LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 3
1. Cứu trợ xã hội 3
2. Cứu trợ đột xuất và công tác cứu trợ đột xuất 5
2.1. Khái niêm 5
2.2. Đối tượng của cứu trợ đột xuất 6
2.3. Nội dung của cứu trợ đột xuất 6
2.4. Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất 7
2.5. Nguồn kinh phí và quá trình tổ chức thực hiện. 8
II. VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 9
1. Thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta. 9
2. Phù hợp với truyền thống của người Việt Nam. 9
3. Phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai 10
4. Góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt, chênh lệnh mức sống và xoá đói giảm nghèo. 10
5. Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội. 11
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 11
1. Giai đoạn 1945 – 1964 13
2. Giai đoạn từ 1965 – 1975 13
3. Giai đoạn từ 1976 – 1985 14
4. Giai đoạn từ 1986 đến nay 14
IV. NHỮNG NHÂN TỔ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 16
1. Điều kiện tự nhiên 16
1.1.Đặc điểm về thời tiết khí hậu 16
1.2. Đặc điểm về địa hình 16
2. Các điều kiện về kinh tế - xã hội 17
2.1. Cơ sở hạ tầng 17
2.2. Mặt trái của quá trình đô thị hoá 17
2.3. Phong tục tập quán 19
2.4. Cơ chế, chính sách đầu tư 19
2.5. Chính sách hỗ trợ sản xuất 20
2.6. Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt trái của
nó 20
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 – 2005 23
I. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT 23
II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 - 2005. 26
1. Tình hình thiên tai và thiếu đói. 26
1.1. Tình hình thiên tai 26
1.2. Tình hình thiếu đói 28
2. Chính sách cứu trợ đột xuất và công tác chỉ đạo cứu trợ 29
2.1. Chính sách CTĐX hiện hành 29
2.1.1. Về đối tượng 29
2.1.2. Về tiêu chí và chế độ cứu trợ đột xuất 30
2.1.3. Về kinh phí thực hiện cứu trợ đột xuất 33
2.1.4. Về hình thức cứu trợ 34
2.1.5. Về tổ chức thực hiện 34
2.2. Công tác chỉ đạo cứu trợ đột xuất 38
3. Kết quả khắc phục hậu quả thiên tai 40
4. Một số hạn chế và nguyên nhân 42
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 46
I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT
1. Quan điểm đẩy mạnh công tác CTĐX. 46
2. Phương hướng đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất 47
3. Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2010 48
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010. 49
1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về cứu trợ đột xuất. 49
2. Tăng cường hệ thống dự báo, cảnh báo sẵn sàng đối phó với những biến cố đột xuất có thể xảy ra 50
3. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho những vùng sung yếu, vùng hay xảy ra thiên tai, vùng sâu, vùng xa .51
4. Lập quỹ dự phòng riêng cho CTĐX tại các địa phương do địa phương
quản lý. 52
5. Thực hiện chương trình quản lý nguy cơ thiên tai dựa vào cộng đồng và cứu trợ cộng đồng tại chỗ. 54
6. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa CTĐX với các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. 56
7. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý nguồn cứu trợ .57
8. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác cứu trợ đột xuất từ trên xuống. 58
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 58
KẾT LUẬN 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
65 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c CTXH trong việc huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện các giải pháp. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn về kinh tế, ưu tiên ngân sách cho đầu tư phát triển. Chủ trương xã hội hoá công tác cứu trợ là một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Hướng chính sách là chỉ trợ cấp cho những đối tượng mà cộng đồng không giúp đỡ được thì Nhà nước mới trợ giúp.
Thứ ba, phân cấp trong tổ chức thực hiện chính sách và các chương trình CTXH.
CTĐX không phải là Nhà nước tổ chức đền bù tất cả những mất mát, thiệt hại do thiên tai, địch hoạ gây ra, mà là sự hỗ trợ một phần cho đối tượng đang gặp khó khăn có điều kiện vươn lên. Với nguyên tắc:
- Khó khăn nhiều giúp nhiều, khó khăn ít trợ giúp ít, lấy sự cưu mang đùm bọc cộng đồng là trước hết.
