Mục lục
Lời mở đầu 4
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 5
1 Chứng khoán 5
1.1 Khái niệm chứng khoán 5
1.2 Phân loại chứng khoán 5
1.2.1 Cổ phiếu 5
1.2.2 Trái phiếu 6
1.2.3 Chứng chỉ quỹ 7
1.2.4 Chứng khoán phái sinh 8
2 Thị trường chứng khoán 9
2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 9
2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11
2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán 11
2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán 12
2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán. 14
2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán 16
2.4 Phân loại thị trường chứng khoán 17
2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 19
2.5.1 Nhà phát hành 19
2.5.2 Nhà đầu tư 20
2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 20
2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán .21
2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 22
2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường 22
2.6.2 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23
2.6.3 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23
II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25
1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25
2 Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 26
3 Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 28
3.1 Những thuận lợi 28
3.2 Những khó khăn 30
4 Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 32
4.1 Một số mặt tích cực 32
4.2 Một số mặt hạn chế 35
III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 38
1 Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 38
1.1 Mục tiêu phát triển 38
1.2 Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán 38
2 Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán. 39
Kết luận 42
Tài liệu tham khảo 43
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2170 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin thị trường chứng khoán phải thoả mãn các yêu cầu: chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận.
Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ nhà đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
- Nguyên tắc trung gian:
Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán trực tiếp thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư.
Nguyên tắc trung gian trong giao dich chứng khoán được thực hiện thông qua các nhà môi giới và các thương gia chứng khoán hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán.
Các trung gian môi giới phải là những người có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền kinh tế.
- Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trướng sơ cấp, các nhà phát hành (doanh nghiệp niêm yết chứng khoán) cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
- Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó.
- Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán
Bất cứ thị trường chứng khoán nào, của bất kỳ quốc gia nào, dù mới thành lập hay đã phát triển, đều cấu thành bởi hai bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau đó là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị truờng sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán lần đầu được phát hành. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một “kênh” thu hút huy động nguồn tiền nhàn rỗi của công chúng chuyển thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nhà phát hành (doanh nghiệp niêm yết chứng khoán) thực hiện bán các chứng khoán mới cho nhà đầu tư làm tăng thêm được một lượng vốn mới.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những loại chứng khoán giao dịch ở đây có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau.
Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn, để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Sự hoạt động của thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành, nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào chứng khoán vì khi cần tiền, họ có thể bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.
Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, còn thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì thị trường thứ cấp sẽ không có hàng hóa (chứng khoán) để giao dịch. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. Nếu thị trường sơ cấp tạo thêm vốn cho nền kinh tế thì thị trường thứ cấp có vai trò phân phối các nguồn vốn đó vào các khu vực, lĩnh vực kinh tế khác nhau sao cho việc sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Vì thế, mặc dù hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng thêm vốn đầu tư cho nền kinh tế song với sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của thị trường thứ cấp làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển.
2.4 Phân loại thị trường chứng khoán
- Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường:
+ Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): các giao dịch mua bán trên thị trường chứng khoán chủ yếu được diễn ra trên thị trường chứng khoán tập trung hay còn gọi là sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là thị trường chứng khoán tập trung, nơi các thành viên của sở gặp gỡ nhau để mua bán các loại chứng khoán đã được niêm yết một cách có tổ chức theo luật định. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán là các công ty chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán chỉ là thị trường giao dịch, không tham gia mua bán các loại chứng khoán; không ấn định giá chứng khoán và không can thiệp vào quá trình hình thành giá chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán chỉ đảm bảo cho việc mua bán chứng khoán (bằng hình thức đấu giá) diễn ra đúng pháp luật, công khai, tránh lừa đảo và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
+ Thị trường chứng khoán phi tập trung: Thị trường chứng khoán ngoài sở giao dịch chứng khoán còn được gọi là thị trường chứng khoá phi tập trung. Tính phi tập trung thể hiện rõ nét ở phương thức hình thành giá chứng khoán. Việc giao dịch mua bán chứng khoán không theo phương thức đấu giá mà được thực hiện thông qua thương lượng (thoả thuận) giữa các nhà môi giới chứng khoán. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà thị trường giao dịch ngoài sở giao dịch chứng khoán có thể bao gồm: thị trường OTC (over the counter), thị trường thứ ba, thị trường cửa hiệu, thị trường chợ đen và một vài thị trường đặc biệt khác. Hàng hoá giao dịch tại thị trường phi tập trung chủ yếu là chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ điều kiện (tiêu chuẩn) niêm yết. Nói cách khác, chứng khoán được niêm yết trên thị trường phi tập trung có phẩm cấp kém hơn chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung (phụ thuộc chủ yếu vào quy mô doanh nghiệp). Trong hệ thống thị trường chứng khoán phi tập trung thì thị trường OTC thường có thị phần lớn nhất.
