Đề tài Một số giải pháp để phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây

Lời nói đầu 1

chương I: tiềm năng và lợi thế của Hà Tây trong việc phát triển du lịch cuối tuần 3

1. Điều kiện kinh tế xã hội, chính trị, văn hoá 3

2. Điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. 5

a. Giao thông vận tải. 5

b. Thông tin liên lạc 6

c. Mạng lưới điện. 6

3. Tài nguyên du lịch 7

3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. 7

a. Địa hình. 7

b. Khí hậu 8

c. Tài nguyên nước. 8

d. Sinh vật 9

4. Tài nguyên du lịch nhân văn. 10

a. Di tích lịch sử văn hoá. 10

b. Lễ hội 11

c. Các làng nghề 12

Chương II: Thực trạng phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây. 13

1. Nguồn khách: 13

a. Khách quốc tế : 13

b. Khách nội địa : 13

2. Thực trạng về công tác quản lý 14

a. Quản lý kinh doanh. 14

b. Quản lý nhà nước 15

3. Cơ sở vật chất kĩ thuật ngành du lịch 16

a. Cơ sở lưu trú. 16

b. Cơ sở ăn uống. 17

c. Cơ sở vui chơi giải trí . 17

4. Đầu tư: 17

5. Nguồn nhân lực 18

Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây 20

1. Định hướng phát triển 20

2. Giải pháp về vốn 20

3. Các sản phẩm chính. 21

a. Du lịch sinh thái: 22

b. Du lịch văn hoá 23

4. Phát triển cơ sở hạ tầng và hạ tầng vật chất kĩ thuật phục vụ 24

5. Tuyên truyền quảng bá. 25

6. Phát triển nguồn nhân lực. 26

Kết luận 27

Tài liệu tham khảo chính 28

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp để phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à một trong số ít tỉnh thành có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú và đa dạng. Đây chính là tiền đề cho việc phát triển các loại hình du lịch cuối tuần đáp ứng được những nhu càu khác nhau của du khách. a. Địa hình. Lãnh thổ Hà Tây với diện tích2147km2 là vùng chuyển tiếp giữa các núi dãy núi đồ sộ của vùng Tây Bắc và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm ở phía Tây Nam của thủ đô Hà Nội. Dải đất tự nhiên của tỉnh kéo dài theo hướng Tây- Tây Bắc, Đông- Đông Nam chủ yếu là đồng bằng. Địa hình núi chiếm một phần nhỏ ở phía Tây Bắc với đỉnh Ba Vì cao nhất - 1287 m. Phía Nam là các đồi đá đá vôi thấp giáp với đường 21A và các dãy núi đá vôi của Ninh Bình. Có thể nói địa hình của Hà Tây tương đối phức tạp với nhiều dạng khác nhau. Địa hình đồi chủ yếu lại ở phía tây chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh và được phân bố như sau: Địa hình núi từ 300m trở lên: 17000 ha Địa hình đồi: 54400 ha Địa hình đồng bằng ( 1,7 -11m) 144450ha Trong đó có các dạng địa hình có giá trị du lịch : Địa hình Karst: dạng địa hình này ở Chương Mỹ, Mỹ Đức..là dạng địa hình với hệ thống hố, phễu, máng, trũng tạo nên những khối đá vôi riêng biệt dạng tháp và tháp cụt cùng nhiều hang động đẹp ( động Hương Tích, Chùa Tiên ,Chảy Tuyết, Hin Đồng) mà tiêu biểu là phía tây huyện Mỹ Đức với hai dãy Hương Sơn và Lương Ngãi chạy theo hướng tây bắc- đông nam. Địa hình núi + Karst: là khu vực Ba Vì với núi đá phân bố thành cụm nhỏ trong khu vực Núi Che, Xóm Mít, Suối Ma. Nhìn chung địa hình Hà Tây là tương đối đa dạng. Đây thực sự là nguồn tài nguyên hết sức có giá trị tạo nên cảnh quan thiên nhiên độc đáo có thể diễn ra các hoạt động du lịch cuối tuần . b. Khí hậu Hà Tây nằm ở trung tâm đồng bằng bắc bộ do đó khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt nhiều mưa. Từ tháng 11 đến tháng 4 là mùa đông lạnh. Giữa 