- Tính chất của công tác CTXH đột xuất phải bảo đảm ba yếu tố cơ bản là: kịp thời, nhanh chóng và chính xác; không bỏ sót nhầm lẫn hoặc tràn lan.
- Thực hiện cứu trợ từ cơ sở (xã, phường) thông qua bình xét để bảo đảm công bằng, đúng chế độ hiện hành. Quá trình thực hiện cần nhận thức đúng những nội dung sau:
- Cộng đồng hỗ trợ có vai trò quan trọng nhất. Bởi vì sự hỗ trợ của nhân dân rất đa dạng, nhanh nhất, kịp thời nhất và thiết thực nhất: như nhân lực, vật lưc và kinh phí hoạt động này luôn gắn liền với tình làng, nghĩa xóm trong lúc hoạn nạn.
- Ngân sách Trung ương trong mục bảo đảm xã hội và dự phòng phí được cân đối ở tỉnh và thành phố, ngoài ra còn có ngân sách Nhà nước dự phòng ở Trung ương chi hỗ trợ khi nhu cầu chế độ vượt quá khả năng của địa phương.
II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 - 2005.
1. Tình hình thiên tai và thiếu đói.
1.1. Tình hình thiên tai
Việt Nam là một quốc gia hàng năm phải chịu ảnh hưởng bởi nhiều loại thiên tai khác nhau, nhưng thường xuyên nhất là lũ và bão. Trong những năm gần đây, thiên tai ở Việt Nam có xu hướng bất thường, diễn biến không theo quy luật, chỉ tính trong 6 năm từ 2000 - 2005 đã có trên 30 cơn bão lớn nhỏ đổ bộ vào nước ta. Nhiều năm có tới 7 - 8 cơn bão liên tiếp gây thiệt hại cho hàng chục tỉnh/thành phố. Thiên tai hàng năm đã cướp đi sinh mạng hàng trăm con người, phá huỷ hàng chục nghìn ngôi nhà và hàng triệu ha lúa, hoa màu các loại, thiệt hại về tài sản lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng, trong đó cộng đồng dân cư là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất.
Năm 2000 thiên tai đã cướp làm chết 831 người, mất tích 9 người, bị thương 585 người và thiệt hại về tài sản gần 5 nghìn tỷ đồng, làm cho gần 1,2 triệu người thiếu đói cần cứu trợ; các khu vực bị thiệt hại nặng là Đông Bắc, Tây Bắc, Duyên hải miền Trung và ĐBSCL.
Năm 2001 số người chết có giảm đi còn 663 người, mất tích 8, bị thương 334, thiệt hại về tài sản hơn 3 nghìn tỷ đồng và khoảng 1,1 triệu hộ thiếu đói cần cứu trợ; khu vực bị thiệt hại nặng là Đông Bắc, Duyên hải miền Trung và ĐBSCL.
Năm 2002 số người chết là 552, mất tích 13, bị thương 372, thiệt hại về tài sản khoảng 2.304 tỷ, có 571.986 hộ lâm vào cảnh thiếu đói; khu vực bị thiệt hại nặng là Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và ĐBSCL.
Năm 2003 số người chết là 332, mất tích 2, bị thương 420, thiệt hại về tài sản gần 2 nghìn tỷ đồng, làm hơn 22 nghìn hộ gia đình lâm vào cảnh thiếu đói; khu vực ảnh hưởng nặng là Đông Bắc, Tây Bắc, Duyên hải miền Trung và ĐBSCL.
Năm 2004 những con số này lần lượt là 232, 38, 187, 900 và 261.512 hộ; cá khu vực bị ảnh hưởng nặng là miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
Năm 2005 các con số này lần lượt là: người chết 361, thiệt hại về tài sản 5,6 nghìn tỷ và gần 1,5 triệu người thiếu đói; các khu vực bị ảnh hưởng nặng là Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên.
Như vậy, trong 6 năm hầu như năm nào thiên tai diễn ra cũng ác liệt. Năm thiệt hại nhiều nhất (cả về người và tài sản) là năm 2005, sau đó là năm 2000 và năm 2001. Và những khu vực thường bị ảnh hưởng nặng là Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và ĐBSCL.