- Căn cứ vào mức độ quản lý của Nhà nước:
+ Thị trường chứng khoán chính thức: là thị trường chứng khoán có sự quản lý của nhà nước, đó là các sở giao dịch chứng khoán và chỉ tổ chức giao dịch các chứng khoán đã được phép niêm yết.
+ Thị trường chứng khoán phi chính thức: chỉ còn lại thị trường tự do, thị trường OTC… (các đối tượng tham gia thị trường không cần phải tuân thủ bất kỳ quy tắc luật lệ nào). Xét về mặt lịch sử, thị trường OTC được hình thành tự do rất lâu và đã từng là một bộ phận của thị trường phi chính thức. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, hệ thống thị trường OTC, xét từ góc độ quản lý nhà nước, đã có sự phát triển nhảy vọt, được tách ra khỏi hệ thống thị trường tự do (nằm ngoài quỹ đạo quản lý chung) và hình thành một hệ thống thị trường được tổ chức và chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước ( tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu và khả năng quản lý của mỗi quốc gia).
- Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa trên thị trường:
+ Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành (trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái phiếu chính phủ).
+ Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn.
- Căn cứ vào thời điểm giao dịch:
+ Thị trường giao ngay: còn gọi là thị trường thời điểm, có nghĩa là thị trường giao dịch mua bán theo giá của ngày hôm đó. Còn việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày tuỳ theo mỗi thị trường chứng khoán.
+ Thị trường tương lai: là thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng mà giá cả đã được thoả thuận ngay trong ngày giao dịch, nhưng thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kì hạn nhất định trong tương lai có thể là 1 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm…
2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
2.5.1 Nhà phát hành
Là các tổ chức thự hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành các chứng khoán-hàng hoá ra thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ… phục vụ cho hoạt động của họ.
2.5.2 Nhà đầu tư
Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, gồm hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Vì vậy, họ luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức (các định chế đầu tư) thường mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi. Bên cạnh đó các công ty chứng khoán, các ngân hang thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình.
2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; có thể đảm nhận một hoặc nhiều các nghiệp vụ: bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Để thực hiện mỗi ngiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Các ngân hàng thương mại: tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng khoán. Tuy nhiên, họ chỉ được đầu tư trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động cuả giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước: được thành lập để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
Tại Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng đã được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28.11.1996 của Chính phủ. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: Thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức gồm nhiều bộ phận. Sở giao dịch chứng khoán cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán phù hợp với những quy định của luật pháp và Ủy ban Chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho lĩnh vực chứng khoán nói chung.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán: được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau; một số nước không có loại hình tổ chức này.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty, vì thế một công ty phát hành có thể mang nhiều hệ số tín nhiệm.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra các quyết định đầu tư của mình.
2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường
Điều hành thị trường là các hoạt động được tiến hành nhằm duy trì sự vận hành bình thường của thị trường, hoạt động này thường được tiến hành bởi các chủ thể có quyền lực nhất định (các cơ quan quản lý Nhà nước).
Giám sát thị trường là việc tiến hành theo dõi, kiểm tra các hoạt động diễn ra trên thị trường của các cơ quan quản lý Nhà nước, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của thị trường.
2.6.2 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán luôn luôn tồn tại tính hai mặt của nó đó là mặt tích cực và tiêu cực. Những mặt tiêu cực của nó có thể gây tác động xấu đến thị trường và các hoạt động kinh tế xã hội, đó chính là các hành vi gian lận, lừa đảo trong giao dịch chứng khoán như đầu cơ, mua bán nội gián, thao túng giá cả… Vì vậy,cần phải có một cơ chế điều hành và giám sát chặt chẽ mọi mặt hoạt động của thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp của thị trường chứng khoán, việc điều hành và giám sát thị trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường, tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển kinh tế.
2.6.3 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Tại mỗi quốc gia, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường chứng khoán gồm 2 nhóm: các cơ quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản.
- Các cơ quan quản lý của Chính phủ:
Đây là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Nhìn chung các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động trên thị trường chứng khoán tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. Thông thường các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ gồm có Ủy ban Chứng khoán và một số bộ ngành liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước.
