LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ OTC 4
I.Cơ bản về thị trường otc: 4
II. Vai trò và tác động của OTC đối với nền kinh tế 6
1. Những tác động tích cực của OTC 6
2. Những mặt hạn chế của OTC 9
IV. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của OTC 12
1. Nguyên tắc công khai 12
2. Nguyên tắc trung gian 13
3. Nguyên tắc thực hiện công bằng 14
V. CÁC ĐỐI TƯỢNG THAM GIA OTC 15
1. Hàng hoá cho thị trường 15
2. Các nhà môi giới và các nhà tạo giá 15
3. Người phát hành chứng khoán 19
4. Người quản lý và giám sát thị trường 19
VI. GIAO DỊCH TRÊN OTC 19
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG OTC Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 22
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NÓI CHUNG 22
1. Thực trạng hoạt động tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh 22
2. Thực trạng hoạt động tại thị trường tự do 23
II. THỰC TRẠNG OTC Ở VIỆT NAM 26
1. Những kết quả ban đầu 26
2. Những hạn chế và nguyên nhân 27
III. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ OTC TRÊN THẾ GIỚI 30
1. Một số mô hình OTC trên thế giới 30
2. Bài học kinh nghiệm 38
2.1.Về điều kiện cần thiết để xây dựng một OTC 38
2.2. Về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường OTC 40
2.3. Về sự tham gia của hàng hoá CK nước ngoài 41
2.4. Về việc duy trì biên độ giao dịch hợp lý nhằm ổn định thị trường 41
2.5. Về quy định đối với các công ty tham gia niêm yết 42
2.6. Thành lập OTC sau đó mới phát triển lên thành TTCK tập trung (SDGCK) 42
2.7. Về công khai hoá thông tin 43
2.8. Quản lý thị trường OTC 43
CHƯƠNG III 45
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 45
THỊ TRƯỜNG OTC Ở VIỆT NAM 45
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG OTC Ở VIỆT NAM 45
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG OTC TRONG THỜI GIAN TỚI 47
1. Những quan điểm chủ đạo trong việc lựa chọn các giải pháp để xây dựng OTC ở Việt Nam. 47
2. Những nguyên tắc chủ đạo trong việc lựa chọn các giải pháp để xây dựng OTC ở Việt Nam. 48
III. LỰA CHỌN MÔ HÌNH OTC Ở VIỆT NAM DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC 49
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mô hình OTC ở Việt Nam. 49
2. Lựa chọn mô hình OTC ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của một số nước 53
2.1. Chứng khoán được giao dịch trên OTC 54
2.2. Các tổ chức thành viên của OTC 54
2.3. Mô hình hệ thống giao dịch 55
2.4. Tổ chức và quản lý thị trường OTC 57
2.5. Thanh toán các giao dịch trên thị trường OTC 59
2.6. Giám sát thị trường OTC 60
IV. CÁC GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN OTC Ở VIỆT NAM 61
1. Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường OTC 61
2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ 64
3. Giải pháp nhằm tăng cung, kích cầu chứng khoán cho thị trường 66
3.1. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước 66
3.2. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu 69
4. Giải pháp về nguồn nhân lực 72
5. Các giải pháp hỗ trợ thực hiện 74
5.1. Đẩy mạnh việc hình thành các định chế trung gian của thị trường 74
5.2. Tăng cường năng lực quản lý, giám sát thị trường 75
5.3. Thực hiện chế độ ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán trên thị trường OTC 76
5.4. Tiếp tục hoàn thiện chế độ báo cáo tài chính, kế toán và kiểm toán 76
KẾT LUẬN 78
82 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y khác nhau được niêm yết trên NASDAQ, bao gồm nhiều lĩnh vực (công nghiệp, giao thông, tài chính, giải trí, bán buôn lẻ..)
Ban đầu, điều kiện để các công ty muốn được tham gia niêm yết trên NASDAQ cũng hơi chặt chẽ: Các công ty tham gia niêm yết phải có tài sản ít nhất là 2 triệu USD, ít nhất 100.000 cổ phiếu được bán ra công chúng, ít nhất 300 cổ đông, và một loại cổ phiếu và với một quyền bỏ phiếu. Bản cáo bạch của các doanh nghiệp mới phải được SEC thông qua, và các cổ phiếu sẽ phải được chào bán ra công chúng, mặc dù thông thường chúng được giữ bởi các nhà bảo lãnh phát hành (những người có chiều hướng thành “nhà tạo lập thị trường” đối với loại CK đó).
