MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân
I- Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm
2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
II- Các xu hưởng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Xu hướng tự do hoá đầu tư
2. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư quốc tế
3. Địa bàn thu hút đầu tư
4. Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư mới trên thế giới
5. Lĩnh vực đầu tư
6. Đầu tư với hiệu quả xã hội
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua
I- Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư
2. Cơ cấu đầu tư
3. Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
II- Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1. Những thành tựu
2. Những hạn chế và nguyên nhân
Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút FDI tại Việt Nam
I- Những phương hướng và triển vọng thu hút FDI trong thời gian tới
1. Bối cảnh thu hút FDI
2. Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2001-2005
II- Một số kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan liên quan
III- Một số biện pháp từ phía các doanh nghiệp
KẾT LUẬN
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà đầu tư Nhật, Đài Loan, HK.
- Các công ty hoạt động ở Thái Lan luôn được hỗ trợ ở các địa phương và các ngành công nghiệp khác.
2 - Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước NICs châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singarpore và Hồng Kông
Vào những năm 1950 - 1960 nền kinh tế của các nước NICs châu á rất lạc hậu, phát triển mất cân đối. GNP bình quân đầu người thấp 90 - 150USD/người/năm. Cả 4 nước trên đều nghèo về tài nguyên, đất hẹp, người đông, khí hậu kém thuận lợi. Lợi thế hầu như chỉ dựa vào biển và nguồn lao động rẻ tiền. Đến nay cả 4 nước NICs châu á đều trở thành các nước công nghiệp mới (Newly Industrial Countries) với tốc độ phát triển kinh tế cao. Một trong những nguyên nhân thành công là do mỗi nước tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mình mà có chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế thích hợp.
2.1 – Những tác động tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước NICs châu á đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, đồng thời thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp hoá (CNH) về hướng xuất khẩu được thực hiện trên cơ sở thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài làm chuyển biến cơ cấu công nghiệp từ sự tồn tại phổ biến các ngành công nghiệp kỹ thuật thấp, thu hút nhiều lao động sang sự phổ biến của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn. Thập kỷ 60, ở NICs châu á chưa xuất hiện CNH dầu, đóng tàu, công nghiệp chế tạo, công nghệ sinh học, điện tử cao cấp, laze, chế tạo ô tô... mà chủ yếu là các ngành dệt da và các sản phẩm da, quần áo may sẵn, lắp ráp đồ điện, dày dép, tóc giả... Hiện nay các ngành sử dụng nhiều lao động một bộ phận được di chuyển sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn NICs, phần còn lại nước sở tại được nâng cấp bằng cách áp dụng công nghệ mới để chế tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn về cả chất lượng và chủng loại.. Một tỷ lệ lớn những công nghệ mới này vẫn trông cậy trực tiếp vào FDI. FDI vẫn được các nước chủ nhà khuyến khích đi vào các ngành kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn mà các công ty địa phương không thể đảm nhiệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Một thực tế hiển nhiên là các nước áp dụng CNH hướng về xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các quốc gia thi hành chiến lược CNH thay thế nhập khẩu. Điều dễ hiểu là chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua chế độ thuế quan và quota đã gây tâm lý ỷ lại và đẫn đến tình trạng kém hiệu quả kinh tế của các hãng công nghiệp, khả năng cạnh tranh của hãng thấp. Ngược lại, dưới tác động của chiến lược khuyến khích xuất khẩu, các hãng đều bình đẳng trong khuôn khổ chế độ pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, họ phải đương đầu với thách thức cạnh tranh trên quy mô thế giới, vì vậy vấn đề hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Một điều tra cho thấy chỉ số hiệu quả của hàng thay thế nhập khẩu trong công nghiệp điện tử Đài Loan là 60,4%, trong khi chỉ số phi hiệu quả hàng xuất khẩu (0,3292) thấp hơn chỉ số này ở các hãng thay thế nhấp khẩu (0,5042). Nhờ vậy mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế với đầu ra tiềm năng thu hẹp lại mà về nguyên tắc, số chênh lệch này càng nhỏ, hiệu quả càng cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Những kỹ năng quản lý và các bí quyết kỹ thuật vào các nước sở tại. Trên thực tế, đây là vấn đề gây nên tranh cãi rất nhiều trong các nước đang phát triên. Vì rằng, khi nhìn vào nền kinh tế Thái Lan, người ta nhận thấy các công nghệ của Thái gần như sao chép công nghệ phương Tây, mức độ chuyển giao công nghệ của các hãng nước ngoài cho người địa phương (Thái) rất thấp và tiến hành chậm chạp (dường như có ý trì hoãn).