2 mùa là thời kì chuyển tiếp tạo cho tạo cho Hà Tây có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Xét theo chiều cao của địa hình Hà Tây có 3 tiểu vùng khí hậu: vùng đồng bằng (tương đối nóng ẩm hơn các vùng khác), vùng đồi (khí hậu lục địa) và vùng núi Ba Vì từ 700 m trở lên( mát mẻ). Khí hậu Hà Tây tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch. Đáng chú ý hơn cả là khí hậu ở khu vực Ba Vì rất phù hợp cho hoạt động du lịch cuối tuần. Do độ cao nên khí hậu nơi đây luôn mát mẻ, không khí trong lành nhiệt độ trung bình năm 18 độ C. Mưa là hiện tượng thời tiết gây trở ngại đối với hoạt động du lịch đặc biệt là du lịch cuối tuần vì hoạt động này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Chính vì vậy tại thời điểm du lịch mưa càng ít càng thuận lợi. Lượng mưa ở Hà Tây tập trung vào mùa hè. Tuy nhiên, mưa thường mưa rào, mưa dông trong thời gian ngắn do đó ít ảnh hưởng tới hoạt động du lịch cuối tuần. c. Tài nguyên nước. Mạng lưới sông ngòi Hà Tây có mật độ dầy, trung bình 0,66km/km2. gồm nhiều sông lớn như sông Hồng , sông Đà, sông Đáy, sông tích... lượng nước dồi dào180-200 tỉ M3/ năm, chia làm 2 mùa : mùa lũ ( 80% lượng nước) và mùa cạn(20% lượng nước). Các dòng suối từ các khối núi đổ ra có độ dốc lớn, nước chảy xiết, chảy giữa địa hình núi, khi thì lộ ra ngoài khi thì cắt qua khối đá tạo rlêng cảnh quan đẹp hấp dẫn du khách. Các hồ Hà Tây có giá trị hơn cả là hồ Đồng Mô và hồ Suối Hai. Theo kết quả điều tra và đánh giá của viện khí tượng thuỷ văn cũng như viện vệ sinh dịch tễ về chất lượng nước tại các hồ này đảm bảo về tiêu chuẩn vệ sinh phục vụ cho nhu cầu du lịch nhất là du lịch cuối tuần như tắm mát, chơi các môn thể thao nước trong hồ vì nước khá sạch, không mùi vị và có lượng oxi hoà tan cao, độ Ph xấp xỉ trung tính. Cùng với sự phong phú về nước mặt, hệ thống nước ngầm Hà Tây tương đối dồi dào, ở vùng đồng bằng lượng nước ngầm phong phú, ở vùng núi tuy chưa có đầy đủ tài nguyên nhưng qua khảo sát có thể thấy lượng nước ngầm tương đối nhiều. d. Sinh vật Đối với du lịch cuối tuần thảm thực vật và thế giới động vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó tạo nên môi trờng trong lành, làm tăng vẻ đẹp của thiên nhiên và tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách. Thảm thực vật tự nhiên ở Hà Tây tương đối đa dạng và tập trung ở phía tây- tây nam của tỉnh. Trong rừng có nhiều loại động vât kể cả các loại động vật quý hiếm. Các khu vực có khả năng khai thác vào hoạt động du lịch gồm rừng quốc gia Ba Vì và khu vực Hương Sơn. Vườn quốc gia Ba Vì được coi là một phòng tiêu bản sống của nhiều loài động, thực vật. Về động vật, Ba Vì cũng rất đa dạng với chim( 144 loài thuộc 40 họ, 17 bộ trong đó có 6 loài quý hiếm), bò sát( 42 loài thuộc 12 họ, 3 bộ trong đó có 12 loài quý hiếm ), lưỡng cư ( 27 loài, 6 họ, 1 bộ), thú có 44 loài thuộc (23 họ,9 bộ,có 12 loài qúy hiếm)vv..vv. Khu vực Hương Sơn có hệ động vật khá phong phú. Ngoài thảm thực vật thuỷ sinh nên vùng núi đá vôi có tới 550 loài thuộc 190 họ. Về động vật hoang dã thống kê được 32 loài thú thuộc 17 họ, 7 bộ, 88 loài chim thuộc 37 họ, 15 bộ và 35 loài bò sát thuộc 16 họ,3 bộ. Các loài nằm trong sách đỏ Việt Nam, Ba Vì có 6 loài chim,12 loài bò sát, 12 loài thú. ở hơng sơn có 4 loài chim, 10 loài bò sát.Tính đang dạng sinh học của hệ sinh thái làm tăng vẻ đẹp và tính hoang sơ của cảnh núi rừng sông