NASDAQ yêu cầu công khai thông tin về công ty (bao gồm các báo cáo tài chính hàng năm và hàng quý) và các cổ đông của công ty. Các công ty có thể không được niêm yết nếu họ không đáp ứng được các yêu cầu của SEC, tuy nhiên cơ chế niêm yết cũng dần dần được nới lỏng và thông thoáng hơn.
d. Hệ thống yết giá tự động của Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán quốc gia (NASDAQ).
Hệ thống (NASDAQ) là một hình thức truyền tin điện tử, nó cung cấp mức giá yết cho các CK ở thị trường phi tập trung nhất định. Các công ty thành viên của NASDAQ là những người thuê bao dài hạn với hệ thống này, họ có những đầu dây dẫn (trạm) nhằm đạt được sự chào bán, đặt mua đối với các CK trên thị trường phi tập trung. Có 3 mức độ khác nhau ở hệ thống yết giá tự động của Hiệp hội các nhà giao dịch CK quốc gia.
Mức độ 1: Cung cấp cho các thành viên thuê bao mức giá đặt mua cao nhất và mức giá chào bán thấp nhất đối với một loại CK bên trong thị trường, ở đó có ít nhất hai người tạo thị trường.
Mức độ 2: Cung cấp giá đặt mua, chào bán và phạm vi đặt giá cho tất cả các nhà tạo thị trường, đó là những người tham gia yết giá cho mỗi chứng khoán.
Mức độ 3: Cho phép một nhà tạo thị trường trong hệ thống yết giá tự động của Hiệp hội các nhà giao dịch CK quốc gia niêm yết giá chào mua và chào bán các CK mà các nhà tạo thị trường đó được phép yết giá. Các mức giá này, ngay lập tức, sẽ xuất hiện trên hệ thống báo giá.
Bằng cách này, NASDAQ là nơi tập trung hơn so với thị trường OTC truyền thống, nơi mà các nhà môi giới phải trực tiếp liên hệ với tất cả các nhà tạo lập thị trường. Các nhà tạo lập thị trường vẫn hoạt động trên phạm vi cả nước nhưng họ đều sử dụng một hệ thống máy tính tập trung để xử lý giao dịch.
Cách thức tiến hành một giao dịch CK trên thị trường phi tập trung Mỹ:
- Bước 1: Nhà đầu tư A có nhu cầu mua 100 cổ phiếu của công ty B chưa được niêm yết và gọi điện cho người môi giới C.
- Bước 2: C viết phiếu đặt mua rồi sau đó gửi cho một nhà kinh doanh D.
- Bước 3: D tìm một người môi giới khác muốn bán 100 cổ phiếu của công ty B (đây là người tạo lập thị trường của công ty B). ở đây, người tạo lập thị trường làm nhiệm vụ cung cấp các lệnh mua và lệnh bán với một CK nhất định.
D có thể tìm được một người tạo lập thị trường bằng hai cách:
Thông qua cục định giá quốc gia Mỹ (NQB) hoặc qua Hệ thống yết giá tự động của Hiệp hội các nhà giao dịch CK quốc gia Mỹ (NASDAQ). Nếu qua NASDAQ thì D phải là một thành viên và cổ phiếu B phải được niêm yết trên hệ thống NASDAQ. Giả sử điều kiện trên thoả mãn thì D có thể lấy được báo giá hiện tại của các hội viên của NASD (Hiệp hội các nhà giao dịch CK quốc gia Mỹ), của người tạo lập thị trường cho cổ phiếu B thông qua các máy tính của NASDAQ hoặc qua máy báo giá tự động Quotron. D không cần phải liên hệ trực tiếp với những nhà tạo lập thị trường để lấy thông tin về giá hiện tại vì các bản báo giá của NASDAQ thường xuyên được cập nhật. Cuối cùng, những gì D phải làm là tìm một người tạo lập thị trường có mức giá thấp nhất để tiến hành thương lượng.