Ngoài những tác động tích cực nổi bật trên, FDI còn tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước sở tại và cải thiện thu nhập. FDI ở Hồng Kông đem lại gần 100.000 việc làm năm 1993. Các hãng công nghiệp có vốn FDI ở Singapore thu hút tới gần 50% số lượng công nhân, Điều đáng kể hơn nữa là nếu số lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài, nếu tỏ ra có triển vong, họ tiếp tục được đào tạo hoặc nâng cao nghiệp vụ nhờ vào những thu xếp của công ty khi cần thiết.
2.2 – Những ảnh hưởng tiêu cực
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Phần II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua
I – Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Qua hơn mười năm thực hiện Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam (1989 – 1999), chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: số lượng vốn FDI ngày càng tăng, tốc độ trung bình hàng năm tăng 50%, quy mô các dự án FDI ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước lớn như Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Những kết quả trên đã phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và chính sách thu hút, sử dụng vốn FDI của Việt Nam là đúng và phù hợp. Sự gia tăng nhanh dòng vốn FDI có tác dụng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế trên tất cả các phương diện: ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà và thế cho những bước tiến lớn hơn của giai đoạn tiếp theo.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 366 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế.
Cuối năm 1995 có 1064 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký 18834 triệu USD. Trong quá trình thực hiện đã có 222 dự án được bổ sung thêm 2098 triệu USD vốn đầu tư nâng tổng số vốn đầu tư được cấp giấy phép lên 20932 triệu USD. Đến hết tháng 6 năm 1998 đã có hơn 2000 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký là 33,5 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện hơn 13,2 tỷ USD (không tính liên doanh dầu khí Việt-Xô). Như vậy tính trung bình mỗi năm Việt Nam thu hút được 2617 triệu USD. Nếu so sánh với một số nước: Malaysia giai đoạn 1970 – 1980 thu hút được trung bình 400 triệu USD/năm, giai đoạn 1981 – 1987 trung bình một năm thu hút được 840 triệu USD. Indonesia giai đoạn 1967 – 1990, tổng số vỗn FDI là 29,5 tỷ USD, trung bình thu hút được 1229 triệu USD thì mức độ thu hút FDI ở Việt Nam thời kỳ đầu như vậy là cao nhưng nếu số dòng vốn FDI đổ vào các nước khác trong khu vực trong những năm gần đây thì thấy rầng số vốn mà Việt Nam thu hút được là quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của một nước đi sau – cần tăng trưởng nhanh để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước.