Dưới đây là biểu tổng hợp tình hình thiệt hại thiên tai và cứu trợ đời sống dân sinh tại các địa phương từ năm 2000 - 2005 (Biểu 1).
Biểu1: Tình hình thiệt hại do thiên tai (2000 - 2005)
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
Thiệt hại về người
1.1
Người chết
người
831
663
552
332
232
361
1.2
Mất tích
người
9
8
13
2
38
27
1.3
Người bị thương
người
585
334
372
420
187
261
2
Thiệt hại về tài sản, hoa màu
2.1
Nhà đổ, sập, trôi
nhà
11.741
11.240
13.855
5.286
4.200
7.050
2.2
Nhà ngập
nhà
1.190.218
734.358
387.394
256.493
240.000
2.3
Số hộ cần di dời chỗ ở
hộ
67.094
2.4
Diện tích lúa, hoa màu ngập
ha
561.019
123.502
188.673
221579
470.000
Trong đó: diện tích mất trắng
ha
139.565
27.948
62.659
24380
108.000
2.5
Tổng thiệt hại
tỷ đồng
4.998
3.008
2.304
1.825
900
5.607
Nguồn: Vụ BTXH, Bộ LĐTBXH
1.2. Tình hình thiếu đói
Do hậu quả của thiên tai gây ra là mất mùa nhiều nơi dẫn đến dân thiếu đói, hết lương thực.
Theo báo cáo của các địa phương hàng năm có khoảng 1 triệu đến 2 triệu lượt người thiếu đói cần cứu trợ dịp tết Nguyên đán, giáp hạt và thiên tai và trong vòng 6 năm từ 2000 đến 2005 đã có gần 7 triệu lượt người thiếu đói, những năm có số lượt người thiếu đói cao nhất là 2000 (1.234.065 lượt), 2001 (1.120.970 lượt người) và 2005 (1.480.974 lượt người). Trong đó chủ yếu là thiếu đói do giáp hạt. Chi tiết xem Biểu 2:
Biểu 2: Tình hình thiếu đói do hậu quả của thiên tai (2000 - 2005)
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số lượt nhân khẩu thiếu đói
lượt
1.234.065
1.120.970
923.425
1.123.550
964.242
1.480.974
Trong đó:
- Hỗ trợ dịp tết nguyên đán
- Giáp hạt
- Ảnh hưởng lũ lụt
lượt
lượt
lượt
165.302
859.096
210
167.579
247.744
705.646
276.085
432.015
215.322
223
614
287
273.208
544.445
219
73
770
637
Nguồn: Vụ BTXH, Bộ LĐTBXH
Trên đây là những con số rất đáng báo động, đòi hỏi trong thời gian tới công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai cần phải được tăng cường, phải cung cấp cho người dân những thông tin để họ sớm có biện pháp đối phó, di dơi không bị rơi vào tình trạng thiếu đói. Hơn nữa phải đẩy mạnh thực hiện xoá đói giảm nghèo - xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; giảm số hộ thiếu đói giáp hạt hàng năm.
Do thiếu lương thực, đói đã dẫn đến những biểu hiện thiếu lành mạnh, bỏ sản xuất đi kiếm ăn trước mắt, bán đồ đạc, thậm chí bán cả nhà ở, bán lúa non; vay nặng lãi, trẻ em bỏ học, người ăn xin tăng nhiều ở các thành phố, thị xã; chăn nuôi kém phát triển, trật tự an ninh ở địa phương không tốt, hiện tượng trộm cắp vẫn thường xuyên xảy ravà rất nhiều hiện tượng khác nữa.
2. Chính sách cứu trợ đột xuất và công tác chỉ đạo cứu trợ
Để khắc phục thiệt hại thiên tai, ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất trở lại cho nhân dân các vùng xảy ra thiên tai, trong những năm quả Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác CTĐX. Cụ thể là việc ban hành hệ thống văn bản như: Pháp lệnh phòng chống lụt bão, Nghị định 32/NĐ-CP về việc hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Phòng chống lụt bão và nhiều chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, gần đây nhất là Nghị định số 07/2000/NĐ-CP về một số chế độ chính sách CTXH, Nghị định 62/1999/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định 185/1999/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đối với vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống Sông HồngBên cạnh đó hàng năm mối khi có thiên tai bão lụt Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị, Quyết định về việc hỗ trợ kinh phí và chỉ đạo các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố tổ chức huy động nguồn lực cho CTĐX. Bộ LĐTBXH cũng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn chính sách của Nhà nước và chỉ đạo, đôn đốc các địa phương thực hiện công tác cứu trợ, cứu hộ cho nhân dân.
