Hải sản đông lạnh Tấn 756 545 443 604 1228 1646 2222 Dưa chuột Tấn 90 437 1000 1000 818 800 690 Súc sản Tấn 33 502 576 43 328 363 245 Hàng mây tre đan mỹ nghệ 100sp 308 274 662 1100 629 917 1521 Luồng ván sàn m² 2240 12300 4920 6850 2600 7500 6541 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Mặc dù những năm qua sản lượng các mặt hàng xuất khẩu có tăng nhưng hoạt động xuất khẩu vẫn là lĩnh vực còn nhiều yếu kém, trì trệ chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của tỉnh. Xuất khẩu mới chỉ đạt 16% so với mục tiêu đề ra do các mặt hàng lương thực, xi măng, đường, hải sản, nông sản... không có xuất hoặc rất thấp. > Ngành dịch vụ khác Đối với ngành dịch vụ du lịch phát triển khá, lượt khách du lịch đến địa bàn tỉnh tăng đều qua các năm . Năm 1996 có 234675 lượt khách du lịch (kể cả trong và ngoài tỉnh) thì đến năm 2002 lượt khách này đã tăng lên đến 427.636 lượt, tổng doanh thu du lịch năm 2002 đạt 120 tỉ đồng. Dịch vụ bưu chính viễn thông có bước tăng trưởng khá trong các năm gần đây, ngành bưu chính viễn thông đã có cố gắng để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, đáp ứng kịp thời cho vệc chỉ đạo các hoạt động của các cấp chính quyền trong các hoạt động kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh.Doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông năm 2002 đạt 128 tỷ đồng, số máy điện thoại được lắp đặt tăng từ 20.500 máy năm 1996 lên tới 26.000 máy năm 2002,đưa tổng số máy điện thoại toàn tỉnh lên tới 80.000 máy, bình quân 22,1 máy trên 1.000 dân. Số trạm bưu điện văn hoá xã tăng khoảng 3,6%/năm. Ngành giao thông vận tải cuả Thanh Hoá được đánh giá cao vì Thanh Hoá có các tuyến đường giao thông quan trọng như: quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam đi qua và đường biển có khả năng hoạt động rất hiệu quả trong lĩnh vực vận chuyển hàng hoá và luân chuyển hàng hoá cũng như là hành khách. Do vậy khối lượng hành khách và hàng hoá liên tục tăng đều qua các năm. Điều này được thể hiện trong bảng 17 sau; Bảng19: Thực trạng vận tải của Thanh Hoá ĐVT 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Vận tải hàng hoá - Khối lượng vận chuyển - Khối lượng luân chuyển 1000 tấn 3418 228158 3981 223632 4123 228250 4365 234484 4568 242232 4740 249973 5002 258071 2. Vận chuyển hành khách - Khối lượng vận chuyển - Khối lượng luân chuyển 1000người 1232 133888 1524 147325 1456 155000 1743 165870 1856 170370 2014 180410 2165 194834 Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hoá Khối lượng vận chuyển cũng như luân chuyển hàng hoá và hành khách tăng liên tục qua các năm, đưa giá trị sản xuất ngành giao thông vận tải lên khá cao so với các ngành khác thuộc lĩnh vực dịch vụ Thanh Hoá. Gía trị sản xuất của ngành vận tải tăng qua các năm, năm 1996 gía trị của nó đạt 201.022 triệu đồng đến năm 2002 giá trị này trên 350.000 triệu đồng. Nhưng chất lượng đường liên huyện, liên xã chưa đảm bảo so với nhu câu cần thiết do đó ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng phát triển kinh tế của Thanh Hoá trong những năm tới. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá trong thời gian qua đã có bước đi đúng hướng, phù hợp với quy luật của sự phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó còn những khó khăn, yếu kém không nhỏ. Điều này sẽ được đề cập đến ở phần II của chương. 3. Tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến phát triển kinh tế xã hội. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ của các ngành kinh tế theo phương hướng nhất định. Hiện nay nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thanh Hoá tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, khai thác tối đa thế mạnh của mình, từng bước phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ, nhằm thu được giá trị kinh tế và những kết quả cao nhất. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi cơ cấu này từ chỗ chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang công- nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. Nó là phương hướng cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của một nước nói chung và của tỉnh nói riêng, thể hiện: - Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của nước công nghiệp chậm phát triển, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế khắc phục được tình trạng: sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém và nhỏ bé, công nghệ lạc hậu...sản phẩm hàng hoá còn đơn điệu, chất lượng thấp, không có khả năng cạnh tranh, khó tiêu thụ; nâng cao đời sống nhân dân.... - Khai thác và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú. - Tránh được các nguy cơ: tụt hậu về kinh tế, đi lệch hướng xã hội chủ nghĩa, quan liêu bao cấp..., thực hiện được mục tiêu của Đảng đề ra "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". 4. Những chính sách và biện pháp đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, Thanh Hoá cũng đã có những tiến bộ vượt bậc trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Đạt được kết quả như vậy là cả một sự phấn đấu không ngừng của Đảng và nhân dân tỉnh Thanh. Trong những năm qua các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo tỉnh cùng các cơ quan ban ngành tìm ra các giải pháp, chính sách cho sự phát triển kinh tế nói chung và cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng. Trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến các giải pháp chính sách đã thực hiện trong thời gian qua đối với các ngành kinh tế để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: - Trong nông nghiệp: Hoàn thành chương trình kiên cố hoá kênh mương, đầu tư cải tạo nâng cấp các hồ đập, ưu tiên làm công trình tiêu ứng, công trình tưới. phát triển chăn nuôi theo hướng cải tạo đàn giống, xây dựng các cơ sở chế biến thứ ăn... Chuyển đổi và thành lập các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Lâm nghiệp: Đổi mới tổ chức và hoạt động của các lâm trường quốc doanh, phát triên kinh tế trang trại. Có chính sách giao rừng đến hộ sản xuất, chính sách khuyến khích