Còn nếu thông qua NQB, D sẽ có một danh sách liệt kê khoảng 20.000 cổ phiếu OTC được gọi là tờ báo hồng (Pink sheets). Trên các tờ này, D sẽ tìm ra tên của người tạo lập thị trường đối với các cổ phiếu và bảng giá mua và bán của ngày hôm trước. Có thể có nhiều nhà tạo lập thị trường trên tờ báo hồng nếu cổ phiếu của công ty B là cổ phiếu được ưa chuộng và hay được mua đi bán lại. D sẽ liên hệ với một loạt các nhà tạo lập thị trường cạnh tranh nhau để biết giá cả hiện tại của từng người, qua đó chọn ra mức giá hợp lý.
B. Thị trường chứng khoán phi tập trung Trung Quốc (STAQ-NET)
Công cuộc cải cách xí nghiệp quốc doanh của Trung Quốc được bắt đầu từ tháng 12/1978 bằng việc thí điểm cải cách về khoán sản phẩm đối với một số xí nghiệp quốc doanh do Cựu Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Triệu Tử Dương khi đó là Bí thư thành uỷ Tứ Xuyên thực hiện, sau đó được phổ biến rộng rãi trong toàn quốc. Hai thành phố Thượng Hải và Thâm Quyến được chọn làm thí điểm thực hiện CPH doanh nghiệp đầu tiên. Để tạo ra thị trường thứ cấp cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, tại hai thành phố này, chính quyền địa phương đã cho phép một số ngân hàng và quỹ đầu tư thành lập trung tâm giao dịch cổ phiếu, mà thực chất là các quầy giao dịch trao tay.
Phương thức giao dịch tại các quầy này là người mua và người bán trực tiếp gặp nhau, thoả thuận trao đổi CK và thanh toán tiền với nhau, thông qua việc ký hậu vào các tờ CK với sự xác nhận của các quầy giao dịch mà không có bất kỳ một sự tham gia của tổ chức môi giới nào. Thời gian này chưa có một văn bản pháp lý của nhà nước điều tiết hoạt động của thị trường này, ngoài một số quy định của Ban cải cách doanh nghiệp địa phương ban hành.
Cùng với tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá, số lượng cổ phiếu ngày một tăng lên, trong khi đó việc phát hành các trái phiếu chính phủ được thực hiện từ năm 1981 cũng ngày càng được mở rộng đòi hỏi phải có một thị trường có quy mô lớn hơn và điều kiện kỹ thuật tốt hơn cho việc giao dịch các chứng khoán.
Mặt khác hình thức giao dịch trung tâm ngày càng bộc lộ nhiều yếu kém như tính rủi ro cao, khó quản lý, không bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư, vấn đề công bố thông tin và kiểm toán yếu kém gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, hệ thống giao dịch quá đơn giản và thô sơ ngày càng không thể đáp ứng được yêu cầu cho các giao dịch ngày càng tăng cao cả về số lượng cũng như doanh số cùng với xu hướng tự động hoá đang diễn ra trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó mà Chính phủ Trung quốc đã quyết định thành lập hai Sở giao dịch Thâm Quyến và Thượng Hải..
Sự hình thành và phát triển của TTCK Trung quốc đi từ tự phát đến phát triển có tổ chức, từ không tập trung đến tập trung, từ không có pháp chế đến có pháp chế. Quá trình phát triển có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: (1981 - 1985): Đây là giai đoạn khởi đầu, giai đoạn mang tính tự phát. Các doanh nghiệp tự động phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn. Lúc này, trong nhận thức của người phát hành cũng như người đầu tư chưa có khái niệm chính xác về chứng khoán, chưa có sự phân biệt rạch ròi về cổ phiếu và trái phiếu. Đây có thể coi là giai đoạn tập hợp vốn để đầu tư một cách tự phát.
Giai đoạn 2 (1986 - 1991): Có thể coi đây là giai đoạn phát triển, là giai đoạn mà các nhà lãnh đạo nhận thức được sự cần thiết phải phát triển thị trường chứng khoán, nhưng chưa hình dung được TTCK của Trung Quốc như thế nào và phải phát triển và quản lý ra sao. Trong khi đó, trên thực tế thị trường cổ phiếu tự phát đã phát triển rất mạnh. Các giao dịch mua đi bán lại (thị trường thứ cấp) bắt đầu hình thành và hoạt động tấp nập. Các công ty môi giới CK tự phát thành lập (chủ yếu các ngân hàng), hình thành nên các điểm giao dịch chứng khoán. Năm 1990, trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Trung quốc lần thứ 13, Quốc vụ viện Trung quốc cho phép chính quyền thành phố Thâm Quyến và Thượng Hải thành lập Sở giao dịch chứng khoán.