2.1. Chính sách cứu trợ đột xuất hiện hành
Theo Nghị định 07/2000/NĐ-CP thì đối tượng, chế độ cứu trợ, nguồn kinh phí và quá trình tổ chức thực hiện được quy định cụ thể như sau:
2.1.1. Về đối tượng
Đối tượng của cứu trợ đột xuất (một lần) là những người hoặc hộ gia đình khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây ra, bao gồm:
* Hộ gia đình
- Gia đình có: người chết hoặc mất tích do hậu quả thiên tai hoặc tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân.
- Gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng không có chỗ ở. Trường hợp gia đình sống trên tàu thuyền mà tàu, thuyền, bị vỡ, bị chìm hư hỏng nặng không có chỗ ở cũng được xem xét cứu trợ.
- Gia đình mất phương tiện sản xuất chính làm cho gia đình lâm vào cảnh thiếu đói.
* Về người
- Người bị thương nặng do thiên tai hoặc tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân.
- Hộ thiếu đói do giáp hạt, gia đình thuộc diện nghèo.
- Người gặp phải rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng hoặc phải vào bệnh viện điều trị hoặc bị chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng.
- Người lang thang xin ăn do Sở Công an phối hợp với Sở LĐTBXH và các cơ quan cấp tỉnh đưa vào các cơ sở BTXH trong thời gian tập trung chờ đưa về gia đình.
2.1.2. Về tiêu chí và chế độ cứu trợ đột xuất
Mỗi nhóm đối tượng khác nhau được hưởng những chế độ cứu trợ khác nhau.
- Đối với gia đình có: người chết hoặc mất tích do hậu quả thiên tai hoặc tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân được hưởng chế độ CTĐX một lần cho việc mai táng người chết hoặc trợ cấp một lần cho gia đình để lo hương khói, phúng viếng cho người mất tích. Trường hợp chính quyền địa phương hay đơn vị đứng ra mai táng cũng được thanh toán bằng mức trợ cấp cho gia đình.
- Đối với gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hỏng không có chỗ ở; gia đình sống trên tàu thuyền mà tàu, thuyền, bị vỡ, chìm, bị hư hỏng nặng được hưởng chế độ CTĐX một lần cho việc dựng lại và sửa chữa nhà ở.
- Đối với gia đình mất phương tiện sản xuất chính làm cho gia đình lâm vào cảnh thiếu đói; hộ thiếu đói do giáp hạt, gia đình thuộc diện nghèo được hỗ trợ cứu đói, thời gian từ 1-3 tháng.
- Đối với người bị thương nặng do thiên tai hoặc tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân được hỗ trợ một phần chi phí điều trị.
- Đối với người gặp phải rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng hoặc phải vào bệnh viện điều trị hoặc bị chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng được hỗ trợ một phần chi phí điều trị. Trường hợp bị chết, chính quyền địa phương hay đơn vị đứng ra mai táng thì cũng được thanh toán bằng mức trợ cấp cho gia đình như đã nêu ở phần trên.
- Đối tượng là người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung phân loại được hỗ trợ 5.000 đồng/ngày trong thời gian không quá 15 ngày.
Mức trợ cấp CTĐX với từng nhóm đối tượng do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tuỳ theo mức độ thiệt hại, tình hình thiếu đói và khả năng huy động nguồn lực của từng địa phương. Tuy nhiên mức trợ cấp này không được thấp hơn mức quy định chung hiện hành của Nhà nước. Và mức quy định chung hiện hành này là:
Về hỗ trợ cứu đói:
- Mức 8 kg gạo/người/tháng, không phân biệt người lớn hay trẻ em, vùng miền núi hay vùng đồng bằng.