nước là nét quyến rũ lớn dối với du khách nhất là người dân thành phố. 4. Tài nguyên du lịch nhân văn. Trong quá trình lịch sử, Hà Tây vốn nổi tiếng là vùng đất văn hiến thường nằm vị trí tiếp giáp với các trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá quan trọng nhất của đất nước như Cổ Loa, Hoa lư, Thăng Long( Đông Đô- Hà Nội). Cùng với truyền thống của tỉnh, đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và phát triển những tinh hoa dân tộc cho việc khôi phục các ngành nghề truyền thống..vv..vv. Đặc biệt các di tích lịch sử, kiến trúc thể hiện tài năng của ông cha ta từ xa để lại rất có giá trị đối với du lịch. a. Di tích lịch sử văn hoá. Tính đến tháng3/1999, Hà Tây có 326 di tích với mật độ cao 14 di tích/100km2 và được coi là một trong những tỉnh, thành phố có nhiều di tích của cả nước. Bảng số lượng và mật độ di tích của Hà Tây tính đến năm 1993 phân theo huyện, thị . STT Các huyện, thị Diện tích(Km2) Số lượng Mật độ(dt/Km2) 1 Ba Vì 410,28 10 2,4 2 Chương Mỹ 211,84 9 4,2 3 Đan Phượng 76,59 20 26,1 4 Hà Đông 16,47 10 60,7 5 Hoài Đức 124,19 39 31,4 6 Mỹ Đức 226,97 8 3,5 7 Phú Xuyên 170,89 5 2,9 8 Phúc Thọ 113,29 24 21,1 9 Quốc Oai 109,25 6 5,5 10 Sơn Tây 128,47 9 7,0 11 Thạch Thát 104,32 16 15,3 12 Thanh Oai 142,31 36 25,3 13 Thường Tín 130,29 15 11,5 14 Ưng Hoà 183,13 12 6,5 15 Toàn Tỉnh 2147,0 218 10,2 Nguồn:Cục bảo tồn bảo tàng. Về chất lượng di tích, mỗi di tích đều có sắc thái và dấu ấn lịch sử riêng biệt. Các di tích phần lớn là các công trình nghệ thuật đặc sắc với kiến trúc cổ mang đậm nét của vùng văn hoá sứ Đoài mà hiện nay vẫn được bảo tồn( chùa hương, chùa Thày, chùa Tây Phương...). Nói chung, phần lớn các di tích văn hoá đều được xây dựng tại các nơi có cảnh quan đặc sắc. Nên ở đây có thể kết hợp hoạt động du lich cuối tuần và các hoạt động vui chơi giải trí như ở chùa Thầy, chùa Hương, ... b. Lễ hội Hà Tây có nhiều lễ hội trong đó có những lễ hội lớn tiêu biểu cho lễ hội dân gian Việt Nam với một số nghi lễ cổ truyền được duy trì. Các lễ hội đều được diễn ra vào đầu năm mới đến hết tháng giêng. Đặc biệt là lễ hội chùa Hương diễn ra trong suốt 3 tháng đầu xuân từ 15/1-15/3 âm lịch, là lễ hội có sức thu hút rất lớn, hàng năm có tới nửa triệu người dân Việt Nam trên mọi miền đất nước và hàng vạn khách quốc tế về vãn cảnh. Có thể nói, Hương Sơn có giá trị to lớn về tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên xứng danh là" Nam thiên đệ nhất động" và đã trở thành địa danh du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có các lễ hội khác như lễ hội chùa Thầy(7/3 âm lịch) là một công trình kiến trúc được xây dựng từ thế kỉ XVII ở Đầm Long Chiểu hay lễ hội Hát Môn Đền thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ thờ hai Bà Trưng và còn một số lễ hội khác như hội Đền Và, chùa Mía ( Sơn Tây), chùa Trầm( Chương Mỹ).... c. Các làng nghề Hà Tây là quê hương của các làng nghề thủ công nổi tiếng. Các làng nghề thường tập trung ở Hà Đông, Thường Tín, Thanh Oai. Thị xã Hà Đông là nơi quy tụ nhiều ngành nghề truyền thống. Ngoài các làng nghề tơ lụa, thuê ren, thảm trên đất Hà Tây còn có nhiều làng nghề truyền thống về khảm trai, trạm khắc , sơn... Nghề thủ công truyền thống có sức hấp dẫn lớn bởi họ có thể xem tận mắt các nghệ nhân chế tác và mua hàng lưu niệm nên có thể khai thác cho hoạt động du lịch cuối tuần. Chương II: Thực trạng phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây. 1. Nguồn khách: Tổng số khách đến Hà Tây năm 2000 có 1.232.000 lượt khách trong đó khách quốc tế chỉ là 74.360 lượt như vậy thật quá ít ỏi. Nếu so với Hà Nội có 2.600.000 tổng số khách, 500.400 lượt khách quốc tế hoặc của toàn quốc là 11.500.000 tổng số khách, 2.130.000 lượt khách quốc tế thì là quá nhỏ bé. Trong khi đó chỉ riêng khu vực Chùa Hương đã chiếm tới 32,5% và tập trung phần lớn vào 3 tháng xuân. Nguồn khách có khả năng tham gia hoạt động du lịch cuối tuần của Hà Tây bao gồm các thành phần sau: a. Khách quốc tế : Chủ yếu là nguồn khách sống và làm việc tại thủ đô Hà Nội. Đây là nơi tập trung đông nhất các cơ quan đại sứ quán , các văn phòng đại diện nước ngoài, các tổ chức quốc tế , các cơ sở liên doanh liên kết đầu tư nước ngoài. Từ Hà Nội khách du lịch quốc tế có thể đi theo quốc lộ 6 nhất là đường cao tốc Láng -Hoà Lạc tới Hà Tây vì Hà Tây như chúng ta biết có nguồn tài nguyên du lịch phong phú lại cận kề với Thủ Đô. b. Khách nội địa : Khách nội địa có thể đến từ nhiều nguồn nhưng nguồn khách từ Hà Nội vẫn giữ vị trí quan trọng bởi Hà Nội là là nơi tập trung các cơ quan đầu não, các trường cao đẳng và đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề . Hà Nội là chặng dừng chân đầu tiên, chặng dừng cân quan trọng của nhiều du khách( kể cả khách công vụ) trước khi tới các địa danh khác. Những đoàn khách này khi có điều kiện cũng tham gia du lịch ở Hà Tây, tạo cho Hà Tây lượng khách tiềm năng đáng kể. Các đô thị, các khu công nghiệp khác- nơi tập trung đông cán bộ công nhân viên cũng thực hiện du lịch cuối tuần ở Hà Tây. Ngoài ra nguồn khách nội địa từ các thị xã, thị trấn trong tỉnh tuy không nhiều bằng nguồn từ Hà Nội song đây cũng là nguồn khách quan trọng bởi sự thuận tiện đi lại... Cũng phải kể đến nguồn khách từ các tỉnh lân cận như Vĩnh phúc, Hà Nam, Ninh Bình, Hoà Bình, Hưng Yên… Có thể nói với Hà Tây chỉ cần thu hút 5-10% số khách quốc tế và nội địa từ Hà Nội đến cùng với nguồn khách trong và ngoài tỉnh đi nghỉ cuối tuần là Hà Tây đã có một lượng khách khá lớn. Bảng cơ cấu khách du lịch: Chỉ tiêu Đơn vị tính 1994 1999 2000 9 tháng đầu năm 2001 1.Tổng lượt khách Lượt khách 602.100 1.1900 1.232.00 1.244.50 1.1 Khách nội địa nt 600.000 55.400 74.360 74.388 1.2 Khách quốc tế nt 2.100 1.134.30 1.157.44 1.170.12 (Nguồn: Sở du lịch Hà Tây ) 2. Thực trạng về công tác quản lý a. Quản lý kinh doanh. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong địa bàn hiện nay được tổ chức theo một số loại hình quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần...Các doanh nghiệp đều hoạt động theo mô hình quản lý kinh doanh trực tiếp, giám đốc điều hành trực tiếp, chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Với mô hình quản lý này, các doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và điều hành kinh doanh kịp thời phù hợp với nhu cầu phát sinh trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, công tác quản lý còn nhiều hạn chế. Hầu hết cán bộ quản lý đều không được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ. Nhìn chung, công tác quản lý hiện nay chưa đạt được sự thống nhất chung của các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp chỉ tập trung vào việc thực hiện kế hoạch riêng của mình chưa thể hiện tính chuyên môn hoá cao, chưa quan tâm đến chính sách, chiến lược phát triển chung của vùng, của khu du