Đề tài Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (CPH DNNN) Ở VIỆT NAM 2

1.1 Những vấn đề chung về DNNN ở Việt Nam 2

1.1.1 Khái niệm DNNN 2

1.1.2 Phân loại DNNN 3

1.1.3 Vai trò của DNNN 4

1.1.4 Tình trạng hoạt động kém hiệu quả của DNNN và nguyên nhân 5

1.1.5 Cải cách DNNN 9

1.2 Những vấn đề chung về CPH DNNN ở Việt Nam 11

1.2.1 Khái niệm, mục tiêu, điều kiện CPH DNNN 11

1.2.2 Hình thức, quy trình CPH DNNN: 12

1.2.3 Tác dụng của CPH DNNN 13

CHƯƠNG 2: TIẾN ĐỘ CPH DNNN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2004 15

2.1 Tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2004 15

2.1.1 Giai đoạn 1 (từ 6/1992 đến 4/1996) 17

2.1.2 Giai đoạn 2 (từ 5/1996 đến 6/1998) 19

2.1.3 Giai đoạn 3 (từ 7/1998 đến 6/2002) 19

2.1.4 Giai đoạn 4 (từ 7/2002 đến 2/2004) 21

2.2 Một số nguyên nhân làm chậm tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam 27

2.2.1 Về phía Nhà nước 28

2.2.2 Về phía lãnh đạo trong DNNN và các cơ quan chủ quản của DNNN 33

2.2.3 Về phía người lao động trong doanh nghiệp 35

2.2.4 Về phía ban đổi mới tại doanh nghiệp 35

2.2.5 Về phía nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp 35

2.2.6 Về phía các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm trong việc CPH 38

2.2.7 Về phía các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ CPH 38

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ CPH DNNN Ở VIỆT NAM 40

3.1 Kế hoạch CPH DNNN năm 2005-2006 40

3.2 Một số giải pháp góp phần đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam 43

3.2.1 Tiếp tục bổ sung, sửa đổi luật về CPH 43

3.2.2 Tiếp tục bổ sung, sửa đổi luật liên quan gián tiếp đến CPH 48

3.2.3 Hoàn thiện bộ máy Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp từ TW đến địa phương và tăng cường quyền lực cho các ban này

3.2.4 Cho phép Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (FAVI) tham gia trong quá trình đấu giá cổ phần lần đầu của DN CPH

 3.2.5 Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính.

 3.2.4 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về CPH

 

KẾT LUẬN 53

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

 

