Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện na

Mở đầu 1

PHẦN I TỔNG QUAN 4

1. Lý luận chung về cạnh tranh. 4

1.1 Khái niệm canh tranh 4

1.2 Vai trò của cạnh tranh 4

1.3 Điều kiện để cạnh tranh 5

1.4 Kiểm soát cạnh tranh 6

2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế hiện đại. 6

2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 6

2.2 Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh 7

Hình 1. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh 9

2.3 Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. 9

3. Môi trường vĩ mô và ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vĩ mô 11

4. Kinh nghiệm một số nước về vận dụng môi trường vĩ mô đối với việc nâng cao khả năng canh tranh của các DNNQD. 12

PHẦN II THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 14

A. Về môi trường pháp luật 14

B Về môi trường kinh tế 19

I Chính sách tài chính 19

1 Về chính sách tín dụng 19

2. Về chính sách thuế 24

II. Chính sách đất đai 26

III Chính sách xúc tiến thương mại 32

III. Chính sách kinh tế đối ngoại 35

PHẦN III MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA 37

DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 37

 

A. Về chính sách pháp luật 37

1) Hoàn thiện và ổn định hệ thống pháp luật 37

2) Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật 38

3) Xây dựng hành lang pháp lý về cạnh tranh và chống độc quyền 39

B. Về chính sách tín dụng 40

1) Về phía ngân hàng 40

2) Về phía Nhà nước 40

C Chính sách thuế 41

1) Về các qui định và thái độ của ngành thuế: 41

2) Về việc thực thi luật thuế đặc biệt là thuế GTGT. 41

D Về chính sách đất đai 43

1 Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về đất đai. 43

2) Quản lý thống nhất về đất đai từ trung ương đến địa phương. 43

3) Về thủ tục thuê đất và xin cấp đất 44

4) Xoá bỏ sự bất bình đẳng trong thuê và sử dụng đất đai giữa DNNQD với DNNN. 45

E. Về chính sách xúc tiến thương mại 45

1 Về phía chính phủ 45

2) Về phía Bộ Thương mại và các Sở trực thuộc 46

3) Về sự phát triển VCCI 47

KẾT LUẬN 48

 