Giai đoạn 3 (1992 đến nay): Giai đoạn phát triển hoàn chỉnh. Là giai đoạn hệ thống pháp chế đã được cải thiện một bước quan trọng. Năm 1992 Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành một số văn bản pháp quy để quản lý việc phát hành và kinh doanh CK thống nhất trong toàn quốc (trước đó quy chế quản lý TTCK do uỷ ban hành chính địa phương ban hành để quản lý từng sở giao dịch). Trong giai đoạn này, ngoài việc phát triển hoàn chỉnh TTCK tập trung, Trung Quốc cũng đã tiến hành xây dựng TTCK phi tập trung.
Thị trường CK phi tập trung Trung quốc, gồm hệ thống mạng yết giá tự động (Securities Trading Automated Quotation System) STAQ và hệ thống mạng NET và được thiết lập trên toàn quốc.
STAQ được thiết lập theo mô hình hệ thống NASDAQ Mỹ, do SGDCK Trung quốc (SEC) thành lập năm 1992. Đây là một trong những hệ thống lớn nhất hiện nay. Các thành viên chủ yếu tham gia là các nhà đầu tư tổ chức trong nước. Hiện nay, hệ thống này cung cấp cho khoảng 350 thành viên với mức giá yết, các điều kiện trực tiếp, gián tiếp, hệ thống minh bạch, thanh toán, thông tin giao dịch, các tin tức tài chính và các dịch vụ khác liên quan. Các hoạt động của STAQ nằm trong sự giám sát của Uỷ ban Nhà nước về cơ cấu lại các hệ thống kinh tế (State Commission for Restructuring Economic System). Cho đến nay, có 10 loại cổ phiếu Legal - person (cổ phiếu được nắm giữ bởi các tổ chức trong nước), 4 loại trái phiếu kho bạc, 3 loại trái phiếu công ty, 3 loại trái phiếu đầu tư và hai công cụ tài chính khác được giao dịch trên STAQ. Quy mô vốn trên thị trường khoảng 125,4 tỷ nhân dân tệ (15,1 tỷ USD).
NET do NHTW Trung Quốc đồng sở hữu cùng 4 ngân hàng lớn khác, công ty bảo hiểm nhân dân và ba công ty CK nhà nước, thành lập năm 1993. Hệ thống này nhằm phục vụ những giao dịch về trái phiếu kho bạc và cổ phiếu thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước.
STAQ và NET chủ yếu dành cho giao dịch thị trường giao dịch cổ phiếu C (loại cổ phiếu chỉ cho phép các nhà đầu tư nắm giữ) và trái phiếu. Số lượng cổ phiếu niêm yết trên TTCK phi tập trung Trung quốc hiện nay là rất ít. Hiện nay Chính phủ Trung quốc đang xúc tiến cho ra đời thị trường hiện đại hơn để phục vụ cho việc giao dịch trái phiếu chính phủ, thị trường này dự kiến thuộc sự quản lý của Sở giao dịch Thâm Quyến.
2. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn của các nước trong quá trình hình thành và phát triển thị trường OTC, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
2.1.Về điều kiện cần thiết để xây dựng một OTC
Đây là vấn đề rất quan trọng, theo kinh nghiệm các nước, thị trường OTC chỉ có thể ra đời và tồn tại được khi có đủ các điều kiện cần thiết. Mọi cố gắng chủ quan để thúc ép cho thị trường OTC ra đời không đúng lúc sẽ rất nguy hiểm. Các điều kiện cần thiết phải có là:
2.1.1. Điều kiện ổn định kinh tế và thị trường (tức là nền kinh tế phải có mức tăng trưởng ổn định và vững chắc, lạm phát được kiềm chế, môi trường chính trị xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được đảm bảo và có tiết kiệm).