doc59 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở cửa hầu hết các lĩnh vực cho các nhà đầu tư và xuất nhập khẩu của Mỹ theo một lộ trình từ 3 đến 5 năm. Việt Nam cũng đã tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khởi đầu là Thoả thuận ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Theo đó, từ năm 2003, Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu hầu hết các nhóm hàng từ 20-40% xuống còn 10-15%. Đến năm 2006, Việt Nam phải giảm thuế hàng nhập khẩu xuống còn 0-5%. Việt Nam cũng đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tiền thân là GATT, một tổ chức có liên quan chát chẽ tới Liên hợp quốc, được thành lập từ tháng 1/1948 với mục đích là giảm bớt hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hoạt động thương mại quốc tế. WTO là một hiệp ước thương mại đa phương với những nguyên tắc cơ bản : (1) Các nước thành viên giành cho nhau quy chế tối huệ quốc (Most Favored Nation _ MFN); (2) Các nước thành viên không được bảo hộ nền công nghiệp trong nước bằng các biện pháp như trợ cấp xuất khẩu; đặt hạn ngạch nhập khẩu và các biện pháp khác. Tham gia vào WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và nước ngoài. Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO. Những hàng hoá xuất khẩu vốn là thế mạnh của Việt Nam như hàng may mặc, giày da, nông sản …cũng là những hàng hoá có tính cạnh tranh cao của Trung Quốc. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNN phải được nâng cao hiệu quả hoạt động để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, Đảng đã chủ trương phải đẩy mạnh tiến trình CPH DNNN. Nghị quyết Hội nghị TW ba, khoá IX (năm 2001) coi việc đẩy mạnh CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn là khâu quan trọng để tạo bước chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả của DNNN. Nghị quyết Hội nghị TW chín, khoá IX đã khẳng định “tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ”. Do đó, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 64/CP với nhiều điều khoản hợp lý hơn, có tác dụng thúc đẩy CPH. Kết quả số DNNN được CPH trong gia đoạn này là 1.285 doanh nghiệp, trung bình mỗi năm có 643 DNNN được CPH. Tiến độ CPH tiếp tục được đẩy nhanh hơn trước. Một số bộ CPH nhanh là : Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải. Tuy nhiên, vẫn chưa có năm nào việc CPH đạt chỉ tiêu kế hoạch. Năm 2003, kế hoạch của Chính Phủ là CPH 1.600 DNNN, kết quả chỉ có 554 doanh nghiệp được CPH, đạt 60% kế hoạch. Năm 2004 việc CPH diễn ra nhanh nhất nhưng cũng chỉ đạt 68% chỉ tiêu kế hoạch. Một số tỉnh, tổng công ty CPH chậm như : Kiên Giang, Lai Châu, Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ. Về thời gian trung bình để CPH 1 DNNN, theo ông Hồ Xuân Hùng, phó trưởng Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trung ương, trong 3 năm 2002 đến 2004, thời gian bình quân để CPH một DNNN là 15 tháng (tính từ thời điểm thành lập ban đổi mới tại doanh nghiệp cho đến khi DN CPH có đăng ký kinh doanh), trong đó 30% - 50% thời gian được giành cho việc định giá. Công ty Ernst & Young cũng đã tiến hành khảo sát 492 DNNN được CPH trong năm 2003 và 6 tháng đầu năm 2004 (chiếm 87% tổng số DNNN đã hoàn thành CPH trong giai đoạn này), kết quả như sau : để hoàn thành CPH một DNNN cần 411 ngày, trong đó, thời gian từ khi thành lập ban đổi mới doanh nghiệp đến khi bắt đầu định giá là 137 ngày, thời gian bắt đầu định giá đến khi phê duyệt giá trị doanh nghiệp là 122 ngày, thời gian để hoàn thành các công việc phê duyệt giá trị doanh nghiệp, phê duyệt phương án, bán cổ phiếu, họp Đại hội đồng cổ đông, đăng ký kinh doanh là 150 ngày. Như vậy, thời gian trung bình để CPH 1 DNNN ở Việt Nam quá dài so với yêu