Tính đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được 2937 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 29 dự án hết hạn (289 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
từ 01/01/2000 đến 31/05/2000
(Phân chia theo ngành)
Đ.vị tính: USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Công nghiệp
88
176.255.702
92.607.174
2
GDĐT-y tế-VHTT
6
56.450.000
20.610.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Dịch vụ
11
14.261.428
3.915.714
5
Tài chính, Nghân hàng
1
10.000.000
5.000.000
6
KS, VP, DL Lữ hành
1
7.800.000
7.681.632
7
GTVT và XD
1
4.994.500
2.520.000
8
Nông, Lâm nghiệp
3
2.550.583
1.857.976
9
Ngư nghiệp
1
500.000
600.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
(Phân theo địa phương)
Đ.vị tính: USD
STT
Địa điểm thực hiện
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Bình Dương
39
106.115.621
48.127.093
2
TP.Hồ Chí Minh
30
84.448.000
44.031.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Hà Nội
13
20.820.000
11.889.000
5
Đồng Nai
6
19.580.000
13.590.000
6
Khánh Hoà
2
8.550.000
8.131.632
7
Quang Nam
2
5.065.928
2.555.714
8
Bình Phước
1
5.000.000
3.300.000
9
Nghệ An
1
4.511.626
3.961.626
10
Cần Thơ
1
2.700.000
1.120.000
11
Vĩnh Phúc
2
2.650.000
2.150.000
12
Bà Rịa-Vũng Tàu
2
2.545.455
2.545.455
13
Hải Phòng
1
1.500.000
1.200.000
14
Long An
1
1.500.000
1.000.000
15
Tây Ninh
2
1.325.000
418.000
16
Yên Bái
1
1.240.583
847.976
17
Đà Nẵng
1
1.000.000
365.000
18
Lao Cai
1
1.000.000
1.000.000
19
Thái Bình
1
900.000
700.000
20
Thanh Hoá
1
600.000
450.000
21
Lâm Đồng
1
560.000
560.000
22
Hoà Bình
1
500.000
150.000
23
Quảng Ninh
1
500.000
500.000
24
Thái Nguyên
1
200.000
100.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
Cơ cấu đầu tư
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Cơ cấu ngành nghề:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1988-1999
Năm
Chỉ tiêu
1988-1990
1991-1995
1996-1999
CN và XD
41,47 %
52,74 %
49,66 %
N-L-N Nghiệp
21,64 %
4,13 %
2,14 %
Dịch vụ
36,899 %
43,13 %
48,2 %
Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng hướng mục tiêu ban đầu: tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và số vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án và 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, trong đó nhỏ nhất là ngành thuỷ sản, chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô đầu tư trung bình là 12 triệu USD/dự án trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất, hơn 25 triệu USD/dự án tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê...
Cơ cấu lãnh thổ:
Phân tích trên cơ sở thống kê số liệu cho thấy cơ cấu FDI theo vùng lãnh thỗ không những không thực hiện được ý muốn chủ quan của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ và tộc độ phát triển giữa các vùng mà trái lại còn bị doãng xa hơn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi giao thông thuỷ bộ, hàng không, sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo lực hấp dẫn FDI mạnh nhất: chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN trong cả nước có xu hướng tăng, từ 48,5% (năm 96) lên 66,6% năm 99, đặc biệt giá trị xuất khẩu chiếm tới 84%. Tp.HCM hiện vẫn đứng đầu trong vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (gồm Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án (chiếm 20,5% vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực hiện 3,8 tỷ USD (chiếm 25%). Tỷ lệ giải ngân trong vùng là 35%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (42%), nếu không tính đến 2 dự án đầu tư xây dựng đô thị mới (2,3 tỷ USD) thì tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên, từ năm 96 đóng góp của khu vực FDI ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước có xu hướng giảm cả về tỷ trọng (từ 33% xuống 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ USD xuống 814,7 triệu USD).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi), tuy đứng thứ ba về thu hút FDI nhưng so với hai vùng trên lại quá thấp, chỉ chiếm 3% về số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu không tính đến dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD), thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút FDI còn ít hơn nhiều so với vùng ĐBSCL (113 dự án và 1 tỷ USD vốn đăng ký).
Miền núi, trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên là 2 trong số 6 vùng kinh tế có sức hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu là điều kiện cơ sở hạ tầng quá yếu kém, thiếu nguồn nhân lực có trình độ, khả năng đầu tư sinh lợi thấp, hoàn vốn chậm... nên các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều đắn đo, e ngại, trong khi chính sách khuyến khích của Nhà nước lại chưa rõ ràng và hấp dẫn.
Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
3-1 Hình thức đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có ba hình thức chủ yếu là: Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, là hình thức ký hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Trong đó hình thức đầu tư được chính phủ khuyến khích nhất là hình thức Liên doanh. Đến năm 1996 hình thức này chiếm khoảng 3/4 FDI, quy mô được khá lớn 17 triệu USD. Tiếp đến là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài (18%). Hiện nay hình thức BOT đang có hiệu quả đầu tư cao, được nhận nhiều sự khuyến khích của chính phủ. Mặc dù chỉ chiếm 7% song hứa hẹn có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực có sở hạ tầng vốn là một trong những yếu tố còn lạc hậu dẫn đến suy giảm FDI trong những năm qua.
