Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu và nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá tại công ty Thanh Bình HTC

LỜI NÓI ĐẦU 2

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHẬP

KHẨU VÀ SỨC CẠNH TRANH HÀNG HOÁ 4

1.1. Khái niệm, chức năng và vai trò của nhập khẩu hàng hoá 4

1.1.1. Khái niệm nhập khẩu 4

1.1.2. Chức năng của nhập khẩu 5

1.1.3. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá 6

1.2. Các hình thức của hoạt động nhập khẩu 8

1.2.1. Nhập khẩu thông thường(nhập khẩu trực tiếp) 8

1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác 9

1.2.3. Nhập khẩu liên doanh 10

1.2.4. Nhập khẩu đổi hàng 10

1.2.5. Nhập khẩu tái xuất 11

1.2.6. Nhập khẩu theo đơn nhập hàng 12

1.3. Khái niệm, vai trò và các hình thức cạnh tranh 12

1.4. Sức cạnh tranh của hàng hoá và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá 20

1.4.1. Sức cạnh tranh của hàng hoá 20

1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá 32

Chương II: Thực trạng hoạt động

kinh doanh nhập khẩu và sức cạnh tranh

về hàng hoá của công ty 35

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 35

2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty 42

2.3. Thực trạng về sức cạnh tranh hàng hoá của công ty 44

2.4. Đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sức cạnh tranh hàng hoá của công ty 47

Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa tại công tythanh bình htc 50

3.1. Phương hướng kinh doanh nhập khẩu của công ty 50

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu và nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của công ty 51

3.3. Một số kiến nghị với nhà nước 54

KẾT LUẬN 57

 

 

 

