LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
I. CÔNG NGHỆ
1. khái niệm và nội dung công nghệ
2.Phân loại công nghệ.
2.1 Theo tính chất
2.2 Theo ngành nghề.
2.3 Theo đặc tính công nghệ
2.4 Theo sản phẩm.
2.5 Theo mức độ hiện đại.
2.6 Theo đặc thù.
2.7 Theo mục tiêu.
2.8 Theo sự ổn định công nghệ.
II. Chuyển giao công nghệ.
1. Khái niệm và đối tượng chuyển giao công nghệ
2. Các hình thức chuyển giao công nghệ.
III. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một số nước.
1.thế nào là một công nghệ thích hợp
2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một số nước.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ TRÌNH ĐỘ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
1. Đặc điểm kinh tế –xã hội việt nam
2. Trình độ công nghệ tại các doanh nghiệp việt nam .
II. Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ
III. Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
1. Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
a. Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Những kết quả đạt được.
1. Những mặt còn tồn tại.
Chương III Phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
I. Nhận định chung về tình hình chuyển giao công nghệ trong thời gian sắp tới
II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1. Giải pháp đổi mới từ phía Nhà nước.
3. Những kiến nghị
PHẦN KẾT THÚC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
48 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a so với các nước trong khu vực (cụ thể: mức thu nhập dưới 1000 USD/1người/1năm) . Là một nước nông nghiệp với 60 triệu dân sống ở nông thôn , tỉ lệ đói nghèo tập trung tới 90% ở nông thôn và miền núi , đây thực sự là một khó khăn lớn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mặt khác , cơ sở hạ tầng kém phát triển, cùng với sự hoành hành của thiên tai ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra nhiều trở ngại đối với việc phát huy nội lực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế. Trong khi đó , đây lại là con đường đúng đắn nhất để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế nói chung và nguy cơ tụt hậu của nền khoa học công nghệ nói riêng .
2. Trình độ khoa học công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Đánh giá chung
Để đánh giá trình độ công nghệ của một quốc gia nói chung , người ta thường dựa vào các tiêu chí như : khả năng phục vụ của công nghệ đối với nền kinh tế ; khả năng thay thế và
chương ii thưc trạng chuyển giao công nghệ qua các dư án đầu tư nươc ngoài tại việt nam
1, Đặc điểm kinh tế - xã hội việt nam
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng đề cập đến những đặc điểm cơ bản nhất của nền kinh tế - xã hội Việt Nam, đã và đang tạo ra những khó khăn , thuận lợi đối với quá trình chuyển giao công nghệ.
Từ năm 1990- 1995 , cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực : nông nghiệp tăng 4,4% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chung là 8,2 % nên tỉ trọng trong GDP giảm 9% và từ chỗ là ngành có tỉ trọng cao nhất trở thành ngành có tỉ trọng thấp nhất ; ngành công nghiệp có tỉ trọng trong GDP tăng từ 22,7 % (1990) lên 29,9% (1995) ; nhóm ngành dịch vụ có tốc độ tăng khá cao 9 %/năm cao hơn tốc độ chung nên tỉ trọng trong GDP thời kì này lầ cao nhất , chiếm 41,9% (1995). Sự chuyển biến tích cực về cơ cấu kinh tế tạo điều kiện cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế nước nhà. Điều này cũng tạo ra sự hấp dẫn cao hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, giúp cho việc đảm bảo vốn để đổi mới công nghệ, đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động chuyển giao công nghệ.
Sự ổn định về chính trị tạo cho các nhà đầu tư cảm giác an toàn , ít rủi ro khi đầu tư vào nước ta. Qua đó , họ có thể an tâm tiến hành chuyển giao công nghệ qua các hình thức liên doanh hoặc 100 % đầu tư 100% vốn nước ngoài.Bên cạnh đó, việc mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế , tham gia vào ASEAN, tiến tới là WTO, đặc biệt hiệp định thương mại Việt - Mĩ được ký kết ... giúp chúng ta có nhiều cơ hội thu hút nhiều công nghệ mới chuyển giao vào Việt Nam .
Cơ sở hạ tầng đang từng bước được hoàn thiện có thể đáp ứng một cách đồng bộ nhu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ trong thời gian tới. Nền công nghệ nước nhà cũng đã có được một số cơ sở vật chất nhất định và đặc biệt là đội ngũ những nhà khoa học có trình độ cao cũng là một nhân tố thúc đẩy nền công nghệ phát triển.