2.1.2. Điều kiện vật chất (tức là phải đảm bảo đủ lượng hàng hoá cho thị trường với các loại CK khác nhau, hệ thống các tổ chức tài chính trung gian đa dạng, đội ngũ đông đảo các nhà đầu tư nhiệt tình và có ý thức tiết kiệm cho đầu tư phát triển).
2.1.3. Điều kiện con người (tức là phải có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh có đủ trình độ quản lý và kinh doanh, có lực lượng đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám đương đầu với rủi ro và mạo hiểm).
2.1.4. Điều kiện pháp lý (tức là phải có cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, bảo đảm cho TTCK phi tập trung hoạt động an toàn, lành mạnh và ổn định).
ở tất cả các nước đều có hệ thống pháp luật rất chặt chẽ điều chỉnh các hoạt động trên TTCK và TTCK phi tập trung, có thể khái quát hệ thống pháp luật thành các nhóm:
- Nhóm các văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi của người đầu tư (thuộc nhóm này có: luật đầu tư, luật tín thác, luật hợp đồng, luật dân sự, luật hình sự).
- Nhóm các văn bản điều chỉnh hành vi của người phát hành (thuộc nhóm này có: luật CK và giao dịch chứng khoán, luật ngân hàng, luật bảo hiểm).
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về TTCK và TTCK phi tập trung cho thấy ở một số nước TTCK hình thành trước, sau đó mới ban hành luật.
2.1.5. Điều kiện kỹ thuật (tức là hệ thống thiết bị kỹ thuật in ấn chứng khoán, định giá, chuyển lệnh mua, lệnh bán, thanh toán tiền và chứng khoán, kỹ thuật chuyển quyền sở hữu chứng khoán, đăng ký, lưu giữ và sang tên).
Trước đây, tất cả các công việc có liên quan đến việc phát hành và kinh doanh CK được thực hiện thủ công, nên rất chậm. Ngày nay, hệ thống máy móc hiện đại đã được áp dụng rất nhiều trên thị trường, số lượng các cuộc giao dịch và doanh số mua bán, nhờ đó đã tăng lên gấp hàng ngàn lần. Các nhà đầu tư hoàn toàn có thể yên tâm theo dõi những biến động của giá cả qua hệ thống các bảng điện tử được nối với nhau giữa các công ty, hay qua hệ thống điện thoại và Internet với sự trợ giúp của các thiết bị đầu cuối.
Hệ thống giao dịch tự động hoàn toàn này đã được thực hiện tại nhiều TTCK phi tập trung trên thế giới và phần lớn đều vận hành theo hệ thống NASDAQ của Mỹ như: Malaysia (MESDAQ); Canadia Dealing Network Canada, JASDAQ Nhật Bản, Alternative Invesment Market Anh, Le Nouveau Marche Pháp, Bangkok Stock Dealing Center Thái Lan.
Tuy nhiên, không phải nước nào cũng có thể và cần thiết phải chạy theo kỹ thuật hiện đại. Quan điểm chung của các nước là chỉ khi nào thị trường phát triển mạnh, phương pháp giao dịch thủ công không đáp ứng được nhu cầu, thì mới đặt hệ thống thiết bị hiện đại, nghĩa là họ chọn giải pháp tiết kiệm nhất, tránh trường hợp có rất ít hàng hoá giao dịch, niêm yết nhưng lại được phục vụ bằng một hệ thống máy móc giao dịch điện tử hiện đại cùng với một số đông người điều hành, rõ ràng chi phí như vậy quá tốn kém và không cần thiết.
Khi khối lượng và doanh số thị trường lên cao sẽ chuyển sang hiện đại hoá theo tiêu chuẩn quốc tế như các thị trường NASDAQ, JASDAQ như vậy phù hợp với quy mô của thị trường, vừa đỡ tốn kém, lại vừa tiếp cận được kỹ thuật hiện đại nhất khi có nhu cầu tiếp cận.
2.2. Về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường OTC
Ngay trong giai đoạn đầu hoạt động, tại các TTCK phi tập trung Đài Loan, Trung quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài là rất hạn chế. thị trường OTC Đài Loan thành lập 01/11/1994, nhưng đến tháng 7/1995 mới cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Trong khi đó, thị trường OTC Hàn Quốc được thành lập năm 1987 bởi KSDA thì mãi đến năm 1994 mới cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường.