- Thời gian: Thực hiện trợ cấp cứu đói được xác định từ ngày UBND tỉnh, thành phố ra quyết định trợ cấp cứu đói cho đến ngày có nguồn thu nhập bổ sung nhưng tối đa không quá 3 tháng. Khi điều tra có hộ vẫn còn ít nhiều lương thực dự trữ thì xác định thời điểm hết lương thực để trợ cấp cứu đói không giải quyết đồng loạt cùng một thời gian.
Về hỗ trợ sau thiên tai:
- Hỗ trợ cho nhưng người bị thương nặng từ 200.000đ - 400.000đ/người;
- Hỗ trợ mai táng phí cho gia đình có người chết từ 800.000đ - 1000.000đ/người;
- Hỗ trợ cho hộ quá nghèo bị mất nhà ở (nhà đổ, nhà trôi, nhà cháy) và tài sản phương tiện sản xuất (tàu, thuyền đánh cá) từ 500.000đ - 1000.000đ/hộ.
- Đối với hộ quá nghèo nhà ở bị hư hỏng nặng hoặc phải dịch chuyển chỗ ở đến nơi an toàn hỗ trợ từ 200.000đ - 400.000đ/hộ.
Riêng đối với những vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng, ngoài những khoản hỗ trợ trên còn được hỗ trợ kinh phí để di chuyển, mua sắm lều bạt, thuốc men và các đồ dùng thiết yếu, cụ thể:
- Hỗ trợ kinh phí di chuyển, người, gia súc và vật dụng cần thiết từ 50.000đ - 100.000đ/hộ.
- Hỗ trợ lều, bạt để dựng nơi ở tạm từ 100.000đ - 150.000đ/hộ.
- Hỗ trợ kinh phí để giải quyết nước sinh hoạt từ 20.000đ - 25.000đ/hộ.
- Hỗ trợ thuốc phòng, chữa trị bệnh cho người từ 15.000đ - 20.000đ/hộ.
- Hỗ trợ lương thực cho hộ khó khăn từ 10 - 15 kg/người/tháng, trong thời gian từ 1 – 4 tháng, trong trường hợp đặc biệt có thể kéo dài 12 tháng.
Ngoài ra, đối với những trường hợp khó khăn còn nhận được sự trợ giúp khác từ nguồn huy động cộng đồng, hợp tác quốc tế, Ngân sách nhà nướcnhư trợ giúp chăn màn, quần áo, sách vở, thuốc chữa bệnhTuỳ theo mức độ khó khăn của từng gia đình (nếu thuộc diện đói nghèo) có thể được xem xét và giúp đỡ một số điều kiện khác.
Nhận xét về mức trợ cấp CTĐX: Qua nghiên cứu tình hình thiệt hại và sự biến động của giá cả thị trường ta thấy những quy định của chính sách này có mặt trái rất lớn, đó là tuy mức trợ cấp cứu trợ đã được quy định cụ thể nhưng nhìn chung mức trợ cấp như vậy còn quá thấp và chưa rõ ràng, còn phụ thuộc khá nhiều vào các quyết định của chính quyền địa phương. Việc quy định không cụ thể này nếu cộng với sự không nghiêm túc của chính quyền địa phương và sự giám sát không chặt chẽ của các ban, ngành chức năng thì có thể dẫn đến mức trợ cấp này không sẽ không đảm bảo yêu cầu của Chính phủ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người dân bị nạn.
2.1.3. Về kinh phí thực hiện cứu trợ đột xuất
Kinh phí thực hiện cứu trợ lấy từ là tổng kinh phí huy động, bao gồm:
- Ngân sách nhà nước cân đối hàng năm, ngân sách tỉnh, huyện tự cân đối như đã nói ở Chương I.
Theo Luật Ngân sách nhà nước và Nghị định số 60/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật Ngân sách nhà nước quy định sự hình thành nguồn ngân sách CTĐX như sau: “Dự toán chi ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự phòng từ 3% - 5% tổng số chi của ngân sách mỗi cấp để chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh, nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán trong năm ngân sách”. Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chính xử lý việc cứu trợ cho nhân dân bằng 2 nguồn: Đảm bảo xã hội và dự phòng phí đã được Nhà nước cân đối hàng năm và theo đúng quyết định của Chính phủ hướng dẫn ngành LĐTBXH và Tài chính. Chính phủ chỉ hỗ trợ khi nguồn ngân sách của địa phương không tự trang trải được.
- Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ;
- Trợ giúp của nước ngoài, tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua chính phủ, các đoàn thể xã hội.
- Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ để thực hiện CTĐX thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ, xem xét quyết định. Trong trường hợp này có thể Chính phủ sẽ trích thêm từ khoản dự phòng ngân sách đã được bố trí hàng năm khi lập dự toán ngân sách.
2.1.4. Về hình thức cứu trợ
Khi có những biến cố đột xuất xảy ra, các cơ quan làm công tác cứu trợ thực hiện cứu trợ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng tiền hoặc hiện vật tuỳ theo tình hình thực tế. Trong thưc tế, cứu trợ bằng hiện vật là chủ yếu (quần áo, thuốc men, lương thực - thực phẩm, và một số vật dụng cần thiết khác) và trong nhiều trường hợp thì cứu trợ bằng hiện vật thường có ý nghĩa hơn
Công tác CTĐX thời hiện nay chủ yếu đi vào hỗ trợ đời sống dân sinh, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu trợ tức thời cho nên hình thức cứu trợ được sử dụng chủ yếu là bằng hiện vật, tiền huy động được cũng được sử dụng để mua gạo cứu tế và theo đúng ý nghĩa của CTĐX thì trong trường hợp này cứu trợ bằng hiện vật
thường tỏ ra thiết thực hơn cho nhân dân vì những hiện vật này là những thứ có thể đáp ứng ngay cái thiếu thốn nhất của nhân dân mà không phải đi đâu trao đổi mua bán. Đồng thời việc cứu trợ bằng hiện vật cũng có ý nghĩa hạn chế những tiêu cực, thất thoát trong quá trình lưu chuyển bởi vì giá trị của những hàng hoá này thường không lớn, lại khó vận chuyển, cất dấu. Tiền đối với nhân dân lúc này cũng là rất cần thiết những có lẽ nó sẽ thích hợp hơn trong các trường hợp mà đời sống nhân dân đã bước đầu được ổn định, các cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng đặc biệt là Chợ đã được khôi phục, việc buôn bán trao đổi hàng hoá đã bắt đầu lưu thông.
Qua nghiên cứu việc thực hiện cứu trợ nhiều năm cho thấy, để đáp ứng yêu cầu của công tác trong thời gian tới thì hình thức cứu trợ cũng không nên cứng nhắc mà phải tuỳ vào tình hình thực tế mà cứu trợ, tuỳ tình hình mà cứu trợ, cung cấp những thứ thiết thực và có ý nghĩa cao nhất cho người dân.
2.1.5. Về tổ chức thực hiện
Ở nước ta hiện nay, Công tác CTĐX do nhiều cơ quan, tổ chức đảm nhận thực hiện như: Bộ LĐTBXH, Hội CTĐ, UBMTTQ và UBND, các ban ngành, đoàn thể địa phương nơi có thiên tai xảy ra. Trong đó: Bộ LĐTBXH là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác CTĐX; chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tổ chức thực hiện. Đồng thời trong quá trình tổ chức thực hiện có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ như: Bộ Tài chính, Bộ giáo dục, Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Cơ chế tổ chức thực hiện:
Khi thiên tai xảy ra, trên cở sở chỉ đạo của Chính phủ và báo cáo của các địa phương:
1. Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương có trách nhiệm phối hợp với UBND các địa phương, lực lượng vũ trang đóng tại địa phương thực hiện công tác cứu hộ (cả về người và tài sản của nhân dân). Đồng thời căn cứ vào nguồn kinh phí mà Chính phủ hỗ trợ, nguồn kinh phí Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam huy động tổ chức đưa tiền, hàng cứu trợ đến tay nhân dân vùng bị thiệt hại.