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu và nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá tại công ty Thanh Bình HTC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng đã xuất hiện: Chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó ccòn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của kháchhàng mang tính khách quan. Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định khả năng cạnh chất tranh của doanh nghiệp ở chỗ: Nâng cao lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích khách mua hàng và mở rộng thị trường Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh đều có thái độ tích cực trong quản lý chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ la đảm bảo chất lượng tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thành trong quan hệ buôn bán. Để tồn tại và chiến thắng trong cạnh ranh, doanh nghiệp cần phải đảm bảo chất lượng sản phẩm. ` Dịch vụ khách hàng: Bao gồm dich vụ trước, trong và sau khi bán sản phẩm cho khách hàng. doanh nghiệp cần phải thức hiện đầy đủ các dịch vụ này ngày càng tốt hơn thì sẽ tạo được lòng tin và uy tín đối với khách hàng và ngày càng nhiềukhách hàng trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp hơn. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường. ` Hình ảnh của doanh nghiệp: Được xác định dựa trên uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Nếu uy tín của doanh nghiệp đảm bảo chất lượng hang hoá và các dịch vụ khác tốt, khách hàng sẽ tin tưởng chọn mua phẩm của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh, các đối thủ khác muốn lôi kéo các khách hàng này của họ cần có thời gian, chi phí. Hình ảnh của doanh nghiệp rấtquan trọng trong cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp duy trì và giữ vững thị trường, chống sự lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh, và hình ảnh của doanh nghiệp là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức cạnh tranh của sẩnhẩm doanh nghiệp. Hình ảnh của doanh nghiệp tốt sẽ đồng nghĩa với sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng tốt và giá cả vừa phải, thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng. + Chỉ tiêu định lượng: ` Thị phần của doanh nghiệp: *Thị trường của công ty so với toàn bộ thị trường Công thức tính: Thị phần của công ty Doanh thu của công ty .100% = So với toàn bộ thị trường Doanh thu toàn bộ thị trường ý nghĩa kinh tế: Thị phần này cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường với mặt hàng doanh nghiệp đang sản suất kinh doanh như thế nào? Thị phần lớn hơn chứng tỏ nó được khách hàng ưa chuộng và đáng giá cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Những doanh nghiệp có thị phần lớn ở mặt hàng nào đó là những doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến để sản xuất mặt hàng đó nhằm đảm bảo sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả phù hợp, đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng. Thị trường của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường mà lớn chứng tỏ doanh nghiệp có sức cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng. *Thị phần của công ty so với phần khúc mà nó phục vụ Công thức tính: Thị phần của công ty so Doanh thu của công ty .100% = Với phần mà nó phụcvụ Doanh thu của toàn khúc thi trường ý nghĩa kinh tế: Xuất phát từ nguồn lực là có hạn và nhu cầu của khách hàng thì đa dạng, nhu cầu của người này không giống nhu cầu của người kia và nhu cầu của nhóm khách hàng ở các quốc gia khác nhau cũng thường không giống nhau do các đặc điểm về văn hoá, thói quen tiêu dùng. Nên để có thể cạnh tranh thành công doanh nghiệp không thể phục vụ tất cả người tiêu dùng ở mọi nơi mà doanh nghiệp thường phải xác định cho mình một thị trường mục tiêu phù hợp với tiềm lực ccủa chính mình. Trên thị trường mụctiêu của doanh nghiệp đôi khi cũng có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, thị phần của công ty do với phần khúc mà nó phục vụ cũng phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm công ty so với đối thủ cạnh tranh. Nếu thị phần của cong ty lớn hơn chứng tỏ sản phẩm của công ty được khách hàng chấp nhận, được ưa thích hơn so với đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó tốc độ tăng các năm cũng cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm của công ty. Nếu tốc độ cao chứng tỏ sản phẩm của công ty ngày càng được chấp nhận, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh. * Thị phần tương đối: Công thức tính : Thị phần tương đối Doanh số của công ty .100% = Doanh số của đối thủ mạnh nhất ý nghĩa kinh tế: Nó cho biết vị thế của công ty trên thị trường như thế nào. ` Giá thành và giá cả của sản phẩm Đây cũng là một chỉ tiêu định lượng cho biết sứ cạnh tranh của sản phẩm. Nếu giá thành và giá cả sản phẩm của công ty mà nhỏ hơn nhiều so với đối thủ cạnh tranh khác thì sản phẩm của công ty có sức cạnh tranh cao hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh và ngược lại. ` Tỷ lệ doanh thu của công ty so với đối thủ mạnh nhất Qua chỉ tiêu này cho biết vị thế và khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Thể hiện ở mức độ cạnh tranh của côn ty đến đâu, công ty có thể vượt qua được đối thủ cạnh tranh nào và khả năng trong tương lai tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sẽ có xu hướng như thế nào. - Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng hoá. Điểm cốt yếu của việc xây dựng chiến lược cạnh tranh là liên hệ công ty với môi trường của nó. mặc dù môi trường liên quan là rất rộng, bao gồm cả các lực lượng kinh tế lẫn xã hội thì mảng quan trọng nhất của môi trường đó là ngành kinh tế nơi mà các hoạt động cạnh tranh của công ty đang diễn ra. Cấu trúc ngành có một ảnh hưởng lớn sự việc xác định những điều luật của cuộc chơi cũng như các chiến lược có khả năng có được đối với công ty. Các lực lượng bên ngoài nganh cần được kể đến trước hết la ở các mối quan hệ, bởi vì các lực lượng đó thường ảnh hưởng đến toàn bộ các hãng ở trong ngành. Chìa khoá thành công nằm ở khả năng khác biệt của hãng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các lực ượng đó. Dưới đây ta xem xét các nhân tố ảnh hưởng đén sức cạnh tranh của hàng hoá qua mô hình của Michael. E. Porter. Porter đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào 5 lực lượng: các đối thủ tiềm năng, sản phẩm thay thế, người cung ứng, khách hàng và những đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành. Bốn lực lượng đầu được xem như là lực lượng bên ngoài và cuộc cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh trong một ngành được xem là cuộc cạnh tranh quyết liệt nhất. Năm lực lượng cạnh tranh- nguy cơ nhập cuộc đối thủ cạnh tranh mới, mối đe doạ từ sản phẩm thay thế, quyền lực của người mua, quyền lực của người cung ứng và cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện thời- phản ánh thực tế là cạnh tranh rong một ngành liên quan không chỉ các bên đã xác định. Khách hàng, người cung ứng, người thay thế, các đối thủ mới tất cả đều là đối thủ cạnh tranh đối với các hãng trong ngành và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể có thể nổi trội hơn một chút hoặc kém hơn một chút so với các đối thủ khác. Cuộc cạnh tranh với nghĩa rộng này có thể được gọi là cạnh tranh mở rộng. + Nguy cơ nhập cuộc: Nguy cơ nhập cuộc vào một ngành phụ thuộc vào những nhập cuộc thể hiện qua các phản ứng của các đối thủ cạnh tranh hiện thời mà các đối thủ mới có thể dự đoán được. nếu tất cả barie cao hoặc nếu đối thủ mới có thẻ dự đoán sự suy tính trả đũa quyết liệt của các đối thủ hiện thời đang quyết tân phòng thủ thì nguy cơ nhập cuộc sẽ thấp. Có 6 nguồn barie nhập cuộc chủ yếu sau: *Tính kinh tế nhờ quy mô: Tính kinh tế nhờ quy mô sản xuất coi sự giảm xuống về chi phí cho một đơn vị sản phẩm là do sự tăng lên tuỵêt đối trong một thời kỳ về khối lượng sản phẩm. Tính kinh tế nhờ quy mô ngăn cản sự nhập cuộc do bắt những đối thủ mới vào cuộc với quy mô lớn và phải mạo hiểm với những phản ứng mạnh mẽ từ các đối thủ cạnh tranh hiện đang tồn tại hoặc vào cuộc với quy mô nhỏ và chấp nhận sự bất lợi về chi phi, cả hai đều là sự lựa chọn không monh muốn. *Tính dị biệt của sản phẩm: chỉ rằng các hãng tồn tại đã có danh tiếng và sự tin cậy của khách hàng, công tác quảng cáo trong quá khứ, hoẵ dơn giản vì nó là hãng đầu tiên của ngành. Tính dị biệt tạo nên barie nhập cuộc vì nó bắt buộc các đói thủ mới phải làm nhiều để vượt qua sự trunh