3-2 Đối tác đầu tư:
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Tính đến năm 1998, 10 nước đầu tư vào Việt Nam bao gồm: Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông, Malaysia, Pháp, Thái Lan và Mỹ.
Đầu tư vào Việt Nam theo chủ đầu tư
từ ngày 01/01/2000 đến 28/09/2000
Đơn vị tính: 1000 USD
STT
Nước
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Taiwan
76
145819
69507
2
British Virgin Island
11
85690
35988
3
Japan
15
55215
27834
4
Australia
2
53500
28600
5
Republic of Korea
22
46417
36516
6
France
5
26292
2543
7
United State
6
19270
13535
8
Singapore
9
13455
8663
9
China
10
10782
8322
10
Holand
2
10450
3135
11
Bermuda
1
10000
5000
12
Thailand
3
6600
5550
13
Britain
2
5160
2050
14
Belgium
1
4995
2520
15
Malaysia
7
3615
2063
16
Canada
2
2900
1620
17
Hong Kong
6
2374
1024
18
Israel
1
2200
2200
19
Bahamas
1
1000
500
20
Germany
2
700
380
21
Federation of Russia
1
509
0
22
Swizerland
1
150
50
23
Sweden
1
147
147
24
Denmark
1
100
100
Tổng số
188
507339
257846
II - Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Những thành tựu
Để đánh giá những thàh tựu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh các chỉ tiêu quan trọng là số vốn đăng ký của các dự án cấp mới và tăng vốn còn có các chỉ tiêu khác cũng không kém phần quan trọng. Đó là số vốn thực hiện và kết quả về các mặt khác của những dự án đã đi vào hoạt động, như: doanh thu, xuất nhập khẩu, nộp ngân sách, thu hút lao động, tạo thêm công ăn việc làm....
Trước tiên, FDI bù đắp sự thiếu hụt về tài chính cho ngân sách Nhà nước. Nhìn lại thực tiễn thu hút đầu tư nước ngoài 10 năm qua cho thấy cùng với việc gia tăng số dự án và vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư thực hiện, hoạt động đầu tư nước ngoài đang tạo ra những tiền đề cho việc tăng nguồn thu cho ngân sách. FDI đóng góp phần quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP của các năm từ 1991 – 1997 bình quân là 8,5%/năm, tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách từ 128 triệu USD năm 1994 lên 315 triệu USD năm 1997, chiếm gần 7% tổng thu ngân sách hàng năm (không kể nguồn thu từ dầu khí). Trong 8 tháng đầu năm 2000, nộp ngân sách của khu vực này đạt 180 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm 1999. FDI thực sự là một nguồn vốn lớn trong đầu tư phát triển ở Việt Nam. Trong những năm qua, trong tổng số vốn đầu tư thì nguồn vốn từ bên ngoài chiếm gần một nửa, riêng nguồn FDI chiếm trên dưới 30% trong tổng vốn đầu tư cả nước.
FDI góp phần đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Mặc dù quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam chưa được như mong muốn song hầu hết đều hiện đại hơn những gì mà Việt Nam hiện nay đang có. Nhờ đó FDI nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tạo ra các sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ đã kích thích được các doanh nghiệp trong nước phải vươn lên cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ở trong nước và cả ở nước ngoài.