cầu về tiến độ CPH và so với tốc độ CPH ở các nước khác. Từ 8/2004 đến hết năm 2006, chúng ta phải CPH hơn 1.400 DNNN. Nhưng với tốc độ này thì nhiệm vụ rất khó hoàn thành. Tổng kết việc thực hiện CPH DNNN từ năm 1992 đến năm 2004 Số DNNN được CPH từ năm 1992 đến năm 2004 và cơ cấu các DN CPH tính đến ngày 31/12/2004 được thể hiện trong bảng 3 và bảng 4 dưới đây Bảng 3 Kết quả CPH DNNN 1992 - 2004 Năm Số DNNN được CPH Số cộng dồn Năm 1992-1998 123 123 Năm 1999 247 370 Năm 2000 218 588 Năm 2001 205 793 Năm 2002 164 957 Năm 2003 532 1.489 Năm 2004 753 2.242 (Nguồn : Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW) Bảng 4 Cơ cấu các DN CPH tính đến 12/2004 STT Các DNNN được CPH đến 12/2004 Tỷ trọng 1 Các DNNN thuộc tỉnh 74% 2 Các DNNN trực thuộc Bộ 12% 3 Các DNNN thuộc Tổng công ty 90 8% 4 Các DNNN thuộc Tổng công ty 91 6%. (Nguồn : Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW) Hiệu quả của các DNNN sau khi được CPH tăng nhanh rõ rệt. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, trong 435 DN CPH, 92,72% hoạt động hiệu quả hơn, 4,85% hoạt động không thay đổi và 2,43% doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả hơn so với trước khi được CPH. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp được CPH đều có quy mô vừa và nhỏ, công nghệ lạc hậu, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Chỉ có 10% số DN CPH có vốn hơn 10 tỷ đồng. Rất ít doanh nghiệp có vốn lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả như Vina Milk với 1.500 tỷ đồng vốn Nhà nước, Mía đường Lam Sơn 92 tỷ đồng, Đường La Ngà 82 tỷ đồng. Số cổ phần được bán cho cổ đông ngoài doanh nghiệp còn thấp (được thể hiện qua bảng 5). Do đó, tính đến ngày 31/12/2004, số vốn Nhà nước được CPH mới chỉ chiếm 8% tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Bảng 5 Cơ cấu sở hữu ở các DN CPH tính đến 12/2004 Nhà nước 45,6% Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp 39,3% Cổ đông ngoài doanh nghiệp 15,1% (Nguồn : Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW) Tiến độ CPH DNNN ở một số Bộ, ngành, địa phương cụ thể : ở Hà Nội, từ năm 1998 đến năm 2004, mới chỉ có 14 DNNN của thành phố được CPH. Như vậy trung bình hàng năm, Hà Nội chỉ CPH được từ 2 cho đến 3 doanh nghiệp. Với tốc độ này, phải mất 10 năm Hà Nội mới hoàn thành kế hoạch CPH trên 30 doanh nghiệp tính đến năm 2005 Thành phố Hồ Chí Minh CPH được 180 DNNN kể từ khi chương trình CPH DNNN được triển khai. Bốn DN CPH có vốn điều lệ hơn 100 tỷ đồng là : khách sạn Bông Sen, khách sạn Quê Hương, công ty Savico, công ty vận tải biển Sài Gòn. Riêng năm 2004, thành phố CPH được 45 DNNN. Theo Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp thành phố, gần 2/3 số DN CPH nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là những doanh nghiệp vốn có lợi thế độc quyền, có thị trường tiêu thụ ổn định, tình hình tài chính đã được lành mạnh hoá trước khi CPH như REE, GEMADEBT, VIFOCO, TRIBECO, SAVIMEX, Bông Bạch Tuyết, May Sài Gòn 3, Công ty giao nhận kho vận ngoại thương. Với CTCP Cơ điện lạnh (REE), một trong những DNNN được CPH đầu tiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao thấy rõ. REE có vốn ban đầu là 16 tỷ đồng, sau 10 năm kể từ khi được CPH, vốn tăng 15 lần, doanh thu tăng 10 lần, lợi nhuận tăng 7 lần, các khoản nộp ngân sách tăng 4 lần, số lao động tăng từ 334 lên 788, sản phẩm của công ty ngày càng đa dạng. CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển (MEGADEBT) sau 10 được CPH (1992-2002), vốn điều lệ tăng 30 lần, tỷ suất lợi nhuận sau trên vốn chủ ở mức 25%- 30%/năm, công ty đảm bảo việc làm ổn định cho 500 lao động (làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, và các cảng biển trong