lịch và chung của toàn tỉnh. b. Quản lý nhà nước Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước đã có những thay đổi, sự phân cấp và xác định chức năng của các cấp ngành đã được cụ thể hơn và dần đi vào nền nếp. Song trên thực tế, cũng còn có sự chồng chéo. Kinh doanh du lịch phải chịu nhiều sự quản lý của cơ quan chức năng như văn hoá thông tin, y tế, công an, thuế, tài chính... Giữa các cơ quan này chưa có sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ nên đôi khi gây chở ngại trong công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Sở du lịch, cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp các hoạt động kinh doanh du lịch của tỉnh, kể từ khi thành lập (7/1994) đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng các chương trình chiến lược phát triển chung của du lịch Hà Tây, chỉ đạo cụ thể nhiều hoạt động du lịch trong toàn tỉnh. Sở đã tham mưu và đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, đề án phát triển du lịch tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2010. Ngành chủ động hướng dẫn các đơn vị trong viêc thực hiện các văn bản pháp luật liên quan. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Sở luôn luôn đôn đốc , chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp thực hiện các chương trình một cách tích cực, đa dạng về hình thức. Sở đã phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng ở trung ương và địa phương thường xuyên giới thiệu các điểm du lịch, các sản phẩm du lịch và những nét văn hoá địa phương với du khách, tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá, giới thiệu du lịch cuói tuần. Tóm lại, qua sự phân tích thực trạng kinh doanh và công tác quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Hà Tây có thể thấy được hiệu quả kinh doanh du lịch chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộccác lĩnh vực quản lý kinh doanh và quản lý nhà nước. Để có thể cải thiện được tình hình kinh doanh theo hướng nâng cao hiệu quả cần có sự tham gia của nhiều cấp , nhiều ngành khác nhau từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó, cơ quan nhà nước về lĩnh vực du lịch có vai trò quan trọng trong việc định hướng và tạo lập chính sách phát triển. Các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc phát huy nội lực tìm ra các giải pháp cụ thể cho doanh nghiệp của mình tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên , mọi giải pháp đều cần nhằm mở rộng thị trường , giữ vững và nâng cao chất lượng dịch vụ thì mới có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, đồng thời mới đạt kết quả như mình muốn. 3. Cơ sở vật chất kĩ thuật ngành du lịch a. Cơ sở lưu trú. Hà Tây hiện có hơn 30 doanh nghiệp kinh doanh du lịch, không có các văn phòng đại diện của các doanh nghiệp du lịch lớn. Có 31 khách sạn, nhà nghỉ với 500 buồng phòng, 950 giường, 2050 chỗ ngồi phục vụ ăn uống và khoảng 2000 chỗ phục vụ hội nghị , hội thảo trong đó mới chỉ có duy nhất Khách sạn Sông Nhuệ được Tổng cục Du lịch xếp hạng 2 sao. Hệ thống cơ sở lưu trú là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch nói chung và du lịch cuối tuần nói riêng. Hầu hết tại các điểm du lịch chưa có nhà nghỉ cho khách , nếu có thì rất tồi, cơ sở thiết bị cũ kĩ, không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. bảng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch Hà Tây Hạng mục Đơn vị 1990 1991 1992 