Việc nắm giữ CK của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các CK được giao dịch trên TTCK phi tập trung cũng rất hạn chế và các nước đều tỏ ra thận trọng. Trong giai đoạn đầu có thể dựa vào tỷ lệ CK mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ trên TTCK tập trung để xác định mức được phép nắm giữ trên TTCK phi tập trung (đối với những nước thành lập thị trường OTC sau SGDCK như Việt Nam). Thông thường, tỷ lệ trong giai đoạn này ở hầu hết các TTCK phi tập trung đều khá nhỏ và sau một thời gian hoạt động tỷ lệ này mới được nâng dần lên.
Mục tiêu của việc hạn chế này là nhằm tránh các hoạt động thao túng thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong giai đoạn thị trường mới đi vào hoạt động, khi việc ổn định thị trường và tạo dựng uy tín đối với các nhà đầu tư cũng như những người tham gia thị trường là hết sức quan trọng.
2.3. Về sự tham gia của hàng hoá CK nước ngoài
Kinh nghiệm phát triển thị trường OTC trên thế giới cho thấy, đối với các TTCK phi tập trung của các nước phát triển như NASDAQ Mỹ, JASDAQ Nhật Bản, hoạt động sau một thời gian mới cho phép các CK nước ngoài niêm yết, nhưng đối với các nước trong khu vực thì trong giai đoạn đầu không cho phép các CK nước ngoài tham gia vào thị trường, các CK tham gia thị trường chủ yếu là các CK Nhà nước, CK của các công ty thuộc sở hữu Nhà nước, CK của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các chính sách này nhằm mục tiêu tăng cường huy động các nguồn vốn phục vụ cho phát triển kinh tế quốc gia, đồng thời hạn chế được những tác động bên ngoài vào thị trường trong nước. Tuy nhiên việc niêm yết các CK của các công ty trong nước ra thị trường quốc tế lại được khuyến khích.
2.4. Về việc duy trì biên độ giao dịch hợp lý nhằm ổn định thị trường
Mặc dù việc duy trì biên độ giao dịch có ảnh hưởng đến tính linh hoạt của thị trường, tuy nhiên để đảm bảo an toàn cho thị trường, nhiều SGDCK cũng như TTCK phi tập trung vẫn sử dụng biên độ giao dịch (tỷ lệ biên độ dao động trong ngày so với mức giá đóng cửa của ngày trước đó). Hiện tại, Hàn Quốc giới hạn dao động hàng ngày của giá cả trên thị trường KOSDAQ được thiết lập nhằm bảo vệ các nhà đầu tư và các công ty CK từ những biến động quá mức của giá cổ phiếu; Đài Loan, giới hạn biên độ giao dịch hàng ngày trên thị trường ROSE là ±7%.
2.5. Về quy định đối với các công ty tham gia niêm yết
Cũng giống như thị trường Sàn giao dịch, hầu hết các TTCK phi tập trung trên thế giới đều quy định các tiêu chuẩn cụ thể đối với việc được chọn tham gia niêm yết CK trên thị trường này nhằm đảm bảo cho thị trường có hàng hoá chất lượng cao cũng như các giao dịch được thông suốt, các tiêu chuẩn đó thường là về: thời gian thành lập, vốn điều lệ, vốn cổ phần, số lượng các cổ đông, tỷ lệ nợ, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn góp, tình trạng nợ, Đây cũng là một trong những khía cạnh đáng lưu ý để tham khảo trong việc đưa ra các chuẩn mực, định mức đối với các công ty tham gia niêm yết trên thị trường OTC.
2.6. Thành lập OTC sau đó mới phát triển lên thành TTCK tập trung (SDGCK)
Lịch sử phát triển TTCK thế giới cho thấy, TTCK phi tập trung thường xuất hiện sớm hơn TTCK tập trung nhưng hoạt động chủ yếu là các cuộc thương lượng, trao đổi miệng với nhau, không cần giấy tờ cũng như không cần có hàng hoá hay mẫu mã trước mặt, nói chung hoạt động gần như dựa vào chữ tín, không có các chế tài, các điều chỉnh cụ thể của pháp luật về thị trường này, sau đó các quy định, luật lệ mới từng bước hình thành. Qua một thời gian hoạt động nhất định, thị trường dần dần có sự điều chỉnh của pháp luật và phát triển thành TTCK tập trung (SGDCK), những nóng vội trong quá trình này thường phải trải qua những cú sốc lớn, gây gián đoạn, suy giảm lòng tin, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của thị trường.