cả nước) với mức thu nhập 5 triệu đồng/tháng. CTCP Việt Phong sau 7 năm được CPH, vốn điều lệ tăng từ 7,9 tỷ đồng lên 25 tỷ đồng. Sau khi được CPH, các doanh nghiệp có mức doanh thu tăng bình quân 27,6%/năm, lợi nhuận trước thuế tăng 119%/năm, cổ tức đạt mức 15%-17%/năm Thực hiện Chỉ thị số 20/1998/Ct-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính Phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, thành phố Hải Phòng đã xây dựng Đề án tổng thể sắp xếp và đổi mới 153 DNNN thuộc UBND thành phố giai đoạn 1998-2000 và 2001-2005. Trong thời gian qua, 39 DNNN của thành phố đã được CPH và hoạt động dưới hình thức CTCP từ 1 đến 5 năm, 27 doanh nghiệp đang hoàn thành thủ tục CPH. Tổng vốn điều lệ của các DN CPH là 200 tỷ đồng , phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp trước khi chuyển đổi là 145 tỷ đồng, như vậy tổng số vốn được huy động thêm là 50 tỷ đồng. Một số DN CPH đã tiếp tục phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ như CTCP Giấy Hải Phòng, CTCP Sơn, hoá chất Minh Đức, CTCP Chế biến thuỷ sản Cát Hải. DN CPH thành công điển hình là CTCP Giấy Hải Phòng được CPH vào năm 1999, năm 2001 là doanh nghiệp đầu tiên của miền bắc được cấp giấy phép niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh, hiện có mức cổ tức tới 30%/năm. Tuy nhiên, thành phố cũng có một số doanh nghiệp thuộc diện CPH hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài như Công ty thảm Hàm Kênh, Công ty thương mại Ngô Quyền chưa thể được CPH nhanh được, đến 31/12/2004, vẫn còn 87 doanh nghiệp cần được CPH trong khi thời gian phải hoàn thành công việc chỉ còn 1 năm nữa. Theo Đề án CPH được Chính Phủ phê duyệt năm 2001, tỉnh Đà Nẵng phải CPH 18 trong tổng số 55 DNNN thuộc tỉnh tính đến năm 2005. Sau 3 năm (9/2001 - 9/2004), Đà Nẵng mới CPH được 10 doanh nghiệp, đạt 55,55 % chỉ tiêu kế hoạch. Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong số các tỉnh thực hiện CPH chậm nhất. Năm 2004, chỉ có 16 DNNN của tỉnh được CPH. Theo báo cáo của Chi cục Tài chính doanh nghiệp của tỉnh, chỉ có 5/11 doanh nghiệp đang thực hiện CPH có lợi nhuận, tình hình tài chính “lành mạnh”, có thể tiến hành CPH đúng tiến độ. Các doanh nghiệp còn lại gặp khó khăn trong vẫn đề xử lý tài chính nên không thể CPH đúng tiến độ. Đó là các công ty : Thương mại - dịch vụ, Dịch vụ du lịch quốc tế, Chế biến xuất khẩu thuỷ sản Vũng Tàu, Dịch vụ hậu cần thuỷ sản, Xây dựng và phát triển đô thị, Tramasuco. Công ty Dịch vụ hậu cần thuỷ sản có nhiều khoản nợ phải thu khó đòi được chuyển giao từ đơn vị tiền thân. Công ty không đầy đủ hồ sơ về các khoản nợ này, do đó việc xử lý nợ gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, công ty phải chuyển giao cho các đơn vị khác một số tài sản có giá trị lớn nhưng không được sử dụng hiệu quả như cảng Lộc An, tàu dịch vụ hậu cần thuỷ sản, sau đó công ty mới có thể tiến hành định giá được. Công ty Thương mại - dịch vụ được Nhà nước giao cho số vốn là 9 tỷ đồng 569 triệu đồng.Vốn công ty đã thực mất là 4 tỷ 167 triệu đồng, chiếm 43% vốn Nhà nước giao. Tuy nhiên, theo báo cáo của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp tỉnh, công ty có khả năng mất vốn tới 20 tỷ 167 triệu đồng. Như vậy công ty có khả năng mất hết vốn Nhà nước và không thể thanh toán các khoản nợ đến hạn, do đó không thể tiến hành CPH được. Công ty du lịch quốc tế cũng đã mất hết vốn Nhà nước và có nguy cơ phá sản vì công ty nợ một đối tác nước ngoài 5 triệu USD và họ đang tích cực đòi nợ. Như vậy, những tồn tại tài chính trong các DNNN thuộc diện CPH là lực cản lớn nhất đối với quá trình CPH DNNN ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 18 tổng công ty và 20 doanh nghiệp độc lập. Đây là