Bên cạnh những mặt thuận lợi nói trên , chúng ta cũng gặp phải không ít những khó khăn. Với xuất phát điểm thấp , trình độ hiện tại của nền kinh tế nước ta còn kém xa so với các nước trong khu vực (cụ thể: mức thu nhập dưới 1000 USD/1người/1năm) . Là một nước nông nghiệp với 60 triệu dân sống ở nông thôn , tỉ lệ đói nghèo tập trung tới 90% ở nông thôn và miền núi , đây thực sự là một khó khăn lớn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mặt khác , cơ sở hạ tầng kém phát triển, cùng với sự hoành hành của thiên tai ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra nhiều trở ngại đối với việc phát huy nội lực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế. Trong khi đó , đây lại là con đường đúng đắn nhất để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế nói chung và nguy cơ tụt hậu của nền khoa học công nghệ nói riêng .
2. Trình độ khoa học công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Đánh giá chung
Để đánh giá trình độ công nghệ của một quốc gia nói chung , người ta thường dựa vào các tiêu chí như : khả năng phục vụ của công nghệ đối với nền kinh tế ; khả năng thay thế và
Chương II. thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại việt nam thời gian qua
Đặc điểm kinh tế – xã hội và trình độ công nghệ tại việt nam
1. Đặc điểm kinh tế –xã hội việt nam
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng đề cập đến những đặc điểm cơ bản nhất của nền kinh tế – xã hội Việt Nam, đã và đang tạo ra những khó khăn, thuận lợi đối với quá trình chuyển giao công nghệ.
Từ năm 1990-1995,cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực; nông nghiệp tăng 4,4% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chung là 8,2 % nên tỷ trọng trong GDP giảm 9,0% và từ chỗ là ngành có tỷ trọng cao nhất trở thành nhóm ngành có tỷ trọng thấp nhất; ngành công nghiệp có tỷ trọng trong GDP tăng từ 22,7 % ( 1990) lên 29,9%(1995) ; nhóm ngành dịch vụ có tốc độ tăng khá cao 9,0%/năm cao hơn tốc độ chung nên tỷ trọng trong GDP thời kỳ này là cao nhất, chiếm 41,9%(1995). Sự chuyển biến tích cực về cơ cấu kinh tế tạo điều kiện cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế nước nhà.Điều này cũng tạo ra sự hấp dẫn cao hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, giúp cho việc đảm bảo vốn để đổi mới công nghệ, đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động chuyển giao công nghệ.
Sự ổn định về chính trị tạo cho các nhà đầu tư cảm giác an toàn, ít rủi ro khi đầu tư vào nước ta, qua đó họ có thể an tâm tiến hành chuyển giao công nghệ qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó, việc mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tham gia vào ASEAN, tiến tới là WTO , đặc biệt hiệp định thương mại Việt – Mỹ được kí kết…đã giúp chúng ta có nhiều cơ hội thu hút công nghệ mới chuyển giao vào Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng đang từng bước được hoàn thiện có thể đáp ứng một cách đồng bộ nhu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ trong thời gian tới. Nền công nghệ nước nhà cũng đã có được một số cơ sở vật chất nhất định và đặc biệt là đội ngũ những nhà khoa học có trình độ cao cũng là một nhân tố thúc đẩy nền công nghệ phát triển.
Bên cạnh những mặt thuận lợi nói trên, chúng ta cũng gặp phải không ít những khó khăn . Với xuất phát điểm quá thấp, trình độ hiện tại của nền kinh tế nước ta còn kém xa so với các nước trong khu vực(mức thu nhập bình quân của nước ta dưới 1000 USD/người/năm ). Là một nước nông nghiệp với 60 triệu dân sống ở nông thôn, tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam tập trung tới 90% ở nông thôn và miền núi, đây thực sự là một khó khăn lớn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Mặt khác cơ sở hạ tầng kém phát triển, cùng với sự hoành hành của thiên tai ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra những trở ngại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong khi đó, phát huy nội lực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế là con đường đúng đắn để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế nói chung và nguy cơ tụt hậu của nền khoa học công nghệ nói riêng.