1993 số phòng ngủ. a. Quốc tế b. Nội địa Phòng 141 150 172 190 Phòng 15 15 25 30 Phòng 126 135 147 160 Số phòng ngủ. a. Quốc tế b Nội địa Giường 480 500 532 590 Giường 30 30 32 40 Giường 450 470 500 550 phương tiện vận chuyển a. ôtô b. xuồng, ca nô. Cái 6 8 10 12 Cái 40 45 51 60 Phần lớn các khách sạn hiện có dưới dạng từ nhà khách, nhà nghỉ chuyển sang nên chưa đủ tiêu chuẩn của khách sạn du lịch. Nhìn chung, cơ sở lưu trú tại các điểm du lịch cuối tuần còn hạn chế về số lượng và chưa đủ tiêu chuẩn chất lượng. Cần xây dựng và nâng cấp các cơ sở lưu trú nhằm thu hút và lưu giữ khách. Tuy nhiên, cũng cần đa dạng hoá các loại hình lưu trú nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách. b. Cơ sở ăn uống. Hệ thống khách sạn, nhà hàng tại các điểm du lịch cuối tuần khá nhiều. Mặc dù hầu hết các điểm du lịch đều có cơ sở ăn uống. Nhưng cửa hàng của người địa phương là chủ yếu. Do vậy, các cơ sở ăn uống tại các điểm du lịch cuối tuần chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng và quan trọng hơn cả là vệ sinh an toàn thực phẩm. Tại các khách sạn nhà hàng đều có các nhà hàng và quầy Bar phục vụ khách du lịch, các khách sạn thường cung cấp cho khách thực đơn đầy đủ và phong phú các món ăn Âu, A. Ngoài ra còn cơ sở các nhà hàng ăn uống riêng biệt với các đặc sản của tỉnh nhà tạo cho du khách cảm giác đặc biệt. c. Cơ sở vui chơi giải trí . Các khu vực và hoạt động vui chơi giải trí tại các điểm du lịch tuy có đầu tư như trượt nước, biển nhân tạo tại Khoang Sanh, Ao Vua và có nâng cấp một số công viên, vườn hoa nhưng nhìn chung còn chưa phong phú. Bên cạnh đó , có sân Golf liên doanh với Thailand và Canada ở khu vực hồ Đồng Mô đã và đang trong bước được khai thác . Trong dự kiến, làng văn hoá các dân tộc Việt Nam xây dựng ở khu vực đồi Mỏ Vịt- Đồng Mô thì sẽ thêm hấp dẫn du khách. Du lịch cuối tuần là hình thức với nhiều hoạt động thể thao, giải trí ngoài trời do đó đối với hoạt động này cần được đầu tư phát triển mạnh thì mới đem lại hiệu quả cao. 4. Đầu tư: Từ năm 1996 đến năm 2000, ngành du lịch Hà Tây đã tập trung phối hợp, tham mưu, chỉ đạo xây dựng được 32 quy hoạch, dự án phát triển du lịch , trong đó có 20 dự án , quy hoạch đã được phê duyệt và triển khai hoạt động . Có một số dự án đật hiệu quả bước đầu như: dự án nâng cấp mở rộng sản phẩm du lịch tại Ao Vua, Khoang Xanh, sân golf Đồng Mô, dự án cải tạo khách sạn Sông Nhuệ, khách sạn Nhuệ Giang, dự án xây dựng khách sạn ASEAN( Hoà Lạc)... góp phần tạo lập hành lang pháp lý và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của ngành. Toàn ngành đã có 31 khách sạn, nhà nghỉ với hơn 500 buồng , phòng, 950 giường, 2500 chỗ ngồi phục vụ ăn uống, 2000 chỗ phục vụ hội nghị, hội thảo. Vào những năm đầu của thập kỉ 90, sau khi hồ Đồng Mô- Ngải Sơn được đưa vào khai thác cho các hoạt động du lịch, nhiều công ty ở trong và ngoài nước đã tìm đến đây để thăm dò khả năng hợp tác đầu tư. Trong số những công ty này , công ty TNHH Thung Lũng Vua Thái Lan( King's Valley Corperation Thailand Ltd) đã được chọn làm đối tác với công ty du lịch Sơn Tây tỉnh Hà Tây để xây dựng dự án " sân Golf quốc tế và khu du lịch tổng hợp". Dự án này có tổng số vốn đầu tư theo giấy phép ban đầu cho dự án là $ 21.500.000 Chương trình phát triển nâng cấp các điểm du lịch cũng được chú trọng thực hiện. Các doanh nghiệp đã và đang tích cực đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong thời gian qua có nhiều sản phẩm mới được đưa và sử dụng như khu nhà nghỉ, bể bơi mới của Công ty cổ phần du lich Ao Vua, công viên nước của Công ty trách nhiêm hữu hạn Khoang Xanh - Suối Tiên, các dịch vụ vui chơi trên hồ của Công ty du lịch Sơn Tây , Công ty cổ phần du lịch Đồng Mô, sản phẩm du lịch câu cá cùng những sinh hoạt văn hoá dân gian tại Song Phương vườn. Các dự án này đã góp phần vào việc giải quyết việc làm đời sống ổ định cho hàng ngàn lao động, nâng cao dân trí của cư dân trong vùng, cải tạo môi trường sinh thái làm đẹp thêm cảnh quan trong vùng. 5. Nguồn nhân lực Đáp ứng tiêu chuẩn này theo thống kê của Sở Du lịch Hà Tây thì hiện nay du lịch cuối tuần có một đội ngũ khoảng 1200 người, trongđó 5% có trình độ đại học, cao đẳng, 54% có trình độ trung cấp, có trình độ tiếng Anh B, C và tiếng Trung Quốc, Nhật. Lao động phục vụ trong ngành du lịch chiếm 1/6 tổng lao động ở Hà Tây. Đội ngũ nhân viên du lịch cuối tuần có độ tuổi trung bình khá thấp (20-30 tuổi) trong đó 3-4% là cán bộ quản lý, 8-10% là các cán bộ giám sát, còn lại là đội ngũ nhân viên phục vụ trong tất cả các lĩnh vực còn lại của du lịch. Tóm lại, với đội ngũ lao động như vậy, Du lịch cuối tuần cũng đã đáp ứng được một phần nhu cầu của du khách nhưng chưa đạt được hiệu quả tối đa. Đào tạo và sử dụng đội ngũ lao động này phải có chính sách phù hợp tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch trước mắt và lâu dài. Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây 1. Định hướng phát triển Về định hướng trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010, tập trung xây dựng các dự án, huy động nguồn vốn của các thành phần kinh tế đầu tư cho du lịch . Tổng bước hình thành các vùng du lịch trọng điểm đó là vùng Ba Vì, Sơn Tây, vùng Hương sơn- Quan Sơn, vùng Hà Đông và phụ cận với đặc điểm tự nhiên và xã hội của từng vùng tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới có tính đặc thù để thu hút được nhiều khách du lịch. Đặc biệt phải phát triển đa dạng hoá các loại hình như: du lịch sinh thái, du lịch lễ hội, du lịch tham quan các di tích lịch sử, văn hoá-cách mạng, đặc biệt là loại hình du lịch cuối tuần. Nhận thức rõ những lợi thế của mình, những năm qua tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đề ra những chủ trương, giải pháp để ngành du lịch phát triển. Du lịch cuối tuần luôn luôn được định hướng là một trong những loại hình du lịch quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch ở Hà Tây. Những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tạo đà cho việc phát triển những năm sau và từ dó rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành du lịch trong tỉnh. Tại đại hội đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX đã xác định: ” trong 5 năm tới, phải tăng cường đầu tư phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn…phấn đấu tốc độ tăng về lượng khách và doanh thu trên 15%, tỉ trọng trong nền kinh tế địa phương 15-20%, thu nộp ngân sách 5-10% tổng thu ngân sách địa phương, thu hút lao động ngày càng tăng( trên dưới 10% năm). 