một trong số những bộ CPH DNNN chậm nhất. Năm 2003, Bộ đã CPH được 42 DNNN, chỉ đạt 58% chỉ tiêu kế hoạch. Số DNNN trực thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn khá lớn (hơn 400 doanh nghiệp), hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong số các tổng công ty 90, tổng công ty có mức vốn điều lệ cao nhất là 1.000 tỷ đồng, thấp nhất đạt 100 tỷ đồng. Những doanh nghiệp thành viên có mức vốn điều lệ trung bình là 5 tỷ đồng. Có những doanh nghiệp chỉ có mức vốn từ 0,8 - 1 tỷ đồng. Phần lớn các doanh nghiệp bị thua lỗ. Một số tổng công ty thua lỗ liên tiếp trong nhiều năm như Tổng công ty Mía đường, Tổng công ty Dâu tằm tơ. Nhiều doanh nghiệp buộc phải được xử lý tài chính mới có thể tiến hành CPH được như : công ty Tiếp thị, toàn bộ các doanh nghiệp thuộc ngành mía đường, dâu tằm tơ, thuỷ lợi, chăn nuôi, kinh doanh lương thực, cà phê, lâm nghiệp. Bộ thương mại năm 1998 đặt kế hoạch CPH 7 doanh nghiệp, kết quả chỉ CPH được 1 doanh nghiệp, kế hoạch năm 1999 là CPH 12 doanh nghiệp song thực tế chỉ đạt được 5 doanh nghiệp, năm 2000 kế hoạch đạt ra là CPH 19 doanh nghiệp thì thực tế chỉ đạt được 8 doanh nghiệp, năm 2001 CPH được 5 doanh nghiệp so với kế hoạch là 19 doanh nghiệp, trong năm 2002 chỉ có 4 doanh nghiệp CPH thành công. Như vậy, sau 5 năm triển khai ngành thương mại chỉ CPH được 23 doanh nghiệp, tốc độ chỉ đạt 20% kế hoạch năm 2.2 Một số nguyên nhân làm chậm tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam 2.2.1 Về phía Nhà nước 2.2.1.1 Nhà nước vẫn có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đây chính là nguyên nhân lớn nhất khiến tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam diễn ra chậm. Luôn có một khoảng cách lớn giữa chính sách coi mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn. DNNN vẫn được hưởng rất nhiều ưu đãi về tín dụng, đất đai, thuế, hạn ngạch xuất nhập khẩu, được ưu tiên thực hiện những đơn đặt hàng hay gói thầu của Nhà nước… DNNN thường được Nhà nước bổ sung vốn, xoá nợ hoặc bảo lãnh, ít có nguy cơ bị phá sản do các chủ nợ (phần lớn là các DNNN khác) vẫn tin tưởng khách nợ của họ sẽ được hỗ trợ bởi Chính Phủ, các bộ, UBND. Ngoài ra, tần xuất thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lớn hơn nhiều so với các DNNN. Vì DNNN được hưởng nhiều ưu đãi như trên nên lãnh đạo DNNN không muốn tiến hành CPH, nếu bị bắt buộc phải CPH thì tìm cách “chây ỳ”, do đó tiến độ CPH bị chậm. 2.2.1.2 Nhà nước chậm bổ sung, sửa đổi luật về CPH DNNN : Vấn đề định giá Về tổ chức tiến hành định giá. Theo Nghị định 64/CP, việc định giá DNNN có thể được thực hiện bởi Hội đồng định giá hoặc một tổ chức trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính. Việc định giá DNNN được thực hiện bởi Hội đồng định giá thường không chính xác và kéo dài vì các thành viên trong Hội đồng định giá (bao gồm lãnh đạo trong doanh nghiệp và cán bộ của các bộ, sở) thường không có đủ chuyên môn và thường “nghiêng” về các mục tiêu quản lý riêng nên khó thống nhất với nhau. Ví dụ, để xác định giá trị doanh nghiệp, 2 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Điện tử - Tin học Việt Nam, 4 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Điện lực đã phải mời rất nhiều các đoàn kiểm tra khác nhau của Bộ Tài chính, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục Địa chính. Các đoàn kiểm tra không thống nhất được ý kiến nên các doanh nghiệp đã phải chờ hơn một năm. Kết quả định giá của Hội đồng định giá không khách quan vì cổ phần của DN CPH được ưu tiên bán cho những người trong doanh nghiệp, người định giá doanh nghiệp vừa là người bán, vừa là người mua cổ phần, họ sẽ định giá thấp doanh nghiệp để dễ dàng mua được cổ phần của doanh nghiệp. Đây