Ví dụ như thị trường chứng khoỏn Thỏi Lan, Inđụnờsia, hoạt động trỡ trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoỏ và do khụng được quan tõm đỳng mức, thị trường chứng khoỏn Philippine kộm hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoỏn (Makita và Manila), thị trường chứng khoỏn Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giỏ cả quỏ cao hoặc quỏ thấp,
Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hỡnh thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ cú thể hoạt động cú hiệu quả, ổn định và nhanh chúng nếu cú sự chuẩn bị chu đỏo về mọi mặt về hàng hoỏ, luật phỏp, con người, bộ mỏy quản lý và đặc biệt sự giỏm sỏt và quản lý nghiờm ngặt của Nhà nước.
2.7. Về công khai hoá thông tin
Một trong những mục tiêu hoạt động của các TTCK là bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư. Để thực hiện mục tiêu này, cơ quan quản lý TTCK ở hầu hết các nước đều đặt ra yêu cầu bắt buộc công khai hoá thông tin đối với các đối tượng tham gia vào đầu tư hoặc kinh doanh chứng khoán. Chẳng hạn như phải công khai các báo cáo định kỳ (như bảng tổng kết tài sản, báo cáo kinh doanh lỗ lãi, báo cáo các khoản nợ phải thu, phải trả) cho công chúng tại địa điểm niêm yết và chào bán chứng khoán.
2.8. Quản lý thị trường OTC
2.8.1. Về nội dung quản lý Nhà nước về CK và kinh doanh CK trên OTC, theo kinh nghiệm của các nước và các ý kiến đều có quan điểm thống nhất:
- Xây dựng các văn bản pháp luật về CK và kinh doanh CK; các chính sách điều chỉnh TTCK nói chung và thị trường OTC nói riêng;
- Kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về CK và kinh doanh chứng khoán;
- Cấp, đình chỉ và thu hồi các loại giấy phép trong lĩnh vực CK và kinh doanh chứng khoán.
2.8.2. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường OTC: ở hầu hết các nước việc quản lý thị trường OTC do Hiệp hội các nhà Kinh doanh CK đảm nhận. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận, đồng thời mọi hoạt động của Hiệp hội cũng như hoạt động trên TTCK đều được luật hoá, do vậy tránh được nhiều hiện tượng tiêu cực, bảo vệ nhà đầu tư và đảm bảo sự công bằng trên thị trường.
Chương III
Một số Giải pháp hình thành và phát triển
thị trường otc ở Việt Nam
I. Sự cần thiết phải hình thành và phát triển thị trường otc ở Việt Nam
Để đạt được mục tiêu phát triển TTCKTT ổn định, lành mạnh và hiệu quả, có những hàng hoá chất lượng cao, không thể đưa tất cả các cổ phiếu của các công ty cổ phần ra niêm yết trên TTCKTT (Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh), và như vậy sẽ có một số lượng không nhỏ các CK không được niêm yết trên TTCKTT. Trong khi đó, đối với thị trường ngầm (thị trường tự do), cũng không thể dùng các biện pháp hành chính ngăn chặn hoạt động giao dịch tự do các loại cổ phiếu chưa niêm yết. Mặt khác, cũng không thể thả nổi một thị trường mà hoạt động của nó có thể ảnh hưởng không tốt đến TTCKTT và càng không thể để một số lượng lớn cổ phiếu giao dịch một cách tự do, không có sự quản lý. Như vậy việc hỡnh thành một cơ chế để quản lý thị trường chuyển nhượng cổ phiếu chưa niờm yết là cỏch chủ động để cú những hàng hoỏ tốt nhất cho thị trường chớnh thức.