2. Trình độ công nghệ tại các doanh nghiệp việt nam .
a. đánh giá chung
Để đánh giá trình độ công nghệ của một quốc gia nói chung, người ta thường dựa vào các tiêu chí như: khả năng phục vụ của công nghệ đối với nền kinh tế;khả năng thay thế và nâng cấp trong thời gian tới; khả năng thay mới các công nghệ hiện có; khả năng hội nhập với khu vực và thế giới. Dựa trên những cơ sở đánh giá này, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định khách quan về trình độ công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, các doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu từ 15 đến 20 năm. Do vậy, sự đóng góp của công nghệ trong giá trị gia tăng của sản phẩm còn thấp, tuỳ theo từng ngành mà tỷ lệ này từ 15 đến 20%.Còn cụ thể thì sao ? Theo đánh giá của Bộ khoa học – công nghệ và môi trường thì thiết bị và công nghệ Việt Nam lạc hậu từ 50 đến 100 năm so với các nước có công nghệ trung bình tiên tiến trên thế giới đối với ngành cơ khí chế tạo , lạc hậu từ 1-2 thế hệ ở ngành lắp ráp điện tử , ôtô, máy xây dựng …Bức tranh về một nền công nghệ lạc hậu, tồi tàn cho thấy trình độ công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp kém .
Trình độ cơ khí hoá của nền kinh tế còn thấp. Theo điều tra, hệ số cơ khí hoá chung trong nền kinh tế chỉ vào khoảng 20%, trong ngành công nghiệp tỷ lệ này có cao hơn nhưng trong nông nghiệp tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều. Mức hao mòn hữu hình của máy móc, thiết bị phổ biến khoảng 40-60%, có nơi còn hơn thế nữa. Mức tiêu hao năng lượng , nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ và kỹ thuật quá cao. Mức tiêu hao năng lượng để sản xuất một đơn vị sản phẩm ở một số ngành như sau: hoá chất-138%; sơn – 195%; xăm lốp cao su- 204%; quần áo xuất khẩu – 127%; luyện kim đen- 250%.Với độ tuổi trung bình của máy móc thiết bị cao, tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại tiên tiến cũng rất thấp, tập trung chủ yếu ở một số ngành như: bưu chính viễn thông, hàng không . Cộng với hệ số sử dụng thiết bị thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài, đặc biệt trong xu thế tự do hoá thương mại hiện nay.
Sự đánh giá của các chuyên gia nước ngoài cũng không mấy sáng sủa hơn so với sự tự đánh giá của các chuyên gia trong nước. Chỉ tính riêng trong khu vực ASEAN, trình độ công nghệ của Việt Nam vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Với thang điểm 5 (5 là cao nhất), bức tranh công nghệ Việt Nam đặt trong sự tương quan so sánh với các nước trong khu vực ASEAN như sau:
BảNG 1 : Đánh giá công nghệ ở 10 nước ASEAN
Nước
Singapore
Malaysia
philipin
Thái lan
Bruney
IIndonesia
Việt Nam
Myanma
Lào
Campuchia
Điểm
3,8
3,0
2,8
2,6
2,6
2,2
1,9
1,8
1,5
1,3
Nguyên nhân
Có thể nói một số nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng trên là : công nghệ không đồng bộ , mất cân đối làm cho nhiều loại thiết bị ít hoặc không được sử dụng ; máy móc thiết bị cũ kỹ, hay bị hư hỏng, thời gian phải ngừng việc để sửa chữa lớn ; tổ chức sản xuất bất hợp lý, thời gian chờ đợi để gia công lớn; sức ép từ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài khiến một số doanh nghiệp phải giảm hoặc ngừng sản xuất; hoạt động chuyển giao công nghệ chưa thực sự hiệu quả ; cơ cấu nhân lực bất hợp lý ; mức độ và trình độ tin học hoá và xử lý thông tin còn thấp và chậm.Một loạt các nguyên nhân nói trên đã và đang tác động tới nền công nghệ Việt nam.Nhằm khắc phục tình trạng trên, đề án này đã đề cập tới “chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài” như một giải pháp tích cực để cải thiện nền công nghệ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra như vũ bão đã tạo sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế thế giới, làm cho sự tăng trưởng kinh tế toàn thế giới đạt mức chưa từng có.Ngày nay, tổng sản phẩm của thế giới ước tính khoảng 30 000 tỷ USD nghĩa là gấp khoảng trên 23 lần so với tổng sản phẩm thế giới tính theo USD vào cuối những năm 1950 (1300 tỷ USD). Mặc dù trong thế kỉ XX khủng hoảng kinh tế song kinh tế thế giới vẫn tăng 15 lần (3%/ năm), đó là một con số kì lạ. Điều kì lạ ấy chủ yếu do việc tăng năng suất, tức do khoa học công nghệ tạo ra(60-70% của tăng trưởng kinh tế ). Nhưng việc này hầu hết chỉ diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển nơi có trình độ công nghệ cao. Trong khi đó, khoảng cách giữa các nước kém phát triển và nước phát triển ngày càng gia tăng. Làm thế nào để rút ngắn được khoảng cách này? Đây là câu hỏi đặt ra cho tất cả các nước kém phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc… đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ , thu hút chuyển giao công nghệ tiên tiến vào trong nước có hiệu quả, nhằm đẩy mạnh nền công nghệ trong nước phát triển, tăng năng suất lao động… và họ đã thành công. Học tập kinh nghiệm của các quốc gia này, trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế thế giới và quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đát nước, Việt Nam nhất thiết phải đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài . Sự hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ góp phần nâng cao trình độ công nghệ, dần dần đổi mới và thay thế các công nghệ lạc hậu.Là quốc gia đi sau, chúng ta có những lợi thế riêng nếu biết tận dụng những lợi thế đó trong việc tiếp thu, đón đầu những công nghệ tiên tiến, hiện đại trên cơ sở phù hợp với điều kiện trong nước.