là một hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực CPH DNNN cần được loại bỏ. Về phương pháp định giá, theo Nghị định 64/CP, có 2 phương pháp định giá chính là phương pháp tài sản ròng và phương pháp chiết khấu theo dòng tiền (DCF) (1) Phương pháp tài sản ròng là phương pháp định giá doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường tại thời điểm định giá của các tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp này dễ được áp dụng nhưng không giúp cơ quan định giá tính đủ giá trị doanh nghiệp vì không tính đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong tương lai. Vì vậy, trên thế giới, phương pháp này thường chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, không có khả năng phát triển trong tương lai. (2) Phương pháp chiết khấu theo dòng tiền là phương pháp định giá doanh nghiệp dựa trên các dòng tiền dự tính từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương pháp định giá tiên tiến trên thế giới, mới được áp dụng ở Việt Nam. Nó giúp tổ chức định giá xác định chính xác hơn giá trị doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có khả năng phát triển trong tương lai, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên để áp dụng phương pháp này, doanh nghiệp phải tính những tỷ số chủ yếu như (1) tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp trong 3-5 năm liền kề; (2) tỷ suất lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp; (3) tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp; (4) hệ số rủi ro của doanh nghiệp. Việc xác định các tỷ số trên khá khó khăn. Theo các doanh nghiệp, trong tình hình các chính sách thường xuyên thay đổi như hiện nay, họ không thể chắc chắn về kết quả kinh doanh trong tương lai. ở Việt Nam cũng chưa có một tổ chức nào xác định hệ số rủi ro của các doanh nghiệp. Vì vậy, theo quy định, các doanh nghiệp có thể sử dụng hệ số rủi ro được ghi trong Niên giám định giá 1999, Ibboston Associates, Inc. Tuy nhiên, hệ số rủi ro trong niên giám sẽ không được chấp nhận nếu cao hơn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra, để xác định các tỷ số trên, doanh nghiệp phải xác định tỷ lệ tăng trưởng của ngành, vùng. ở Việt Nam hiện nay, việc xác định tỷ lệ trên rất khó khăn. Về chi phí cho việc định giá. Theo quy định hiện hành, tổng chi phí cho việc CPH một DNNN không quá 0,01% giá trị doanh nghiệp. Với mức chi phí này, giá trị doanh nghiệp khó có thể được xác định một cách chuyên nghiệp, do đó thiếu chính xác. Bởi vì nếu áp dụng phương pháp giá trị tài sản ròng, các doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để thuê các chuyên gia kỹ thuật thẩm định giá trị còn lại của các tài sản như dây chuyền máy móc, thiết bị, nhà cửa...Các doanh nghiệp sẽ sử dụng giá trị còn lại được ghi trong sổ sách vốn đã quá lỗi thời hoặc tự tính lại dựa trên ý kiến chủ quan của mình, do đó giá trị còn lại của tài sản sẽ không được xác định một cách chính xác. Nếu áp dụng phương pháp DCF, doanh nghiệp không đủ kinh phí để thuê chuyên gia xác định các tỷ lệ dự tính. Với nhiều doanh nghiệp, việc tính các tỷ lệ này nằm ngoài khả năng của họ. Thời điểm định giá doanh nghiệp và thời điểm phê duyệt chuyển DNNN thành CTCP còn quá xa.Vì vậy có những doanh nghiệp phải xác định lại giá trị, khiến việc CPH kéo dài. Vấn đề xử lý tài chính Nhiều DNNN thua lỗ, nợ đọng kéo dài, thậm chí mất hết vốn nhưng vẫn được đưa vào diện CPH. Thời gian để xử lý các khoản nợ, lỗ trong các doanh nghiệp này rất dài. Ví dụ, một công ty liên hợp thực phẩm ở Hà Tây đã hoàn thành việc định giá doanh nghiệp vào tháng 9/2003. Nhưng do số nợ thuế tiêu thụ đặc biệt lên tới 17 tỷ đồng, ngành thuế phải đề nghị Bộ Tài chính cho phép xoá nợ. Trong