doc50 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện na, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NQD thiệt đủ đường. Kết quả là không mở rộng được sản xuất, trang thiết bị không được đổi mới, nguồn nhân lực không được đào tạo, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành cao và không thể cạnh tranh trên thị trường trong nước chưa nói đến nước ngoài và không có con đường nào khác là phá sản. Những khó khăn trong vấn đề này được liệt kê cụ thể như sau: Thứ 1: Sự không đồng bộ giữa luật ngân hàng và những luật khác như luật hình sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật thuế... Những luật này trong chừng mực nào đó đã tạo ra phiền toái trong việc cấp tín dụng. Luật đất đai đề cập đến vấn đề thế chấp, luật phá sản không hoàn toàn bảo vệ lợi ích của ngân hàng, luật dân sự tạo ra sự phiền phức trong việc buôn bán với những tài sản thế chấp trong trường hợp những tài sản này quá hạn. Ngân hàng thương mại lại bị hạn chế bởi luật ngân hàng và luật tín dụng về việc kiểm soát tổng các khoản vay quá hạn của các doanh nghiệp. Thứ 2: Việc vay mượn lại phụ thuộc vào tại sản thế chấp đây là khó khăn chủ yếu đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp nhận vốn tín dụng. Lấy ví dụ trong trường hợp của tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy 98% DNNQD trong tỉnh có nhu cầu vay vốn từ các ngân hàng nhưng con số này giảm xuống chỉ còn 56,7% nếu các ngân hàng yêu cầu giải trình những thông tin về thế chấp. Sự cầm cố thế chấp bị hạn chế bởi thị trường bất động sản còn kém phát triển hoặc chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác vì không có cơ quan tổ chức nào chiụ trách nhiệm để đánh giá tài sản thế chấp nên những hoạt động này được thực hiện duy nhất bởi ngân hàng. Điều này dẫn đến vấn đề là ngân hàng có xu hướng muốn đánh giá thấp tài sản của doanh nghiệp, không sát với giá trị thực của tài sản theo giá thị trường do đó tạo ra sự thua thiệt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Hơn thế nữa không có luật nào xem xét đến tài sản vô hình như là loại tài sản có thể thế chấp. Bên cạnh đó, họ cũng không thể sử dụng hàng hoá của mình để thế chấp bởi vì các DNNQD thường sản xuất nhiều mặt hàng. Nhiều ngân hàng phàn nàn rằng vốn đăng ký của các doanh nghiệp tư nhân thường rất hạn chế so với quy mô sản xuất của họ trong khi đó nhu cầu vay vốn thì lớn hơn nhiều điều này làm cho họ không thể đáp ứng những yêu cần của ngân hàng trong việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn. Theo luật quy định thì doanh nghiệp nộp đơn phải có vốn đăng ký chiếm khoảng 30% tổng số vốn được vay. Hơn thế nữa các doanh nghiệp cũng không thể trình ngân hàng những tài liệu đúng, chính xác về tình trạng tài chính của chính mình hoặc những tài liệu này không có chứng nhận của cơ quan kiểm toán nhà nước. Điều này khiến các ngân hàng không thể tiến hành kiểm tra để cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp được . Thứ 3: Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều coi lợi nhuận là hàng đầu, tuy vậy họ vẫn cảm thấy miễn cưỡng khi phải cho các DNNQD vay. Bên cạnh đó thì chi phí giao dịch cũng không đáng kể khi tài trợ cho DNNQD, chúng cũng xấp xỉ bằng chi phí cho các doanh nghiệp lớn . Năm 2000 6 tháng năm2001 DNNQD 10,78% 4,5% Các doanh nghiệp khác 89,22% 88,5% Hình 3. Bảng phân phối nguồn vốn cho các Doanh nghiệp Nguồn: Tạp chí KTPT 7/ 2001 Điều này một lần nữa chứng tỏ rằng DNNQD chưa phải là đối tượng được các ngân hàng quan tâm. Mặc dù đứng về mặt pháp lý mà nói thì các chủ thể là bình đẳng nhưng trong thực tế thì lại không diễn ra như mong muốn. Vì vậy cần phải xem xét lại nghiêm túc vấn đề này nhằm thay đổi thái độ của xã hội đối với sự phát triển tất yếu của DNNQD. Thứ 4: Bên cạnh những hạn chế về sự hỗ trợ do DNNQD thì luật bảo lãnh tín dụng lại dường như nghiêng về phía các DNNN. DNNN với sự bảo lãnh từ các cơ quan chủ quản có thể vay mà không cần cầm cố hay thế chấp một cách dễ dàng. Hơn nữa do chính sách tiền tệ tín dụng còn nhiều bất hợp lý: hệ thống tài chính trung gian chưa phát triển. Các DNNN được lập ra là tức khắc được quyền đòi tài chính cấp vốn, đòi