Ngày nay, các công ty xuyên quốc gia nắm giữ tới 90% thị trường công nghệ. Các công ty này càng ngày càng có tầm hoạt động trên quy mô rộng lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư, xâm nhập thị trường nước ngoài. Các hoạt động đầu tư thường gắn liền với chuyển giao công nghệ.Vì vậy, thị trường chuyển giao công nghệ toàn cầu đã và đang diễn ra rất sôi động,không chỉ qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài mà có thể qua nhiều con đường khác. Nằm trong xu thế vận động của các dòng công nghệ đó, một lần nữa ta khẳng định : Chuyển giao công nghệ là quá trình tất yếu ở Việt Nam.
Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Cho đến hết tháng 8 – 1997 đã có 2137 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 32,341 tỷ USD, trong đó khoảng trên 70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ. Còn năm nay( kể từ 01/01/2000 đến 15/09/2000), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 69000 tỷ VND cho tổng sản lượng công nghiệp, tăng 65,38% so với năm 1995 (26000 tỷ VND). Như vậy, vấn đề chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng không chỉ ở tầm vi mô mà còn cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế. Trước khi đi vào đánh giá thực trạng của vấn đề, người ta đã tổng kết lại một số đặc điểm của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài như sau:
- Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ.
- Công nghệ được sử dụng trong dự án đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu.
- Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải chuyển từ công ty ở chính quốc mà được chuyển giao từ một công ty khác.
Đây cũng chính là cơ sở để đánh giá chung về hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
Đánh giá chung.
Nhìn chung, công nghệ chuyển giao vào Việt Nam được chia thành bốn nhóm:
Nhóm 1: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn mức trung bình của thế giới khoảng 1 – 2 thế hệ, đang phổ biến tại các ngành lắp ráp điện tử, ôtô, lắp máy xây dựng, thuỷ sản đông lạnh…
Nhóm 2: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu khoảng 2 – 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới; tồn tại trong các ngành điện, giấy, đường, chế biến thực phẩm…
Nhóm 3: Bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 3 – 5 thế hệ so với mức trung bình của thế giới; chủ yếu trong các ngành đường sắt, đường bộ, cơ khí, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng…
Nhóm 4: Bao gồm các loại thiết bị và công nghệ có độ lạc hậu cao hơn.