Hiện nay các dạng chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là nhập khẩu máy mọc thiết bị, mua patent, license, các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhãn hiệu hàng hoá và các hợp đồng chìa khoá trao tay... Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, FDI là một kênh chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hiện nay các dạng chuyển giao công nghệ chủ yếu vẫn là nhập khẩu máy mọc thiết bị, mua patent, license, các thoả thuận trợ giúp kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các liên doanh nhãn hiệu hàng hoá và các hợp đồng chìa khoá trao tay... Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, FDI là một kênh chuyển giao công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Qua hợp đồng kinh tế với nước ngoài thời gian qua Việt Nam đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí: nếu không có sự tham gia của bên nước ngoài, Việt Nam không thể hoặc khó có thể tiến hành được các dự án thăm dò và khai thác đàu khí, xây dựng trạm vệ tinh viễn thông. Cụ thể trong ngành dầu khí, nhiều thiết bị công nghệ tiên tiến của các hãng nổi tiếng tren thế giới như Mobil của Mỹ, BHP Pertelium, CKA của Austraylia và các công ty khác của Hà Lan, Italia, Pháp, Anh, Nga, ấn Độ đã được đưa vào Việt Nam để thực hiện thăm dò và khai thác dầu khí cũng như xây dựng nhà máy lọc dầu. Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, các thiết bị hiện đại của công ty OCTVT đã được đưa vào Việt Nam để lắp đặt đài thông tin viễn thông đầu tiên.
FDI đóng góp đáng kể cho xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán: Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá nhanh. Năm 1991 mới đạt 52 triệu USD, năm 1996 đã đạt 786 triệu, năm 1998 đạt gần 2 tỷ USD và riêng trong 7 tháng đầu năm 2000 xuất khẩu của khu vực có vốn FDI là 3 tỷ 586 triệu USD ( kẻ cả dầu thô) tăng 55,6% so với cùng kỳ năm 1999. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của khu vực này là hàng tiêu dùng như dệt may, may mặc, da giầy, điện tử, nông lâm thuỷ sản. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu kể trên, các mặt hàng công nghiệp nhẹ chiếm khoảng 49%, nông lâm thuỷ sản chiếm 24% và công nghiệp năng chiếm 6%. Có một điều đáng mừng là đầu tư nước ngoài đang chuyển dần theo hướng sản xuất để xuất khẩu chứ không phải sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu.
Nhờ hoạt động FDI, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới quan trọng như dầu khí, lắp ráp ôtô. xe máy, điện tử viễn thông, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sợi và kéo sợi.... góp phần giải quyết công ăn việc làm, thu hút khoảng 30 vạn lao động trực tiếp với thu nhập hàng năm trên 30 triệu USD. Ngoài ra còn có hàng vạn lao động gián tiếp như xây dựng, ứng dụng dịch vụ...
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lao động Việt Nam đã có việc làm, nâng cao thu nhập và trình độ của người lao động.
Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều điểm hạn chế.
Thứ nhất, quá trình triển khai dự án và thực hiện vốn FDI tại Việt Nam thời gian qua diễn ra tương đối chậm chạp. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp. Thủ tục đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Đối với Việt Nam, thủ tục đầu tư đã và đang là vấn đề trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư. Có thể đơn cử như về thời gian chuẩn bị dự án kéo dai thường là 6 tháng đến 1 năm thậm chí dài hơn. Cơ quan nào cũng có quyền buộc chủ đàu tư phải trình dự án để họ xem xét góp ý. Một dự án trung bình trải qua 12 cửa, thậm chí 16 cửa. Thêm vào đó việc chuẩn bị dự án của bên Việt Nam tham gia liên doanh thường sơ sài nên khi đàm phán phải bổ sung nhiều lần. Theo các nhà đầu tư Đài Loan đánh giá, thủ tục đầu tư Việt Nam ”quá rườm rà, gây lãng phí thời gian” mà đối với bất kỳ nhà đầu tư nào bao giờ ”thời gian cũng là vàng bạc”.
Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư còn xảy ra trường hợp nhiều dự án bị rút giấy phép trước thời hạn. Nguyên nhân chủ yếu là do phia đối tác nước ngoài không đủ năng lực tài chính để tiếp tục thực hiện đầu tư hoặc do họ có những hoạt động sản xuất kinh doanh trái với pháp luật hoặc không phù hợp với quy định của chính sách quản lý tại Việt Nam.