ngân hàng cho vay. Nợ đến hạn không trả cũng chẳng sao vì chỉ phải chuyển sang chịu phạt lãi suất nợ quá hạn, tuy có cao hơn mức lãi suất trả đúng hạn nhưng vẫn còn thấp hơn tốc độ mất giá của đồng tiền. Do đó những khoản vay ưu đãi giành cho DNNQD lại thường chảy vào những DNNN mà có mối quan hệ tốt với ngân hàng và cơ quan chủ quản của họ hơn là đến với những DNNQD. Theo thống kê chính thức năm 2000 cho thấy tỷ lệ vốn tín dụng trong tổng số vốn kinh doanh của khu vức kinh tế ngoài quốc doanh là 19% trong khi đó tỷ lệ vốn tín dụng trong kinh tế quốc doanh là 40% thậm chí có nhiều nơi lên tới 80-90%. Hầu hết các hỗ trợ của chính phủ đều dành cho kinh tế quốc doanh. Đa số các doanh nghiệp tư nhân không may mắn tiếp cận được các chính sách ưu đãi, khuyến khích của chính phủ như quỹ xuất khẩu hay vốn ưu đãi bởi vì thủ tục hành chính, giấy tờ, dấu má quá phức tạp. Theo thống kê của phòng công nghiệp và thương mại Việt nam cho thấy chỉ 10% doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được với chính sách ưu đãi, khuyến khích của chính phủ trong đó có trên 60% nói rằng họ đã phải vượt qua nhiều cửa ải, chịu không ít tốn kém mới được may mắn nhưng kết quả cuối cùng chỉ mang lại kết quả tinh thần thay cho giá tri vật chất. Thứ 5: Thủ tục giải ngân áp dụng cho DNNQD cũng khá phức tạp. Thủ tục tối thiểu gồm các bước cơ bản sau: +Nghiên cứu khả thi +Tài sản thế chấp được công chứng bởi cơ quan công quyền +Định giá tài sản thế chấp +Nộp đơn +Giải ngân Nghiên cứu khả thi hay sự thành lập kế hoạch kinh doanh cũng lại là một vấn đề đối với DNNQD.Trong khi đó khả năng thiết kế một nghiên cứu khả thi đối với DNNQD rất hạn chế, các dịch vụ hỗ trợ thì lại kém phát triển. Hiện nay thủ tục giải ngân bao gồm 10 giai đoạn điều đó cho thấy tính phức tạp của vấn đề. Phần lớn các DNNQD cho rằng thủ tục này nên giảm xuống còn 5 là vừa : đơn xin, kế hoạch kinh doanh, hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp, tình trạng tài chính và chữ ký xác nhận của giám đốc . Thứ 6: Một vấn đề khác đến từ phía các doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh của họ thường không cung cấp đầy đủ thông tin cho ngân hàng để có thể đánh giá. Các kế hoạch cũng không rõ ràng về chi phí, đầu tư, công nghệ, lợi ích của dự án...dẫn đến ngân hàng mất nhiều thời gian cho việc thẩm định dự án. Các ngân hàng thì kêu ca rằng khả năng thiết lập một kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp là rất hạn chế và thường không chứng minh được tính khả thi của dự án đó. Bên cạnh đó chúng ta càng cần quan tâm đến sự thật rằng rất nhiều ngân hàng cũng thường chỉ chú ý tới tài sản thế chấp mà bỏ qua kế hoạch kinh doanh, hoặc nếu có thì lại cho rằng do trình độ của cán bộ ngân hàng yếu kém hay do tiêu cực dẫm đến không đánh giá đúng vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi cả ngân hàng và các doanh nghiệp đều không tin tưởng ở nhau làm cho ngân hàng thì ứ đọng vốn còn doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Thứ 7: DNNQD dường như không quan tâm lắm đến việc vay từ ngân hàng do lệ phí và thủ tục không rõ ràng. Các chi phí phụ đối với các DNNQD khi tiếp nhận tín dụng từ các nguồn tài chính chính thức là: Chi phí cơ hội. Chi phí cho việc công chứng tài sản thế chấp. Tài sảu thế chấp có thể bị đáng giá thấp bởi ngân hàng làm giảm khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể vay từ ngân hàng và cuối cùng họ phải đi vay từ các nguồn khác, tài sản của doanh nghiệp còn tiếp tục bị giảm giá trị khi thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phá sản và giải thể. Đây là những tổn thất lớn cho DNNQD. Các ngân hàng thường từ chối chịu khoản phí trả chi phí này nhưng đứng về mặt nguyên tắc mà nói thì doanh nghiệp là khách nàng của ngân hàng và tất nhiên các doanh nghiệp không phải là người trả cho các khoản phí đó. Điều này cho thấy ngân hàng vẫn còn trong tình trạng tương đối độc quyền mà chưa thấy được rằng chính các doanh nghiệp là lý do tồn tại của họ. Chi phí cho tư vấn lập nghiên cứu khả thi. Chi phí ngầm cho các quan chức ngân hàng khi họ thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của doanh nghiệp hoặc trong quá