thành hiện tại của khách hàng. Những nỗ lực này thường kéo theo những khoản lỗ cho việc khởi đầu vì phải kéo dài thời gian. Những đầu tư nhằm xây dựng tiếng tăm cho hãng là rất mạo hiểm vì sẽ không có một chút giá trị đền bù nào nếu viêvj nhập cuộc thất bại. *Những đòi hỏi về vốn: Sự cần thiết phải đầu tư những nguồn lực tài chính lớn để cạnh tranh cũng tạo lên một barie nhập cuộc, đặc biệt trong trường hợp vốn đó không giành cho sự mạo hiểm, hoặc cho những chi phí quảng cáo trứơc không bù đắp được, hoặc cho việc nghiên cứu và tạo sản phẩm mới. *Chi phí chuyển mối: Các chi phí đổi mối tạo nên barie nhập cuộc, có nghĩa là chi phí mà người mua phải trả một lần cho việc thay đổi từ việc mua sản phẩm của người cung ứng này sang sản phẩm của người khác. Chi phí đổi mối có thể bao gồm các chi phí đào tạo nhân viên, giá của các thiết bị mới kèm theo, chi phí và thời gian để kiểm tra và c ng vị trí thuận lợi, trợ cấp của chính phủ, biểu đồ kinh nghiệm và học hỏi. + Cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại: Một số hình thức cạnh tranh, rõ nhất là cạnh tranh vè giá, rất không ổn định và có khảt năng làm giảm lợi nhuận của toàn ngành. Các đối thủ cạnh tranh rất nhanh chóng và dễ dàng bắt chớc các hành động giảm giá, và một khi bắt chước theo như vậy. chúng đã hạ doanh thu của tất cả các hãng trừ khi độ co giãn của cầu là đủ lớn. ngược lại các cuộc chién tranh vè quảng cáo có thể làm tăng nhu cầu và làm tăng mức độ dị biệt của sản phẩm trong ngành có lợi ích cho tất cả các hãng. Cuộc tranh đua trong một ssố ngành được đặc trưng qua một số giai đoạn như “ Sẵn sàng nghênh chiến”, “chiến đấu”, “tiêu diệt” trong khi ở một số ngành khác nó được gọi là “lịch sự” hoặc “quân tử”. Cạnh tranh khốc liệt là kết quả của một loạt các yếu tố tác động lẫn nhau *Các đối thủ cạnh tranh đông đảo hoặc bằng vai phải lứa: Khi số hãng dông đảo, khả năng có sự lộn xộn là lờn và mọt ssố hãng có thể tin tưởng theo thói quen là họ có thể dich chuyển mà không bi nhận thấy. Thậm chí khi có một số hãng, nếu chung khá là cân bằng với nhau xét về quy mô và thực lực thì vẫn có sự không ổn định bởi vì chúng có lẽ là thiên hướng đối chọi vói nhau và có các nguồn lực để chống đỡ và trả đũa kịch liệt. ngược lại khi ngành có mức tập trung hoá cao, hay bị điều khiển bởi một hoặc một số ít hàng thì có ít sự nhầm tưởng vè sức mạnh, và hãng hoặc những hãng dẫn đầu có thể ấn định trật tự cũng như có thể đảm trách vai trò sắp sếp phối hợp trong ngành quấcc công cụ như vai trò dẫn đầu về giá. *Tốc độ tăng trưởng chậm của ngành: Tốc độ tăng trưởng chậm biến của cạnh tranh của các hãng đang muốn mở rộng thành một cuộc phân chia thị trường. Cuộc cạnh tranh về thị trường sẽ sôi động hơn rất nhiều so với trường hợp khi tốc độ tăng trưởng của ngành đảm bảo những kết quả cao hơn trong khi chỉ cần theo kịp tốc độ tăng trưởng của ngành, mà khi các nguồn lực về quản lý và tài chính sẽ được dùng vào việc mở mang phát triển cùng với toàn ngành. *Chi phí cố định và chi phí lưu kho: Chi phí cố định cao gây áp lực lớn buộc các hãng phải khai thác hết năng lực sản xuất và khi năng lực sản xuất dư thừa thì điều đó thường dẫn đến việc giảm giá một cách mạnh mẽ. Chi phí cô định được coi là cao trong trường hợp mà sản phẩm nếu đã sản xuất ra sẽ rất khó hoặc rất tốn kém để lưu kho. Khi đó các hãng rất dẽ bị cuốn vào trào lưu giảm giá nhằm tăng lượng bán. *Sự thiếu vắng về tính khác biệt của sản phẩm và các chi phí chuyển mối: Khi một sản phẩn hoặc một dịch vụ nào đó được chấp nhận trên thị trường như một hangf hoá hoặc gần như một loại hàng hoá thì việc lựa chọn của người mua chủ yếu dựa vào giá cả và cách thức phục vụ, kết quả là gây ra một cuộc cạnh tranh sống còn về giá cả cũng như là cung cách phục vụ. *Năng lực sản xuất tăng thêm với mức vốn: Khi tính hiệu quả nhờ quy mô đòi hỏi phải tăng năng lực sản xuất với mức lớn thì phần năng lực sản xuất đểtăng thêm có thể đồng thời phá huỷ sự cân bằng cung cầu, đặc biệt khi có nguy cơ co cụm của các năng lực sản xuất bổ sung này. *Các đối thủ cạnh tranh đa dạng: Các đổi thủ cạnh tranh đa dạng về chiến lược, về nguồn vốn, về con người. Các mỗi quan hệ vơi công ty mẹ của họ có những mục đích khác nhau và chiến lược cạnh tranh