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn đưa lại nhiều thua thiệt cho người lao động Việt Nam nói riêng và cho bên Việt Nam nói chung. Tình trạng này là do không đủ thông tin để xem xét kỹ tư cách và năng lực tài chính của các đối tác , quá dễ dãi trong việc bố trí cán bộ Việt Nam tham gia liên doanh. Số cán bộ này nhìn chung còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. ở các doanh nghiệp liên doanh có một tình trạng phổ biến là các cán bộ không hiểu rõ pháp luật nhưng lại được cử vào hội đồng quản trị hoặc phó hay tổng giám đốc liên doanh. Do trình độ ngôn ngữ và nghiệp vụ hạn chế, công việc lại mới mẻ, phải làm việc với các nhà doanh nghiệp nước ngoài lọc lõi nên nhiều cán bộ Việt Nam chưa đấu tranh bảo vệ được quyền lực của phía ta và người lao động dẫn đến những thiệt hại cho bên Việt Nam. Công tác đào tạo lao động đã được chú ý nhưng nhìn chung còn dừng ở mức áp dụng các biện pháp cấp bách, có tính chất ”chữa cháy” chất lượng đào tạo chưa cao. Ngoài ra, sự phối hợp giữa Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư với các bộ ngành liên quan và các tỉnh chưa chặt chẽ, chứa hợp lý nên chưa giải quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của các địa phương và lợi ích chung của đất nước.
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém: Do xuất phát điểm thấp nên cơ sở hạ tầng yếu kém của Viêt Nam đã tòn tại qua nhiều thập kỷ, gây ra những ấn tượng không tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài và gây khó khăn nhiều cho việc triển khai và hoạt động của các dự án FDI. Sự quá tải và lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc cung cấp điện, nước là những đặc điểm nổi bật của cơ sở hạ tầng Việt Nam cụ thể:
Giao thông vận tải: Hệ thống này cả về đường sắt, đường không, đường bộ đều rất lạc hậu, không đồng bộ. So với yêu cầu của nền kinh tế thì sự phát triển của giao thông vận tải còn chậm chạp, và là trở nhại lớn đối với khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhất là các vùng sâu, xa. Có thể nói, đầu tư cho giao thông vận tải của Việt Nam chưa chú trọng tới đầu tư chiều sâu, thiên về mua sắm thiết bị mới, coi nhẹ sửa chữa và đồng bộ hoá phương tiện sẵn có. Chú trọng phương tiện kỹ thuật nhưng lại xemnhẹ việc đổi mới công nghệ và hoàn thiện các công trình vật chất. Hệ thống giao thông vận tải xét về trình độ kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu, xét về cơ cấu mất cân đối, xét về mặt phân bố lãnh thổ còn chưa hợp lý.
Dịch vụ thông tin liên lạc: Việt Nam tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong những năm gần đây. Tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa đầy đủ về số lượng và chất lượng chưa thật tốt để phục vụ các hoạt động kinh tế hiện thời nhất thu hút vốn FDI. Đặc biệt hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin nên mọi thông tin phải được cập nhật một cách chính xác để chủ đầu tư có thể xử lý một cách linh hoạt các thông tin đó nhằm đưa ra quyết định đúng vàkịp thời. Hơn nữa phí bưu chính viễn thông hiện nay còn đang ở mức quá cao so với khu vựcvà trên thế giới, đồng thời khu vực FDI hiện còn phải chịu mức giá cao hơn khu vực trong nước. Điều này gây bất bình đối với các nhà đầu tư và làm cho chi phí hoạt động tăng cao gây khó khăn rất nhiều cho các dự án FDI.
Hệ thống thoát nước và hệ thống cung cấp điện: Đã được xây dựng từ lâu tuy ngành chủ quan đã cố gắng cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hoạt động FDI.
Môi trường Luật pháp còn nhiều bất cập: Hệ thống luật pháp của Việt Nam đang trong quá trình hoàn chỉnh nên còn thiếu tính đồng bồ, chưa đủ mức cụ thể, chưa đảm bảo được tính rõ ràng và dự đoán trước được. Sau 10 năm kể từ ngày ban hành, Luật Đầu Tư Nước Ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi 3 lần. Các văn bản pháp lý liên quan đến FDI rất nhiều (lên tới hàng trăm) nhưng việc hệ thống hoá còn yếu, việc tuyên truyền phổ biến còn hạn chế, việc h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35020.doc