2. Giải pháp về vốn Trong tình hình hiện nay đối với sự phát triển du lịch cuối tuần nói riêng và du lịch nói chung có vai trò hết sức quan trọng. Vốn là nhân tố quan trọng trong việc thực hiện các dự án. Trong thời gian tới, du lịch Hà Tây muốn phát triển cần lượng vốn không nhỏ. Dự báo vốn đầu tư cho du lịch Hà Tây đến năm 2010. (theo tỉ giá 1993: 1USD=10.000VND) Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2005 2010 Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho du lịch Tỉ đồng Việt Nam 770,0 I710,0 2670,0 Triệu USD 77,0 171,0 267,0 Nhu cầu vốn đầu tư cho khách sạn quốc tế Tỉ đồng Việt Nam 237,0 214,0 183,0 Triệu USD 23,7 21,4 18,3 Nguồn: - Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội Hà Tây đến năm 2010. - Dự báo của Viện nghiên cứu phts triển du lịch (itdr). Để có được đủ nguồn vốn đầu tư trên, đảm bảo sự phát triển du lịch cần sử dụng nhiều biện pháp nhằm thu hút vốn đầu tư. Có thể huy động bằng nhiều cách như; vay ngân hàng nước ngoài và vốn ODA, Thu hút vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) hoặc liên doanh với nước ngoài , vốn ngân sách nhà nước. Thông qua việc tăng cường liên doanh, liên kết trên cơ sở đầu tư trong nước để xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các trang thết bị, mua sắm các phương tiện vận chuyển….Việc đầu tư này nhằm nâng đần tỉ lệ góp vốn từ phía Việt Nam tại các cơ sở liên doanh với nước ngoài . Bằng nhiều hình thức như khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam liên kết với nhau. Có thể dùng chính sách cổ phần hoá các cơ sở dịch vụ hoạt động kém hiệu quả. Việc cổ phần hoá sẽ tăng khả năng cung cấp vốn đầu tư , hơn nữa bảo đảm cho các cơ sở này hoạt động có hiệu quả hơn.Tập trung giành các nguồn vốn cho đầu tư phát triển du lịch cuối tuần vào các việc như: phát triển cơ sở hạ tầng , cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá. 3. Các sản phẩm chính. Với lợi thế của mình, Hà Tây với tài nguyên du lịch phong phú và được phân bố thành các cụm chính là Ba Vì - Suối Hai, Đồng Mô-Nghi Sơn và cụm Hương Sơn. Đây là thuận lợi cho việc hình thành các trung tâm du lịch lớn, sức thu hút khách cao. Do vậy, phát triển du lịch cuối tuần tại các nơi này rất thuận lợi. Có thể phát triển nhiều loại hình du lịch cuối tuần với các loại hình: du lịch sinh thái du lịch văn hoá du lịch kết hợp nghiên cứu khoa học du lịch nghỉ dưỡng… Trong đó du lịch sinh thái và du lịch văn hoá là hai loại sàn phẩm chính a. Du lịch sinh thái: Đây là loại hình du lịch mới xuất hiện những năm gần đây, nhưng có tốc độ phát triển khá nhanh. Khác với các lại hình du lịch khác, du lịch sinh thái là loại hình du lịch gắn chặt với thiên nhiên, mang yếu tố trách nhiệm với nỗ lực bảo tồn và có sự tham gia và chia sẻ quyền lợi với cộng đồng địa phương. Với Du lịch sinh thái phát triển một mặt thoả mãn được những nhu cầu mới về du lịch, khám phá những cái mới trong lành và hoang dã của các vùng thiên nhiên đa dạng sinh thái của nó. Mặt khác, phát triển du lịch sinh thái giúp cho Hà Tây khai thác có hiệu quả các tài nguyên du lịch bởi tính bền vững của nó. ý nghĩa quan trọng của du lịch sinh thái ở Hà Tây là sẽ bảo tồn được những giá trị văn hoá, thay đổi tính thời vụ của hoạt động phát triển du lịch cuối tuần, tăng hiểu biết cho du khách và cộng đồng dân cư về sự bảo tồn các tài nguyên du lịch thiên nhiên. Để phát triển bền vững du lịch sinh thái cần phải có các giải pháp hợp lý về cơ chế chính sách, thị trường, giải pháp về sản phẩm, giải pháp về quy hoạch và quản lý tài ngưyên, giải pháp về đào tạo… Cần tập trung khai thác du lịch sinh thái tại Vườn Quốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35168.doc
Tài liệu liên quan