trình trả tiền vay. Chi phí vô hình cho mất nhiều thời gian, công sức, thái độ tồi của các nhân viên ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ lãi suất cho vay theo cơ chế thoả thuận hiện nay là tương đối hợp lý nhưng tổng các khoản chi phí không chính thức lại vượt quá khả văng của các doanh nghiệp. Điều này dẫn tới kết cục là phần lớn các DNNQD đều tìm cách hạn chế hoạt động trong phạm vi vốn của mình làm giảm khả năng mở rộng hoạt động SX-KD. Phần lớn trong số đó đề cao nguồn vốn tự có, từ bạn bè hay gia đình. Điều này chứng tỏ các ngân hàng không và chưa được coi là nơi tin cậu để tài trợ cơ bản cho DNNQD và chính sách tín dụng vẫn còn quá nhiều hạn chế trong việc hỗ trợ DNNQD phát triển. (Đơn vị : %) Nguồn Tỉ lệ DNV &N nộp đơn xin vay tín dụng Tỉ lệ thành công Tổng các nguồn Trong đó: - Ngân hàng thương mại Nhà nước&tư nhân - Quỹ tín dụng của chính phủ - Dự án quốc tế - Gia đình bạn bè - Cá nhân ( vay lãi ) - Các nguồn khác 54,5 24,7 8,7 1,9 38,8 11,2 2,6 20,2 7,1 1,3 38,5 10,6 1,9 Hình 4. Nhu cầu và khả năng nhận được tín dụng Nguồn: Phòng công nghiệp và thương mại Việt nam Về chính sách thuế Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan xuất hiện và tồn tại trong mọi xã hội có Nhà nước. Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, làm thay đổi cung - cầu. Trong những năm vừa qua đặc biệt 3 năm gần đây khi Việt nam đang gấp rút chuẩn bị cho tiến trình hội nhập AFTA, Nhà nước ta đã không ngừng cải cách sửa đổi hoàn thiện hệ thống thuế từ đó góp phần tạo dựng môi trường vĩ mô thông thoáng cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ đặc biệt là DNNQD. Điều này được thể hiện thông qua việc Nhà nước ban hành một số luật thuế mới hoặc sửa đổi chúng sao cho phù hợp hơn bao gồm luật thuế giá trị gia tăng(GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc thực thi các qui định được đổi mới trong hai luật thuế này có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của doanh nghiệp trên cả hai mặt. Tác động tích cực Luật thuế GTGT được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11 (10-5-1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Trong giai đoạn đầu áp dụng luật thuế mới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp. Thứ hai, thuế GTGT và các luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước mở rộng quy mô đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp từ đó khuyến khích các tổ chức cá nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển SX-KD phát huy nội lực. Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, kích thích phát triển SX-KD hàng hoá. Luật thuế GTGT quy định một số loại hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp được thay cho thuế lợi tức công ty đã mở rộng đối tượng chịu thuế với chế độ đối xử thống nhất cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Xoá bỏ chế độ lợi tức ưu đãi với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ đó đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Những tồn tại trong quá trình thực thi cần được tháo gỡ Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực các luật thuế trên đây có một số tồn tại gây khó khăn cho doanh ngiệp đặc biệt là các DNNQD. Trước hết là sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Điều này thể hiện qua sự không nhất quán trong việc xác định chi phí hợp lý và chi phí thực tế để tiến hành khấu trừ từ lợi nhuận chịu thuế và lợi nhuận bổ sung gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân. Chẳn hạn đối với một DNNN một qui định mới được áp dụng với họ là mỗi khi chi phí đầu vào mua bằng ngoại tệ tăng lên thì hàng tồn kho sẽ được tính lại để duy trì nguồn vốn nhưng qui định này không được áp dụng đối với doanh nghiệp tư nhân nên họ phải dùng nguồn vốn của chính mình để nộp thuế bất kể làm ăn có lãi hay không. Như vậy vô hình chung vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp đã khan hiếm nay càng bị ít hơn. Thứ hai là về mức thuế suất. Trong các cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng chính phủ với các doanh nghiệp thì cũng đã không ít doanh nghiệp kêu ca phàn nàn về mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% so với thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp như hiện nay là cao. Đồng thời xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp tư nhân trước khi thay đổi luật thuế chịu thuế suất thấp nay lại phải chịu mức thuế suất cao hơn, điều này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong SX-KD. Thứ ba là các qui định trong hệ thống thuế vẫn còn phức tạp, rườm rà thiếu tính chặt chẽ và mang tính chắp vá. Chẳng hạn riêng trong vấn đề thực thi thuế GTGT cũng đã nảy sinh ra bao vấn đề cần tháo gỡ: + Việc khấu thuế GTGT và xét giảm thuế. Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế và không chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp. Những quy định khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá thiếu tính đồng bộ. Chẳng hạn việc đánh thuế cửa nhôm được công ty Việt Châu nêu lên trong cuộc gặp gỡ với doanh nghiệp do cục thuế Tp Hồ Chí Minh tổ chức. Đó là ngành xây dựng cũng như ngành xản xuất cơ khí phục vụ dân dụng giảm 50% thuế GTGT (còn 5%) trong khi đó trường hợp chỉ cung cấp và lắp đặt cửa nhôm thì phải chịu thuế GTGT với mức thuế suất là 10%. + Về phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn trong nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết song trên thực tế lại nảy sinh những điều bất cập, gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp; gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế hoặc xảy ra tình trạng thuế chồng thuế. + Về xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Thuế suất hàng nhập khẩu, nhất là đối với nguyên nhiên vật liệu còn quá cao. Việc áp dụng mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do vậy, nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và hoàn thành thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng chậm chễ trong việc hoàn thuế. Chính sách đất đai Đất đai là một yếu tố sản xuất không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp. Để đầu tư sản xuất trước hết các doanh nghiệp phải có một quỹ đất nhất định. Nói chung quỹ đất dùng cho SX-KD là không nhỏ. Trên mảnh đất của mình các doanh nghiệp sẽ tiến hành xây dựng nhà xưởng, đầu tư máy móc trang thiết bị và đi vào hoạt động SX-KD. Do đó, nếu quỹ đất của mỗi doanh nghiệp là ổn định thì quá trình SX-KD sẽ nhanh chóng được tiến hành và phát huy hiệu quả.Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng may mắn có được quỹ đất đáp ứng được nhu cầu và ổn định trong quá trình hoạt động, đặc biệt là các DNNQD. Về thủ tục xin giao đất hoặc cho thuê đất đối với DNNQD. Theo điều 13 của nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 của CP về việc sửa đổi, bổ xung một số điều về qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của CP đối với các dự án SX-KD của tư nhân, tổ chức kinh tế không phải là DNNN có yêu cầu giao đất hoặc thuê đất thì chủ đầu tư phải có đơn đề nghị kèm theo dự án SX-KD đã được chấp thuận về địa điểm, diện tích đất cần có của dự án và làm thủ tục giao đất hoặc thuê đất theo qui định của pháp luật về đất đai hiện hành. Trên thực tế, việc thuê đất lại là một quá trình hết sức phức tạp, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh... Khó khăn đầu tiên khi các DNNQD đi thuê đất là các thủ tục quá phiền hà và rắc rối. Hiện không có một cơ quan chuyên trách nào quản lý các vấn đề liên quan đến đất đai. Do vậy, doanh nghiệp phải chờ phê duyệt của rất nhiều cơ quan quản lý địa phương. Theo số liệu từ một chuyên đề nghiên cứu tư nhân, để thuê được đất, doanh nghiệp phải chờ từ 3 đến 8 tháng. Một số doanh nghiệp nói rằng họ phải chờ lấy “dấu đỏ” của hơn 20 bộ phận khác nhau. Tất nhiên đi kèm với nó sẽ có nhiều khoản chi phí không chính thức tương ứng với mỗi con dấu. Một minh chứng cho việc rườm rà, phức tạp của các thủ tục liên quan đến đất đai là: Luật đất đai qui định điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là dự án đã được cấp có thẩm quyền “phê duyệt”. Trong khi Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999 của chính phủ qui định dự án của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do chủ đầu tư tự quyết định. Ngay cả nghị định 12/2000/NĐ-CP của CP về việc sửa đổi bổ xung một số điều của qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 52 đã nêu trên mới qui định rõ về việc UBND cấp có thẩm quyền của địa phương “chấp thuận” về địa điểm đất của dự án để làm thủ tục thì mới có cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, nghị định này lại qui định thêm một điều kiện phi thực tế là dự án đầu tư SX-KD đã được chấp nhận trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong khi từ tháng 1/2000 luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành đã bãi bỏ thủ tục nộp dự án, phương án đầu tư ban đầu trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Tất cả những sự chồng chéo không hợp lý này đã cản trở sự năng động của các DNNQD. Không thuê được đất, không quỹ đất, không có đất các doanh nghiệp phải chờ đợi quá lâu để có thể tiến hành hoạt động SX-KD của mình. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNQD. Về công tác quản lý đất đai của các cấp chính quyền: Về qui hoạch sử dụng đất, điều 6 nghị định 51 có qui định “UBND tỉnh, TP trực thuộc trung ương định kỳ hàng năm công bố qui hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, công bố quĩ đất chưa sủ dụng , quĩ đất đang có nhu cầu cho thuê để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký nhận thuê”. Song cho đến nay, nhiều địa phương vẫn chưa làm được việc này, điều đó dẫn đến tình trạng quĩ đất có nhưng các doanh nghiệp thì vẫn không thể thuê được đất để hoạt động. Xin tiếp tục đưa ra đây một số thực trạng về hầu hết các chính quyền cơ sở buông lơi trách nhiệm trong công tác quản lý đất đai : Việc giao đất, cho thuê đất từ năm 1993 đến năm 2001, chỉ tính có 8 tỉnh trọng điểm đã có trên 1 vạn tổ chức, ban Quản Lý dự án, doanh nghiệp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Tp Hồ Chí Minh có trên 3000 dự án, Bình Dương có 1856 dự án, Đồng Nai có 1600 dự án, Bà Rịa-Vũng Tàu 1400 dự án, Hà Nội có trên 1000 dự án, Hà Tây và Quảng Ninh mỗi tỉnh có trên 100 dự án. Tình trạng chung là các chính quyền chỉ thực hiện giao đất, cho thuê đất còn không kiểm tra thực trạng sử dụng đất của các tổ chức, ban Quản Lý dự án và các doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều dự án được giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích. Qua sơ bộ kiểm tra đã có 55 doanh nghiệp ở Tp Hồ Chí Minh “om” 62 ha, 11 doanh nghiệp ở Đồng Nai “om” 45 ha, 1 công ty ở Bình Dương “om” 2,04 ha. Nhiều tổ chức sử dụng không đúng mục đích đất được giao. Sơ bộ có 79 tổ chức ở Tp Hồ Chí Minh sử dụng sai 34,7 ha, 7 tổ chức ở Lạng Sơn sử dụng sai 1,25 ha. Qua kiểm tra việc sử dụng đất còn phát hiện ra nhiều doanh nghiệp “ma” như ở Bình Dương có 180 doanh nghiệp “ma” và Đồng Nai là 43... Tình trạng chính quyền tỉnh, thành phố cho phép các doanh nghiệp nhận trước quyền sử dụng đất của dân kể cả đất nông nghiệp để xây dựng công trình rồi mới làm thủ tục giao đất cho thuê đất sau cũng sảy ra ở nhiều nơi. Điều này khiến cho chính quyền địa phương không kiểm soát được đất đai, không hiếm trường hợp chuyển nhượng đất đã lâu nhưng vẫn không làm thủ tục giao đất, cho thuê đất. Việc thu hồi đất bỏ hoang, đất của các DNNN không sử dụng để chuyển quyền sử dụng cho các DNNQD cũng đang gặp nhiều khó khăn. Như ở Hà Nội, trong năm 2002, thành phố Hà Nội đề ra chỉ tiêu thu hồi đất bỏ hoang, không sử dụng của 45 trường hợp. Nhưng trong quá trình tiến hành thu hồi đất đã gặp rất nhiều sự chống đối. Đặc biệt một số công ty để tránh bị thu hồi đất đã tìm cách “lách luật”- hợp thức hoá các vi phạm của mình. Công ty khi nghe tin bị thu hồi đã nhanh cháng lập 1 dự án SX-KD trình lên cơ quan chủ quản phê duyệt và chính cơ quan chủ quản đã đề nghị hoãn quyết định thu hồi đất. Điều đáng lưu ý ở đây là một khi vài doanh nghiệp đã lách luật thành công thì nó sẽ trở thành 1 tiền lệ xấu gây cản trở cho việc xử lý các trường hợp vi phạm đất đai khác. Và cuối cùng vẫn có doanh nghiệp giữ đất mà không làm gì cả còn các doanh nghiệp khác không tìm đâu ra đất để sử dụng, tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra” sẽ vẫn còn tồn tại nếu ta không có biện pháp hữu hiệu nào để quản lý chặt chẽ hơn việc sử dụng đất đai. Sự bất bình đẳng trong sử dụng