- Các tổ chức tự quản:
Các tổ chức tự quản là các tổ chức hình thành cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện chức năng quản lý và giám sát thi trường trên cơ sở tuân thủ các quy định của các tổ chức quản lý và giám sát thị trường của Chính phủ.
Các tổ chức quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản là hai hình thức điều hành và giám sát thị trường chứng khoán. Ở mỗi quốc gia khác nhau, sự áp dụng các hình thức cũng khác nhau. Tuy nhiên, để đảm bảo thị trường chứng khoán được điều hành và giám sát có hiệu quả cần phải có sự kết hợp hai hình thức này trên cơ sở phù hợp với điều kiện của từng nước.
II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Để tiến hành công nghiệp hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầu đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm 1991- 1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8%/ năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996- 2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9- 9,5%/ năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40- 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500- 600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kì kinh doanh trong tương lai, giúp Nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp.
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng.
2. Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Việc buôn bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhưng thị trường chứng khoán nước ta mới chính thức hoạt động từ năm 2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28-7-2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỉ đồng và 6 công ty chứng khoán thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị trường mới chỉ tăng lên 0,5 tỉ USD. Vài năm gần đây mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm 38% GDP), tăng hơn 1400 lần so với năm 2000, và nếu tính cả trái phiếu thì đạt mức 46% GDP.
Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể. Tính đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ vào khoảng 4 tỉ USD. Theo dự tính, quy mô của thị trường còn tiếp tục được mở rộng do các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá sẽ tiếp tục niêm yết vào năm 2007-2008 trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với số vốn lên tới hàng ngàn tỉ đồng.
Chỉ số VN-Index cũng đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường. Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28-7- 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thì tháng 3 - 2007, chỉ số này đã đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau một vài tháng giảm sút, hiện nay VN-Index đang dao động xung quanh ngưỡng 1.000 điểm (đến giữa tháng 5-2007 đã lên 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức cũng tăng lên đáng kể, hiện có 35 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó 23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước. Ngoài ra, còn có gần 50 tổ chức đầu tư theo hình thức uỷ thác qua công ty chứng khoán.
Hệ thống các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Tính đến nay, trên thị trường có khoảng 55 công ty chứng khoán, tăng mạnh hàng năm, vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra, còn có sự tham gia của 18 công ty quản lý quỹ, 41 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký.
Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đã tạo khung pháp lý cao cho thị trường chứng khoán phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam.
Những vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán từng bước được hoàn thiện. Đáng chú ý là Chính phủ đã chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát thị trường chứng khoán ở nước ta, do đó thị trường này vẫn đang ổn định và phát triển khá mạnh.
3. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
3.1 Những thuận lợi
Việc đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động sẽ tạo ra một động lực mới cho nền kinh tế, tạo ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp cổ phần trong việc huy động vốn đầu tư và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhanh chóng hơn. Thị trường chứng khoán hoạt động sẽ là một thành viên tích cực, năng động trong thị trường tiền tệ.
- Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
- Chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
- Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao, để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD.
- Nền kinh tế đã thay đổi sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở các nông thôn và thành thị. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực dịch vụ và có xu thế phát triển rộng ra các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp liên doanh và cổ phần đã thu hút vốn của nhiều hình thức sở hữu trong nước và nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số công ty, doanh nghiệp Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Nền kinh tế thị trường cũng đang làm thay đổi dần thói quen và nếp sống, nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng và tích luỹ của mình.
- Đảng, Nhà nước quyết tâm cao trong việc tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán, đó là phát hành công trái để xây dựng tổ quốc, tín phiếu kho bạc, thực hiện cổ phần hoá cho các doanh nghiệp Nhà nước, tăng chứng khoán có uy tín trên thị trường.
- Chúng ta đang tiến hành cải cách đổi mới nền hành chính quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức đủ “tâm” đủ “tầm” hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do vậy hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ngày càng có hiệu quả cao. Chúng ta đã có nhiều bộ luật mới sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là môi trường pháp luật thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán.
- Hệ thống tin học phát triển nhanh phục vụ giao dịch chứng khoán tự động, hiện đại. Hệ thống kiểm toán xử lý thông tin kết quả kiểm tra đang phát triển từng bước phục vụ cho thị trường chứng khoán.
- Chế độ kế toán doanh nghiệp mới sửa đổi và ban hàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72977.DOC