Trong những năm qua, hoạt động chuyển giao công nghệ đã và đang diễn ra trên hầu hết các ngành, các lĩnh vực nhưng với mức độ, trình độ khác nhau. Bước đầu chuyển giao công nghệ đã gắn với phương hướng kinh doanh và được định hướng theo thị trường. Đây là đòi hỏi tất yếu của quá trình cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh: hoàn thiện sản phẩm trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngành dệt may, giày da là một trong những ngành thực hiện đổi mới công nghệ theo hướng này, gắn đơn đặt hàng lớn với việc khai thác thị trường tương đối ổn định. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh trên cơ sở sự điều chỉnh của Nhà nước. Do vậy, bản thân các doanh nghiệp đã chủ động nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất thông qua chuyển giao công nghệ. Mặc dù còn nhiều hạn chế song chính họ là người quyết định hiệu quả của chuyển giao công nghệ thông qua quá trình tìm tòi, lựa chọn, đàm phán và kí kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đồng thời, chuyển giao công nghệ đã thực hiện một cách có trọng điểm gắn với đầu tư chiều sâu và nâng cao hiệu quả kinh tế. Qua khảo sát, các doanh nghiệp đều tiến hành lần lượt từng dây chuyền, từng sản phẩm hoặc một số giai đoạn trong toàn bộ dây chuyền, sau đó triển khai tiếp. Trong xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, cùng với sự mở rộng các quan hệ kinh tế song phương và đa phương, chuyển giao công nghệ cũng được thực hiện chủ yếu qua con đường này. ở đây, phần chủ động thường thuộc về phía nước ngoài. Phía Việt Nam dễ phải chịu thua thiệt, đặc biệt là nếu người chịu trách nhiệm đàm phán lại thiếu kiến thức về công nghệ và chuyển giao công nghệ. Thực tế cho thấy, nhiều dự án gặp vướng mắc trong vấn đề chuyển giao công nghệ mà hai bên phải đàm phán, thảo luận đi lại nhiều lần, phải bổ sung, điều chỉnh lại các văn bản liên quan… khiến các bên tốn kém thời gian, tiền của mà hiệu quả rất hạn chế. Bên cạnh đó, chuyển giao công nghệ gắn với hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội khác như : việc làm người lao động, mức sống, nền văn hoá dân tộc… Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nói riêng và các cơ quan quản lý nói chung phải lưu tâm trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp. Một vấn đề mà chúng ta đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay là: chuyển giao công nghệ phần nhiều là yếu tố kĩ thuật( máy móc, thiết bị ) mà những bí quyết kĩ thuật, phương pháp quản lý… lại ít được chuyển giao. Phải chăng đây là một trong những vấn đề bức xúc và rất có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc vào nền công nghệ chính quốc tại các nước đang phát triển?
Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài, người ta không thể không đánh giá chất lượng công nghệ được chuyển giao thông qua chính nhà đầu tư nước ngoài – người đóng vai trò quyết định trong việc đưa công nghệ nào vào nước sở tại. Đến nay, chưa có một số liệu thống kê chính xác cho biết cơ cấu đối tác chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. Nhưng nhìn vào bảng số liệu sau, người ta cũng có thể nhận thấy được một phần điều băn khoăn trên:
Bảng 2: Cơ cấu đối tác nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
(Tính cho đến hết năm 1999)
STT
Tên nước
Số dự án
Vốn đăng ký
(triệu USD)
Tỷ trọng(%)
1
Singapore
241
5750
15,7
2
Đài Loan
562
4700
12,8
3
Nhật Bản
311
3490
9,5
4
Hồng Kông
317
3340
9,1
5
Hàn Quốc
274
3090
8,5
6
Pháp
152
2150
5,9
7
Aixlen
83
1690
4,6
8
LB Nga
61
1520
4,2
9
Hoa Kỳ
112
1300
3,5
10
Anh
327
1130
3,1
Nguồn: Viet Nam Economic Times
Chúng ta đã biết mối quan hệ mật thiết giữa các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đây không những là mong muốn được tiếp nhận những công nghệ mới, tiên tiến của các nước sở tại mà còn là mong muốn kéo dài vòng đời công nghệ, thải hồi những công nghệ lạc hậu ở các quốc gia phát triển của nhà đầu tư thông qua các dự án đầu tư trực tiếp. Bởi vậy nhìn vào bảng số liệu trên, người ta có thể thấy rằng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam những năm qua chủ yếu là từ các nước trong khu vực ASEAN, mà đứng đầu là Singapore và Đài Loan. ở phần “ đánh giá trình độ công nghệ của Việt Nam”, đề án cũng đưa ra một bảng điểm về trình độ công nghệ của 10 quốc gia trong khu vực ASEAN. Các nước này có trinhf độ công nghệ không phải là cao trên thế giới. Vởy thì làm sao chúng ta có thể hy vọng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam là hiện đại, tiên tiến nếu như không tăng cường các biện pháp chuyển giao công nghệ từ các nước có nền công nghệ phát triển như EU, Mỹ... Một cách khái quát, có thể nói rằng, chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đáp ứng được phần nào yêu cầu phát triển nền kinh tế song chưa thực sự hiệu quả và phát huy tác dụng .