đất. Trong lúc các DNNQD phải chờ đợi hoặc không thể thuê được đất thì nhiều DNNN hiện nay đang được hưởng những lợi thế không công bằng về đất đai. Nhiều DNNN hiện đang nắm giữ những diện tích đất lớn bỏ không hoặc sử dụng sai mục đích ở những vị trí trung tâm thuận tiện tại các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh...trong khi hầu hết những doanh nghiệp vừa và nhỏ mới đăng ký không thể kiếm được một mảnh đất trống phù hợp để thuê hoặc mua lại. Chính tình hình này đã làm nảy sinh quan hệ cung cầu về đất đai, những giao dịch ngầm trái với chủ trương chính sách của Nhà nước và có khi là trái pháp luật. Giải pháp mà hiện nay một số DNNQD lựa chọn là thuê lại đất từ các DNNN - những DNNN làm ăn bi bét nhưng lại nắm giữ những miếng đất thuận lợi. Khảo sát thực tế ở một số tỉnh thành về tình trạng thuê lại đất cho thấy nhiều DNNQD phải thuê lại đất của các DNNN để sản xuất, như tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh chỉ có 51% doanh nghiệp sử dụng đất tự có để SX-KD, số còn lại đi thuê của tư nhân hoặc thuê lại của các DNNN hoặc của các tổ chức khác. Ngoài thiệt thòi phải trả chi phí cao (tiền thuê đất, tiền đền bù...), các trường hợp thuê lại không được áp dụng bất kỳ biện pháp ưu đãi nào về miễn giảm tiền thuê đất (vì luật KKĐTTN không có qui định nào về trường hợp thuê lại đất). Một bất bình đẳng nữa là trong quĩ đất dành cho các doanh nghiệp thuê thì DNNN được thuê tới 86% diện tích đất, còn lại 14% là dành cho các DNNQD. Sau khi đi thuê đất, việc chuyển mục đích sử dụng đất là một trong những khâu khó khăn nhất. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thiệt thòi trong trong việc chuyển mục đích sử dụng đất. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất và tiền thuê đất cho chính mảnh đất mà mình đã sử dụng trước đó. Đây là những khoản tiền không nhỏ đối với họ. Hoặc nhiều doanh nghiệp tư nhân đã bỏ vốn ra mua đất của dân rồi nhưng do chính sách quản lý đất đai thay đổi lại phải làm thủ tục thuê đất của Nhà nước. Nhưng giải pháp thuê lại đất của DNNN cũng chỉ tạm thời và không được bảo đảm, thời hạn thuê thường rất bấp bênh. Phần lớn các trường hợp là thuê không có hợp đồng, thường chỉ có những thoả thuận miệng, có thể gia hạn theo từng năm và có thể bị huỷ bỏ bất kỳ lúc nào. Điều này làm cho các doanh nghiệp không yên tâm đầu tư nâng cấp nhà xưởng, cơ sở hạ tầng. Do đó đã kìm hãm sự phát triển của công ty, làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNQD. Thực trạng thuê đất trong các khu công nghiệp. Chính phủ và các địa phương luôn luôn khuyến khích và tạo điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp (KCN). Trong những năm gần đây, hàng loạt KCN mọc lên ở cả 3 miền Bắc Trung Nam với cơ sở hạ tầng tốt và điều kiện ưu đãi nhằm thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp. Theo nghị định số 192/CP ngày 25-12-1994 của chính phủ ban hành về qui chế KCN ở Việt Nam, nghị định số 36/CP ngày 24-4-1997 của CP về qui chế KCN, khu chế xuất (KCX), khu công nghệ cao, các khu chế xuất Tân Thuận, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Linh Trung...lần lượt được thành lập. Tính đến cuối năm 2001 đã có 69 khu công nghiệp được quyết định thành lập. Điều này tạo điều kiện cho các DNNQD có thể tham gia vào KCN (thuê đất) và tiến hành hoạt động một cách nhanh chóng mà không phải chờ đợi quá lâu để thuê đất sử dụng nữa. Nhưng trên thực tế, giá thuê đất trong các KCN còn quá cao đối với phần nhiều các DNNQD nhỏ mới đăng ký. Theo khảo sát mới đây của Ban quản lý các KCN, KCX Hà Nội có tới 68,7% doanh nghiệp được hỏi đều trả lời là đang gặp nhiều khó khăn về mặt bằng SX-KD. Tuy nhiên khi được hỏi lý do tại sao chưa tìm đến KCN để thuê đất thì hầu hết các DNNQD đều cho rằng việc thuê lại đất trong các KCN là điều xa xỉ đối với họ. Cũng có các chính sách giao đất tại các KCN cho các doanh nghiệp trong nước để thuê đất thế nhưng thời hạn trả tiền thuê đất, giá thuê của các KCN này chưa phù hợp với phần đông doanh nghiệp trong nước. Xin đưa ra đây một số ví dụ: Theo báo cáo đến cuối tháng 3/2001, tại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0086.doc
Tài liệu liên quan