Do vậy, biện pháp hợp lý là thành lập thị trường OTC để giải quyết các nhu cầu bức xúc đang được đặt ra ở trên. Việc thành lập thị trường OTC chính thức có thể giải quyết được một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tạo phương tiện thuận lợi cho các công ty chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết có thể huy động vốn dễ dàng qua thị trường chứng khoán, đặc biệt đối với các công ty có vốn nhỏ, công ty mới thành lập;
Thứ hai, thị trường OTC ra đời với các thiết bị, phương tiện giao dịch hiện đại, thuận tiện và cơ chế giám sát chặt chẽ, sẽ cùng với TTCK tập trung thu hẹp TTCK tự do hiện nay, bảo vệ nhà đầu tư và lành mạnh hoá hệ thống TTCK Việt Nam nói chung;
Thứ ba, thị trường OTC ra đời sẽ góp phần hoàn thiện hơn thị trường tài chính Việt Nam với cơ chế thiết lập giá theo thoả thuận (thương lượng giá). Cơ chế này, cùng với cơ chế đấu giá theo lệnh tập trung của các thị trường khác sẽ góp phần hoàn thiện các cơ chế xác lập giá cho hệ thống thị trường tài chính Việt Nam. Mặt khác, thị trường OTC còn có đặc điểm là việc mua bán diễn ra tại nhiều nơi và được vận hành bởi hệ thống các nhà tạo lập thị trường. Những đặc điểm này tạo cho thị trường OTC tính linh hoạt, thanh khoản cao, giao dịch nhanh, chi phí giao dịch thấp so với TTCK tập trung. Chính vì vậy, thị trường này có thể kết hợp với TTCK tập trung tạo thành một hệ thống TTCK hoàn thiện;
Thứ tư, việc đưa thị trường OTC vào hoạt động còn giúp các công ty CK mở rộng khả năng, phạm vi hoạt động, khai thác tối đa các loại hình kinh doanh CK để tạo thêm nguồn thu nhập cho các công ty này. Đây cũng là một trong những vấn đề thực tế bức xúc hiện nay.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, có thể thấy sự cần thiết và mục đích của việc thành lập thị trường OTC Việt Nam. Đó là nhằm tạo điều kiện cho các công ty vừa và nhỏ, các công ty công nghệ cao mới thành lập, các công ty chưa được niêm yết trên TTGDCK có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán; cung cấp thêm các loại công cụ đầu tư đa dạng và môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư; tạo cơ chế giao dịch linh hoạt, chi phí thấp; tạo một cơ chế định giá mới để góp phần hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính Việt Nam. Thị trường OTC sẽ kết hợp với TTCK tập trung tạo thành một hệ thống TTCK rộng lớn, sôi động và linh hoạt hơn.
II. Định hướng phát triển thị trường OTC trong thời gian tới
1. Những quan điểm chủ đạo trong việc lựa chọn các giải pháp để xây dựng OTC ở Việt Nam.
Nhu cầu thực tế là cần thiết phải xây dựng một thị trường OTC. Tuy nhiên, do tính đặc thù của nền kinh tế xã hội nước ta nên khi tiến hành xây dựng TTCK phi tập trung chúng ta cần quán triệt một số quan điểm chủ đạo sau:
1.1. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức, xây dựng, quản lý và vận hành, kích thích và tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo đường lối và định hướng của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đặc biệt là đối với thị trường OTC, một thể chế kinh tế bậc cao của nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý giám sát phải là một tất yếu, nhằm phát huy những thế mạnh, ưu điểm và qua đó, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, những mặt trái của nền kinh tế thị trường.
1.2. Đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất vào một cơ quan quản lý Nhà nước (Uỷ ban CK Nhà nước) hay một tổ chức quản lý chuyên nghiệp hoạt động phi lợi nhuận và theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật (Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán) đúng theo tinh thần quản lý nền kinh tế quốc dân của Đảng và Nhà nước ta, nhằm nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường và tạo điều kiện cho thị trường OTC ra đời, đi vào vận hành an toàn và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư.
1.3. Cần xây dựng một hệ thống giao dịch điện tử nối mạng giữa các thành viên với nhau nhằm cung cấp các thông tin cần thiết như số lượng CK đặt mua, chào bán và các mức giá thương lượng, thoả thuận, nhằm bảo đảm cho thị trường hoạt động công bằng và hiệu quả, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, không bị chi phối, lệ thuộc vào nước ngoài, đồ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5945.doc