khác nhau. *Đặt cược chiến lược cao: Cuộc cạnh tranh trong ngành cành trở nên sôi động hơn nếu một loạt các hãng đặt cược những địnhk mức giá cao váo sự thành công trong cuộc cạnh tranh này. Các Barie bỏ cuộc cao: Các Barie bỏ cuộc là các yếu tố kinh tế , chiến lược và tinh thần có tác dụng giữ các công ty ở lại cạnh tranh trong ngành cho dù họ có thể kiếm được rất ít lợi nhuận hoặc thậm chí có thể lỗ. + áp lực từ sản phẩm thay thế Xét theo nghĩa rộng thì các hãng trong một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất ra các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành kinh doanh có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp hẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng vững chắc hơn. Trong một chừng mực nhất định, sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế làm giảm đi sức cạnh tranh của hành hoá do tính năng và công dụng của nó. Có thể trong một thời gian sử dụng, người tiêu dùng nhận biết nđược nó không “thay thế” được sản phẩm truyền thống thì sức cạnh tranh của sản phẩm trước lại sẽ cao hơn sức cạnh tranh của sản phẩm thay thế. Sản phẩm tthay thế cũng là một nhân tố đe doạ đến sứccạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp. Sự ra đời của sản phẩm thay thế là tất yếu nhằm đáp ứng được sự thay đổi của thị trường theo đúng hướng ngày càng đa dạng, phong phú và ngày càng cao cấp hơn. Sản phẩm thay tthế luôn được sản xuất trên những dây chuyề công nghệ tiên tiến hơn và rõ rãng nó có nhiều ưu điểm hơn và do đó nó sẽ dần thu hẹp thị trường của các sản phẩm thay thế. Do vậy chính nó sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế. Cách khắc phục của các doanh nghiệp là hướng tới sản phẩm mới hay hướng các khách hàng tìm kiếm độ thoả dụng mới. + Quyền lực của người mua Sự khó tính của người mua trong tiêu dùng sản phẩm như đòi hỏi kiểu cách, mẫu mã, chất lượng và giá cả của sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu đó. Tuy nhiên khi thực hiện nhu cầu này thì sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp này có thể cao hơn, trong khi đó sức cạnh tranh hàng hoa của doanh nghiệp khác lại thấp. Đó cũng là do quy luật cạnh tranh, sự đào thải của cái không phát triển cũng chính là sự sinh sôi của cái mới, phát triển hơn. Người mua cạnh tranh với ngà bắng cách ép giảm giá xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn đồng thời làm cho đối thủ chống lại nhau. Tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận của ngàh nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Quyền lực của mỗi nhóm khách hàng của doanh nghiệp phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm về tình hình thị trường của nhóm và vào tầm quan trọng của hàng hoá mà khách hàng mua của doanh nghiệp. Nhóm khách hàng là mạnh nếu họ có các điều kiện sau: Nhóm tập trung hoặc mua với khoói lượng lớn so với khối lượng bán ra của người bán. Chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các chi phí hoặc trong các hàng hoá phải mua của nhóm. Khách hàng sẽ có xu hướng chi tiêu hựp lý các Những hàng hoá mà trong nhóm mua của ngành nguồn lực dùng để mua hàng của mình, đặc biệt có lý do giá cả và mua một cách có chọn lọc. Những sản phẩm mà nhóm mua của doanh nghiệp là theo đúng tiêu chuẩn phổ biến và không có gì khác biệt. Người mua chắc chắn có thể tìm thấy những ngườ cung cấp khác và sẽ có khả năng đẩy doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp khác. Nhóm chỉ kiếm được mức lợi nhuận thấp, lợi nhuận thúc đẩy hạ thấp chi phí mua hàng. Còn đối với nhóm khách hàng có mức lợi nhuận cao nhìn chung ít để ý giá cả hơn. + Quyền lực của người cung cấp Sức ép của người cung ứng mà lờn thì buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn các biện pháp thích hợp nhất để giải quýêt. Ví dụ người cung cấp ép giá nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm cao, làm cho các doanh nghiệp phải chịu một chi phí lớn hơn để sản xuất ra sản phẩm và do đó giá bán có thể cao hơn đối thủ cạnh tranh khác. Vì vậy, làm giảm đi sức cạnh tranh của hàng hoá của doanh nghiệp xuống là rất cần thiết. Với vai trò là người cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, quyền kực của nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá các yếu tố đầu vào. Những đặc điểm sau của người cung ứng ảnh hưởng rất lớn đến sức canh tranh trong ngành: Số lượng người cung ứng: Thể hiện mức cung ứng các yếu tố đầu vào quan trọng và mức lựa chọn nhà cung ứng của các doanh nghiệp cao hay thấp. Nhiều nàh cung cấp tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu, nó có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào của các nhà sản xuất. Tính độc quyền của nhà cung ứng tạo ra cho họ những điều kiện để phá giá các nhà sản xuất, gây ra những khó khăn cho việc thực hiện cạnh tranh bằng giá cả. Mối quan hệ giữa các nhà cung ứng và nhà sản xuất: Khi nhà cung ứng đồng thời là một đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một tổ chức sản xuất thì tính liên kết nội bộ được phát huy tạo cho nhà sản xuất có điều kiện thực hiện cạnh tranh bằng giá cả. Để giảm bớt ảnh hưởng xấu từ phía các nhà cung ứng doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ tốt với họ, mua của nhiều người trong đó chọn ra một nhà cung ứng chính đồng thời tích cực nghiên cứu tìm ra nguyên vật liệu thay thế. 1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Do xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới, các hàng rào mậu dịch được dỡ dần, thay vào đó là chế độ tự do mậu dịch. Khi đó, quốc gia nào, doanh nghiệp nào có hàng hoá có chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn sẽ được khách hàng chấp nhận, nhứng hàng hoá chất lượng tháp trong khi giá cả cai sẽ bị thải loại dần. Như vậy công cụ để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp chính là sức cạnh tranh của hàng hoá, là khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng được khách hàng tốt hơn các đối thủ cạnh tranh như thế nào. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia sẽ nhận biết được lợi thế so sánh của mình so với các nước khác, và họ sẽ tập trung vào những lĩnh vực thuộc lợi thế của họ để tối đa hoá lợi ích thu được. Vì vậy, khi tham gia xuất khẩu hàng hoá, các quốc gia sẽ phát huy tối đa lợi thé của mình để phát triển sản xuất. Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài còn giúp đa dạnh hoá ngành nghề ở các nước xuất khẩu, từ đó nhiều công việc được tạo ra, thu nhập của người dân tăng và đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của hoật động xuất khẩu, mà muốn hoạt động xuất khẩu phát triển tức là có thể bán được nhiều hành hoá cho nước ngoài điều đó đồng nghĩa với việc ta sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh, có nghĩa là sức cạnh tranh sản phẩm của ta cao hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Quy luật cạnh tranh là một quy luật kinh tế, quy luật cạnh tranh của nền kinh tê thị trường buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, vươn lên để có thể trụ vững trong cạnh tranh. Theo quy luật, khi tham gia thị trường, giá cả người bán và người mua đều muốn tối da hoá lợi ích của mình. Người mua thì luôn muốn nhận được hàng hoá có chất lượng tốt nhất với giá cả tốt nhất, trong khi người bán lại luôn muốn định giá ở mức độ cao nhất để có thể nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do đó trên thị trường, người thắng cuộc sẽ là người cung cấp hàng hoá mà người mua thích nhất, có nghĩa là nhà sản xuất phải cho những sản phẩm được coi là có chất lượng cao nhất, song giá thành phải thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh, điều đó đồng nghĩa với việc gia tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Ngày nay, cùng với dự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chất lượng sản phẩm khong ngừng được nâng cao trong khi giá thành sản xuất ngày càng giảm . Điều này sẽ làm cho ai nắm được công nghệ tiên tiến trong tay sẽ tồn tại và tăng trưởng tốt. Ngược lại, với những công nghệ lạc hậu, sản xuất ra snả phẩm có chất lượng thấp và giá thành cao, nhà sản xuất sẽ bị thua cuộc, bị pha sản và sẽ bị loại khỏi thị trường. Vì vậy, để tồn tại và phất triển doanh nghiệp phải thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng, tức là sản xuất ra sảnphẩm có chât lượng ngày càng cao và giá cả ngày càng hạ hay nói cách khác sức cạnh tranh của hàng hoá phải được nâng cao cùng với yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của