thời gian chờ kết quả, doanh nghiệp không triển khai được các bước CPH tiếp theo. Quá tháng 9/2004 mà chưa có kết quả, doanh nghiệp đã phải xác định lại giá trị doanh nghiệp. Chúng ta thường cho rằng nên chọn doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ để CPH vì đây mới là đối tượng cần được sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả. Nhưng các nhà đầu tư thường không mua cổ phiếu của những doanh nghiệp này vì không muốn kế thừa các khoản nợ cũ của doanh nghiệp. Bản thân một số DNNN bị thua lỗ, nợ đọng cũng không muốn CPH vì nếu CPH họ sẽ phải dành phần lớn tiền bán cổ phiếu để bù lỗ, trả nợ, chi trả cho người lao động theo chính sách, vốn sẽ không còn để đầu tư phát triển. Trên thực tế, trong số hơn 600 DNNN đã CPH, hầu hết là những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao. Điều đó có nghĩa là những DNNN thua lỗ rất khó thực hiện CPH. Vấn đề lao động dôi dư Việc giải quyết những khoản lỗ, nợ dù sao cũng không khó khăn bằng việc giải quyết những lao động dôi dư. Thực tế cho thấy, trong quá trình sắp xếp lại DNNN nói chung và CPH DNNN nói riêng, tình trạng dư thừa lao động là không thể tránh khỏi. Theo số liệu của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW năm 2002, tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN có 2 mức độ : dư thừa thực tế (chiếm 7,2% tổng số lao động trong các DNNN); dư thừa tiềm năng (đối tượng có thể cắt giảm mà không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chiếm 9,5% tổng số lao động trong các DNNN). Tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN địa phương thường nghiêm trọng hơn các DNNN do Trung ương. Các doanh nghiệp ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại có tình trạng dư thừa lao động nghiêm trọng hơn các doanh nghiệp ở lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Lao động vô thời hạn (số biên chế cũ) có tỷ lệ dư thừa cao nhất, sau đó là lao động dài hạn, cuối cùng là lao động theo hợp đồng thời vụ (dưới 1 năm). Có bốn nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN: (1) DNNN gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm; (2) Lao động trong DNNN không đáp ứng được trước sự thay đổi của công nghệ; (3) DNNN thiếu hệ thống quản lý nguồn nhân lực hiện đại; (4) Trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp trong việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa được quy định rõ ràng. Số lao động dư thừa khó kiếm việc làm mới, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước chủ trương : Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng giải quyết. Một số giải pháp cụ thể đã được đưa ra là : khuyến khích người lao động dư thừa tự nguyện nghỉ; hạ tuổi hưu trong một số ngành; đào tạo lại lao động; cho lao động vay với lãi suất thấp để họ tự tạo công việc cho mình. Tuy nhiên, những giải pháp trên chưa được thực hiện nghiêm túc và cần được bổ sung. Ngoài ra, một số văn bản luật về lao động gián tiếp cản trở việc CPH DNNN, ví dụ điều 31 trong Bộ luật lao động quy định : trường hợp doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực hiện hợp đồng với tất cả lao động của doanh nghiệp. Việc cho thôi việc đối với 3 chức danh là giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng trong DNNN cũng gặp khó khăn vì các doanh nghiệp không biết giải quyết theo Nghị định 16/CP hay Nghị định 41/CP. Việc CPH bị đình trệ vì các doanh nghiệp không biết bố trí cán bộ đi đâu. Các văn bản luật về lao động chưa phù hợp với kinh tế thị trường, cản trở việc tái cơ cấu không chỉ cán bộ ở DNNN mà còn cản trở cả việc tái cơ cấu cán bộ quản lý hành chính sự nghiệp của Nhà nước. Chính sách đối với DN CPH và người lao động từ năm 1992 đến nay liên tục thay đổi và lần thay đổi sau có phần ưu đãi nhiều hơn, khiến cho doanh nghiệp có tâm lý chờ đến khi chính sách được sửa đổi mới tiến hành CPH. Bản thân chính sách CPH DNNN nói chung cũng không được hoạch định thống nhất từ đầu do quá trình CPH DNNN ở Việt Nam mang nhiều tính thử nghiệm và thận trọng. Chỉ từ năm 1998 trở lại đây, Đảng và Nhà nước mới quyết định tăng tốc CPH DNNN, chế độ ưu đãi vì thế cũng rộng rãi hơn. Có thể hiểu rằng Nhà nước chấp nhận trả chi phí để CPH DNNN thành công trong ổn định và tăng trưởng. Những chính sách khác có liên quan đến CPH DNNN còn thiếu nhiều. Ví dụ, Nghị quyết 26 của TW được ban hành từ ngày 23/3/2003 có nêu : trong quá trình sắp xếp lại DNNN phải đưa một phần giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp để CPH, nhưng đến giữa năm 2004 vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể bằng văn bản nào được ban hành. Chính sách CPH cho phép doanh nghiệp thoả thuận khoanh, giảm, giãn, xoá nợ với ngân hàng nhưng bản thân ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, những khoản nợ khoanh, giãn, giảm, xoá đó hạch toán vào đâu chưa được hướng dẫn. Quy định về quản lý vốn của Nhà nước trong các DN CPH cũng còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Ví dụ khi một công ty “con” tiến hành CPH thì công ty “mẹ” sẽ quản lý vốn Nhà nước, nhưng khi công ty “mẹ” cũng tiến hành CPH thì không biết ai sẽ chịu trách nhiệm quản lý vốn ở công ty “con”. 2.2.1.3 Nhà nước chậm cải cách thủ tục hành chính Thời gian xây dựng, trình duyệt đề án CPH dài do các thủ tục còn rườm rà. Vì cơ chế “xin-cho”, các doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian mới lo đủ thủ tục CPH. Ví dụ như trường hợp của Công ty điện tử Phú Thọ (thuộc Tổng công ty Điện tử Việt Nam), trong quá trình bán cổ phần của công ty này, Tổng công ty điện tử Việt Nam đã đề xuất bán 15% cổ phiếu cho đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, họ đã phải trình duyệt rất nhiều cơ quan chức năng như Bộ Công nghiệp,Văn phòng Chính phủ… mới nhận được quyết định đồng ý vào tháng 3/2001. Nhưng lúc này nhà đầu tư nước ngoài, do phải chờ quá lâu, đã quyết định không mua cổ phiếu nữa. 2.2.2 Về phía lãnh đạo trong DNNN và các cơ quan chủ quản của DNNN Lãnh đạo trong DNNN và các cơ quan chủ quản của doanh nghiệp có tâm lý chờ đợi, níu kéo vì quyền lợi riêng, nhất là khi vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DN CPH. Một số giám đốc DNNN vẫn coi giám đốc là một chức vụ, cùng với nó là quyền lực và bổng lộc. Những giám đốc năng lực kém biết rõ rằng nếu DNNN được CPH thì họ sẽ không được bầu vào vị trí giám đốc. Vì vậy bề ngoài các giám đốc có vẻ nhất trí với việc CPH nhưng trên thực tế lại tìm cách trì hoãn bằng nhiều hình thức hoặc “mạo danh” CPH để biến DNNN thành sở hữu của riêng mình. Ví dụ như việc CPH ở một công ty xây dựng kinh doanh nhà ngoại ô (thành viên của Tổng công ty Đầu tư và phát triển nhà Hà Nội). Công ty này hoạt động yếu kém trong nhiều năm, do đó có nhiều khả năng sẽ bị sáp nhập. Giám đốc công ty không muốn bị mất chức quyền nên đã nộp đơn lên Ban đổi mới doanh nghiệp cấp trên xin được CPH trong khi chưa có sự chấp thuận của Tổng công ty. Chỉ 3 tháng sau, việc CPH đã được hoàn tất, công ty trở thành công ty đầu tư và thương mại với 100% vốn tư nhân. Với các lãnh đạo trong các cơ quan chủ quản của DNNN, họ biết rằng các DNNN sau khi được CPH sẽ không còn là đối tượng chịu sự quản lý của họ nữa, có nghĩa là quyền lực của họ sẽ bị thu hẹp lại rất nhanh. Do đó, họ đã tìm mọi cách để trốn tránh như : (1) Lập đề án đề nghị giữ lại một số DNNN thuộc diện CPH, đặc biệt là những doan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0340.doc
Tài liệu liên quan