sử dụng đất sau khi giao, chính sách vay vốn... Thuỷ sản: Đã đầu tư đồng bộ và hiệu quả các đội tàu đánh cá xa bờ, cải tiến cơ cấu nghề đánh bắt gần bờ. Thực hiện hình thức quảng canh cải tiến bán thâm canh nuôi tôm công nghiệp. Các hình thức hợp tác trong sản xuất kinh doanh thuỷ hải sản. - Trong công nghiệp: Sắp xếp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, có chinh sách khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển, tạo môi trường đầu tư thông thoáng thuận lợi, nhà nước có sự hỗ trợ các doanh nghiệp. - Trong dịch vụ: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại đặc biệt là ngoại thương; công tác quản lý thị trường được tăng cường, sắp xếp lại hệ thống kinh doanh thương mại, khuyến khích tư nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực cho du lịch và vận tải. Đổi mới trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho vận tải hành khách chất lượng cao. Các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng, tư vấn, công nghệ thông tin dịch vụ kỹ thuật, đẩy mạnh thị trường vốn đặc biệt là ở nông thôn, các chương trình mục tiêu quốc gia đã được lồng ghép với nhau. III. Những kết luận được rút ra từ thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hóa. 1. Những kết quả đạt được Cơ cấu kinh tế ngành là tổng thể các quan hệ tỷ lệ và tác độngqua lại giữa các ngành. Qua việc phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá trong thời gian qua, trên cơ sở so sánh giữa mục tiêu và kết quả đạt được của các chỉ tiêu, đề tài rút ra một số nhận xét về kết quả đạt được như sau: Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thanh Hoá trong thời gian qua được thực hiện trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế chuyển từ khép kín sanh nền kinh tế mở vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước đã tác động sâu sắc đến quá trình phát triển nền kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành của Thanh Hoá nói riêng. Thông qua các chính sách phát triển như tự do hoá lưu thông, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các luật khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước được ban hành và có sự thay đổi ngày càng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, các chính sách tài chính tiền tệ, tín dụng ưu đãi đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng... đã thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế mà đặc biệt là tham gia vào việc phát triển các ngành kinh tế trong tỉnh. Đây thực sự là những động lực và hành lang pháp lý hữu hiệu bền vững cho sự tăng trưởng và phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Thứ hai, cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp bước đầu hình thành một số khu công nghiệp tập trung. Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo đúng hướng tăng dần tỷ trọng các ngành chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất cao và cây có giá trị phục vụ cho xuất khẩu, sản lượng lúa của tỉnh tăng liên tục trong các năm. Trong công nghiệp tỉnh đã bước đầu có sự chuyển dịch dần theo hướng loại bỏ tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu và theo hướng hiện đại hóa các thiết bị, công nghệ sản xuất. Từ một nền công nghiệp đơn thành phần đã trở thành một nền công nghiệp đa thành phần, cả công nghiệp tiểu và tiểu thủ công nghiệp đều có sự phát triển, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Trong cơ cấu dịch vụ cũng có nhiều biến chuyển, các hoạt động dịch vụ như bưu điện, tài chính ngân hàng ngày càng tăng, trình độ trang thiết bị cơ sở vật chất khu vực dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, vận tải... được tăng cường một bước. Ngành du lịch của vùng hiện nay đang chiếm dần ưu thế, bên cạnh lượng khách trong nước, tỉnh đang ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch nước ngoài. Trong việc phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế ở Thanh Hoá bước đầu đã hình thành một số khu công nghiệp tập trung gắn với vùng kinh tế động lực, hình thành một số vùng cây công nghiệp tập trung, có quy mô lớn như vùng mía ở miền đồi núi thấp 30.000 ha, vùng chè, vùng cà phê, vùng cao su...gắn vói các cơ sở công nghiệp chế biến tạo điều kiện khai thác tiềm năng lợi thế của mỗi vùng. Thứ ba, đã huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là từ năm 1996 trở lại đây, bình quân mỗi năm huy động được 2000-3000 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Vốn đầu tư được tập trung hơn, cơ cấu đầu tư được điều chỉnh theo xu hướng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế của tỉnh, một số công trình lớn đã phát huy tác dụng như nhà máy xi măng Nghi Sơn, nhà máy đường Việt - Đài... Đặc biệt là trong thời gian qua là thời kỳ tỉnh đã tập trung mạnh cho đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất, mạng lưới giao thông thuỷ lợi, điện nước tăng cường và củng cố, đảm bảo cho sản xuất của toàn bộ nền kinh tế được lưu thông. Sự xuất hiện của nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng trưởng nhanh đã mở ra một thời kỳ mới cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng mở cửa và hội nhập. Thứ tư, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá đã xuất hiện một số mô hình mới như: mô hinh kinh tế đồi, vườn rừng, vườn đồi, mô hình kinh tế trang trại...Đặc biệt là mô hình hiệp hội mía đường Lam Sơn đang được cả nước học tập kinh nghiệm với sự hợp tác đa thành phần, đa sở hữu trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhiều loại hình kinh doanh có liên quan đến trồng mía, dịch vụ và chế biến tiêu thụ đường tham gia. Tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và kinh tế hộ gia đình, giữa nông nghiệp, lâm nghiệp với công nghiệp chế biến, sản xuất và các loại hình dịch vụ khác. Có thểkhẳng định đây là mô hình mới, có hiệu quả rõ rệt, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Thứ năm, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá là quá trình cải biến t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37135.doc
Tài liệu liên quan