công ty. Việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa là rất quan trọng. Điều này thể hiện qua việc tìm hiểu về khái niệm, chỉ tiêu và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa. Như vậy, đây là những lý luận hết sức cơ bản mà bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải nghiên cứư và ứng dụng vào thực tiễn kinh doanh của mình. Sự trình bày trên thể hiện tính chất phức tạp của cạnh tranh nói chung và cạnh tranh hàng hóa nói riêng. Đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm vững được lý luận này thì mới có thể đáp ứng được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sức cạnh tranh về hàng hoá của công ty. 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Thanh Bình HTC được thành lập Ngày 2 tháng 5 năm 1998. Theo quyết định số 3506 /QĐ/KHĐT. Địa chỉ giao dịch: www. thanh binhhtc. com. vn. Tên giao dịch là THABICO. Điện thoại: (04) 8771883- 8772790. Fax: (04) 8771883- 8773995. Tài khoản: 43222-00- 20117 mởi tại chi nhánh techcombank Hoàn Kiếm – Hà Nội. Mã số thuế: 01 00595569- 01. Ngành nghề kinh doanh là: vật tư kim khí. Công ty lúc ban đầu chỉ là công ty thương mại với nhiệm vụ chủ yếu là nhập các mặt hàng về thép sau đó bán cho khách hàng. Thì hiện nay công ty đã phát triển được các ngành nghề kinh doanh như thương mại và sản xuất các mặt hàng về thép công nghiệp theo các đơn đặt hàng của khách hàng. Chức năng, nhiệm vụ của công ty là kinh doanh các mặt hàng thép công nghiệp: + Thép tấm, thép lá cán nóng, cán nguộn dạng cuộn và kiện. + Thép các bon, thép hợp kim dạng tấm và thanh tròn. + Thép hình các loại: U –I V –L ... + Cùng với kinh doanh công ty còn có một bộ phận sản xuất, chuyên phục vụ theo yêu cầu của khách hàng về các loại sản phẩm sau thép đó là: thép hình U- C- Z ..., thép tấm, lá theo yêu cầu về kích thước, kiểu dánh chất lượng của khách hàng. Thị trường đầu vào của công ty chủ yếu là Nga và Nhật Bản, ngoài ra còn các công ty của các nước Dài Loan, Canada, Hàn Quốc... - Thị trường đầu ra của công ty chủ yếu là thị trường miền Bắc, Trung từ Đà Nẵng trở ra. Qui mô , bộ máy tổ chức lúc thành lập: chỉ có 12 cán bộ công nhân viên, qui mô nhỏ, chưa phân thành cơ cấu rõ ràng. 2.1.2. Bộ máy tổ chức của công ty. Với số lượng ban đầu mới chỉ là 12 cán bộ công nhân viên hiện nay công ty đã có số công nhân viên là gần 60 người. Từ chỗ chưa có bộ máy tổ chức đã có cơ cấu tổ chức rõ ràng với các phòng kinh doanh, phòng xuất nhập khẩu, phòng kế toán tài chính, phòng hành chính, phòng tổ chức nhân sự Qua 7 năm phát triển công ty đã có cơ cấu bộ máy rõ ràng với các bộ phận chức năng sau: Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty. Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của công ty Thanh Bình HTC Phó giám đốc phòng kế hoạch sx-kd trung tâm sx-kd phòng XNK p.tài chính kế toán Giám đốc phó giám đốc phòng tổ chức phòng ban khác Cửa hàng kd số 1 cửa hàng kd số 2 x sx số 1 x sx số 2 tổ kho vận tổ nghiệp vụ kế toán tổ kế toán tài chính tổ kinh doanh tổng hợp lao động tiền lương tổ chức hành chính - Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy tổ chức: + Giám đốc: là người quyết định thực thi kế hoạch, chiến lược phát triển của công ty. Thông qua sự tích hợp những ý kiến, đánh giá có được từ hệ thống các phòng ban trực thuộc sự quản lý của giám đốc như các phó giám đốc, phòng xuất nhập khẩu, phòng tài chính kế toán. Giám đốc có nhiệm vụ chủ yếu là: * Theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Ký các hợp đồng lao động hay thoả ước lao động với công nhân. * Thay mặt doanh nghiệp ký kết các hợp đồng kinh tế phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. * Bổ nhiệm miễn nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong từng bộ phận của công ty. * Đại diện cho công ty để giao dịch với cơ quan nhà nước , các tổ chức kinh tế và với tào án về mọi vấn đề có liên quan đến hoạt động của công ty. + Các phó giám đốc: là bộ phận tham mưu cho giám đốc về các kế hoạch, chiến lược phát triển công ty. Phó giám đốc tổ chức và triển khai các quyết định của giám đốc tới các phòng ban trực thuộc do mình quản lý theo sự phân công của g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7210.doc
Tài liệu liên quan