2. Bộ Tài chính có trách nhiệm đảm bảo kinh phí cứu trợ.
3. UBMTTQ Việt Nam, Hội CTĐ Việt Nam tổ chức huy động (quyên góp) kinh phí (tiền, hàng) từ các cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước phục vụ cho công tác cứu trợ. Nguồn kinh phí sau khi huy động được sẽ được chuyển trực tiếp cho nhân dân vùng bị nạn, chính quyền các địa phương, Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương, Bộ LĐTBXH tổ chức thực hiện cứu trợ.
4. Bộ LĐTBXH, ngoài việc quản lý chung, Bộ có trách nhiệm phối hợp cùng Uỷ ban Phòng chống lụt bão Trung ương, chính quyền các địa phương tổ chức thực hiện cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai về mặt dân sinh (bao gồm các hoạt động: cứu đói cho nhân dân, hỗ trợ xây lại, xây mới nhà cửa).
5. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc phòng bệnh, khám bệnh chữa bệnh cho nhân dân, các đối tượng đang phải cứu trợ đột xuất.
6. Bộ Giáo dục – Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn việc tổ chức thực hiện học văn hoá; miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho học sinh là người thuộc diện đang phải cứu trợ đột xuất.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Bộ LĐTBXH xác định mức độ hậu quả thiên tai, mất mùa và đói giáp hạt để có biện pháp và hướng dẫn tổ chức thực hiện cứu trợ; hỗ trợ nhân dân khôi phục sản xuất, cung cấp cây con, giống, thuốc trừ sâu để nhân dân tái sản xuất.
Đồng thời đối với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể ở địa phương có trách nhiệm như sau:
* Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm:
Khi thiếu đói, thiên tai xảy ra phải tiến hành lập danh sách đối tượng cần cứu trợ khi thiếu đói, thông qua Hội đồng xét duyệt cấp xã đề nghị hưởng CTXH đột xuất.
Riêng đối với những người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng hoặc phải vào bệnh viện điều trị hoặc bị chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng thì giải quyết như sau:
- Đối với người bị thương: Cơ sở y tế trực tiếp điều trị người bị thương, lập danh sách gửi cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội nơi cơ sở y tế đóng để trình cấp có thẩm quyền quyết định mức CTĐX.
- Đối với người bị chết: Chính quyền, tổ chức hay cá nhân đứng ra mai táng người chết, lập danh sách gửi cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội nơi chôn cất để trình cấp có thẩm quyền quyết định mức trợ cấp mai táng phí.
Thành lập Hội đồng xét duyệt gồm: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Chủ tịch Hội đồng, thành viên Hội đồng gồm đại diện: Mặt trận tổ quốc, một số ban, ngành và cán bộ làm công tác lao động – thương binh và xã hội là Uỷ viên thường trực. Hội động xét duyệt phải có kết luận bằng biên bản và danh sách kèm theo.
Sau khi được hội đồng xét duyệt thông qua, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đề nghi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp Huyện xem xét quyết định. Kèm theo công văn phải có biên bản của Hội đồng xét duyệt, danh sách trích ngang những người hưởng trợ cấp cứu trợ.
Lập sổ tiếp nhận, phân phối tiền, hàng CTĐX.
Tổ chức thực hiện CTĐX trực tiếp, kịp thời đến các đối tượng tại địa phương.
* Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc phòng tổ chức lao động xã hội cấp huyện có trách nhiệm:
Tổng hợp danh sách các đối tượng cứu trợ do Uỷ nhân xã đề nghị; căn cứ khả năng nguồn kinh phí trợ cấp của huyện và hướng dẫn ảu Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định trợ cấp CTXH đột xuất.
Hướng dẫn cấp xã tổ chức thực hiện CTXH đột xuất.
* Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp tỉnh có trách nhiệm
Hàng năm, căn cứ vào căn cứ vào tình hình thiệt hại xác định số lượng các đối tượng, mức trợ cấp cho từng loại đối tượng lập kế hoạch kinh phí gửi Sở Tài chính vật giá, Sở Kế hoạch và Đầu tư trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Tổng hợp danh sách đối tượng thuộc diện CTXH đột xuất do Uỷ ban nhân dân cấp huyện đề nghị. Căn cứ vào nguồn kinh phí cứu trợ của tỉnh, nguồn kinh phí trợ cấp của Trung ương và các nguồn trợ giúp khác, lập phương án CTXH đột xuất gửi Sở Tài chính - vật giá, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Hướng dẫn cấp dưới tổ chức thực hiện CTĐX.