2. Những kết quả đạt được.
Kể từ năm 1986, nền kinh tế nước ta bắt đầu mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu được đẩy mạnh. Hoạt động này đã thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Mặc dù còn nhiều thua kém so với các nước trong khu vực nhưng bước đầu, bức tranh về một nền công nghệ tồi tàn, lạc hậu đã được cải thiện. Đay là những cơ sở, những định hướng để chúng ta xây dựng một nền công nghệ hiện đại trong tương lai.
a. Về trình độ công nghệ:
Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất. Trong hầu hết các ngành, công nghệ tiên tiến của nước ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới đồng bộ hay từng dây chuyền công nghệ. Thực tiễn “ chiến lược đón đầu công nghệ” – một ưu thế của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí đã tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới. Một số ngành khác cũng cải thiện được phần lớn dây chuyền sản xuất, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong nước như : may mặc, giầy da, chế biến thuỷ sản... Ngoài ra còn phải kể đến sự vực dậy của Công ty gang thép Thái Nguyên thông qua một loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài của Trung Quốc, Đài Loan... Như vậy, sự nâng cao trình độ công nghệ tại một số ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân cũng như tại các doanh nghiệp trung ương và địa phương đã góp phần nâng cao trình độ của nền công nghệ Việt Nam thời gian qua.
b. Về trang thiết bị.
Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu là phần cứng của công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới, các công nghệ này có độ lạc hậu ít nhất từ 1 – 2 thế hệ. Nhưng so với nền công nghệ Việt Nam, đây là những trang thiết bị tương đối đồng bộ và có trình độ cơ khí hoá cao hơn công nghệ trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài kỹ thuật số... Nhìn chung, các trang thiết bị khá phù hợp với giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và góp phần tăng thu nhập quốc dân, đổi mới công nghệ sản xuất và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
c. Bố trí lại cơ cấu kinh tế.
Theo thống kê, vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Tính đến tháng 9 năm 2000, đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào tổng sản lượng công nghiệp là 69000 tỷ VND, trong khi đó khu vực quốc doanh là 77000 tỷ VND và khu vực ngoài quốc doanh là 39000 tỷ VND. Như vậy, sự tăng cường đầu tư nhiều hơn, nhất là việc trang bị máy móc, thiết bị và công nghệ, nền sản xuất công nghiệp thời gian qua đã đạt tốc độ tăng nhanh và đóng góp ngày càng lớn trong GDP. Đồng thời, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch nhanh theo hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng nông nghiệp. Theo văn kiện của Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII trang 82, năm 2000, cơ cấu kinh tế sẽ thay đổi với tỷ trọng: công nghiệp – 95%; nông nghiệp – 25% và dịch vụ – 45%. Năm 2000 sắp khép lại, liệu chúng ta có đạt được kết quả này không? Điều này còn đòi hỏi phần đóng góp đáng kể của việc đổi mới công nghệ tại chính các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế nước nhà.
d.Chất lượng sản phẩm
Nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, nói chung chất lượng sản phẩm đã được nâng cao rõ rệt. Người tiêu dùng trong nước bớt đi tâm lý “ sính dùng hàng ngoại”. Một số sản phẩm đã chiếm được cảm tình của khách hàng trong và ngoài nước như : hàng may mặc, giày da, quạt điện, bánh kẹo, bàn ghế... Việc đầu tư chuyển giao công nghệ từ nước ngoài đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu một khối lượng lớn các sản phẩm: bia, gạch ốp lát, ximăng, sắt thép xây dựng... Đồng thời cũng giảm nhập khẩu các sản phẩm, linh kiện, bộ phận, chi tiết cho các sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp( đèn hình, xe máy, tổng đài điện tử số...). Đến nay, chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đã được thế giới biết đến và công nhận thông qua việc cấp chứng chỉ ISO cho một số doanh nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng giúp sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt khi hàng rào thuế quan được xoá bỏ vào năm 2003.
e.Trình độ quản lý của các doanh nghiệp
Trình độ quản lý là một trong những mặt còn yếu kém của Việt Nam. Những năm qua, việc tiến hành hợp tác làm ăn với các nhà đầu tư nước ngoài đã giúp chúng ta tiếp cận được với phương thức quản lý mới. Đó là quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Đây cũng chính là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta khuyến khích trong chuyển giao công nghệ.
Về bảo vệ môi trương.
Theo thống kê của Bộ khoa học - công nghệ và môi trường, hiện nay có trên 50% số dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và có trên 520 báo cáo đã được thẩm định. So với công nghệ hiện có trong nước, công nghệ được chuyển giao qua các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Đây là một trong những yêu cầu “ phát triển bền vững” đang được đặt ra trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0182.doc