Ra quyết định trợ cấp xã hội đột xuất cho các đối tượng là người lang thang xin ăn đang trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
* Khi thiên tai xảy ra trên diện rộng, Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập Ban chỉ đạo tiếp nhận và phân phối tiền hàng cứu trợ do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban, lãnh đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là Phó Ban thường trực, lãnh đạo ngành Tài chính - Vật giá, lãnh đạo các Ban ngành có liên quan và Mặt trận Tổ quốc, Hội CTĐ làm thành viên. Ban có trách nhiệm cứu trợ và phân phối tiền, hàng cứu trợ; chỉ đạo thành lập các đội xung kích để thực hiện cứu trợ khẩn cấp, kịp thời cho nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị khó khăn, vùng bị cô lập.
2.2. Công tác chỉ đạo cứu trợ đột xuất
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác cứu trợ đột xuất. Chính phủ đã giao cho Bộ LĐTBXH là đơn vị chủ trì, thực hiện quản lý nhà nước về công tác CTĐX. Để đối phó với hậu quả do thiên tai gây ra, Bộ LĐTBXH đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành có liên quan chủ động nắm tình hình thiếu đói, thiệt hại do thiên tai, lập phương án cứu trợ và tổ chức cứu trợ kịp thời cho những gia đình bị ảnh hưởng có điều kiện ổn định cuộc sống, và tiếp tục phát triển sản xuất; quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí và lương thực cứu trợ đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu quả.
Bộ đã trình Chính phủ nghiên cứu và ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực CTĐX. Cụ thể là việc ban hành hàng loạt các văn bản như: Pháp lện phòng chống lụt bão, Nghị định 32/CP về việc hướng dẫn phòng chống lụt bão, Quyết định 185/TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đối với vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống Sông Hồng, Nghị định 07/NĐ-CP về chính sách CTXH
Mỗi khi có thiên tai xảy ra, Bộ đều cử các đoàn trực tiếp kiểm tra tình hình thiếu đói và thiệt hại do thiên tai để kịp thời đề xuất Chính phủ giải pháp khắc phục. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề có văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành, nhất là ngành LĐTBXH xuống tân cơ sở kiểm tra, rà soát tình hình thiệt hại do thiên tai gây ra, trên cơ sở đó xây dựng phương án và trích ngân sách cứu trợ cho các hộ bị ảnh hưởng của thiên tai, gặp khó khăn về kinh tế sớm ổn định cuộc sống, tiếp tục sản xuất.
Tuy chính sách thì vẫn còn nhiều bất cập (là một đặc điểm chung của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội ở nước ta) nhưng cũng không thể phủ nhận những hiệu quả to lớn của chúng. Nhờ có hệ thống chính sách tương đối hoàn thiện cho nên tới nay hoạt động BTXH nói chung và CTĐX nói riêng đã được nâng cao hơn về chất lượng, nhận thức của các cấp lãnh đạo và cộng đồng có thay đổi tích cực, các hoạt động được mở rộng với nhiều hình thức và các làm phù hợp có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
1- Trước đây Nhà nước thường giải quyết bằng các quyết định có tính chất xử lý tình thế. Trách nhiệm của ngành lao động – thương binh và xã hội là nghiên cứu, ban hành chế độ chính sách, hướng dẫn thực hiện kiểm tra, thanh tra việc thực hiện; mỗi khi có biến cố đột xuất xảy ra, nhanh chóng nắm tính hình thiệt hại và đời sống dân sinh trong vùng bị thiên tai, đề xuất với Chính phủ cứu trợ kịp thời. Các nỗ lực CTXH thường do các trung tâm BTXH do Nhà nước quản lý thực hiện. Nay chuyển sang phân cấp hướng tới tính xã hội hoá, tính cộng đồng cao hơn. Đây là xu hướng chung trên thế giới, đồng thời cũng thể hiện cách tiếp cận mới trong công t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5279.doc